Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Chế độ tài sản vợ chồng theo thoả thuận trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.26 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGÔ THỊ HƢỜNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là
công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là
trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào. Tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về luận văn này nếu có
sự tranh chấp.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2014
Nguyễn Thị Kim Dung




MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG THEO THỎA THUẬN ........................................................................ 6
1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng ....................................................... 6
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng........................................................ 6
1.1.2. Các loại chế độ tài sản vợ chồng .................................................................. 9
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng ...................................................11
1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ...........................................16
1.2.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ của chồng theo thỏa thuận ............................16
1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ...17
1.2.3. Đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận .............................21
1.2.4 .Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo pháp luật một số nước 24
1.2.4.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo BLDS của Cộng hòa
Pháp ......................................................................................................................24
1.2.4.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo BLDS Nhật Bản ......27
1.2.4.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo BLDS và Thương mại
của Thái Lan .........................................................................................................28
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
THEO THỎA THUẬN…………………………………………………………..31
2.1. Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong pháp luật thời kỳ Phong kiến ...........31
2.2. Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ..........33
2.2.1. Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ ............................................................................34
2.2.2. Tại Nam Kỳ ................................................................................................37
2.3. Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong pháp luật từ Cách mạng Tháng
Tám đến nay .......................................................................................................38
2.3.1. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật từ tháng 8 năm
1945 đến năm 1954 ..............................................................................................38

2.3.2. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật từ năm 1954 đến
năm 1975 ..............................................................................................................39


2.3.3. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật từ năm 1975 đến
nay ........................................................................................................................45
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN ....................................49
3.1. Những hạn chế của chế độ tài sản vợ chồng trong Luật HN&GĐ
năm 2000 .............................................................................................................49
3.1.1. Tính cứng nhắc, không linh hoạt của quy định hiện hành về chế độ tài sản
của vợ chồng ........................................................................................................49
3.1.2. Quy định hiện hành đối với chế độ tài sản vợ chồng chưa theo kịp xu
hướng hội nhập, giao lưu quốc tế, cũng như chưa tương xứng với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước ................................................................................51
3.1.3. Một số quy định về chế độ tài sản theo pháp luật hiện hành khi áp dụng
trên thực tế còn gặp khó khăn, bất cập, vướng mắc .............................................53
3.1.3.1. Bất cập về quy định vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân ...................................................................................................53
3.1.3.2.Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng còn gặp khó khăn
trong thực tế..........................................................................................................55
3.1.3.3. Khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ tài sản của vợ chồng ................56
3.2. Những ƣu điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận .............57
3.3. Phƣơng hƣớng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận ..................................................................................61
3.3.1. Về quy định chung .....................................................................................62
3.3.2. Về các nội dung cụ thể của chế độ tài sản theo thỏa thuận ........................62
KẾT LUẬN .........................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ Luật dân sự

DLBK:

Dân luật Bắc kỳ

DLGY:

Dân luật giản yếu

DLTK:

Dân luật Trung kỳ

HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

HVLL:

Hoàng Việt luật lệ

QTHL:

Quốc Triều hình luật



1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Suốt cuộc đời mỗi con người đều gắn với tài sản để phục vụ nhu cầu
cuộc sống hàng ngày. Tài sản đó có thể do cá nhân tự làm ra, được tặng cho
hay từ những nguồn thu nhập hợp pháp khác mang lại. Dù được hình thành từ
bất kỳ nguồn hợp pháp nào, khi tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân thì họ
có toàn quyền định đoạt số phận của những tài sản đó.
Tuy nhiên, khi nam nữ kết hôn để bước vào cuộc sống mới - cuộc sống
hôn nhân thì gia đình được hình thành. Từ đây, việc kiến tạo, duy trì, sử dụng
và định đoạt những tài sản đã có và sẽ có ra sao không chỉ đơn thuần dựa trên
lợi ích mỗi cá nhân như trước nữa mà sẽ vì lợi ích của vợ chồng và lợi ích gia
đình. Việc xác định quyền sở hữu cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
vợ chồng đối với tài sản có trước và sau khi kết hôn không chỉ có ý nghĩa đối
với vợ chồng mà còn có ý nghĩa đối với gia đình và những người khác có liên
quan. Vì vậy, việc xác định chế độ tài sản trong hôn nhân là cần thiết cho vợ
chồng, cho gia đình và xã hội. Nhiều quốc gia trên thế giới công nhận hai loại
chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước
định (chế độ tài sản theo thỏa thuận).
Điểm qua chế độ tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy: Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ)
năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ 2000 chỉ công nhận chế
độ tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng khi kết hôn mà không thừa
nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận. Tuy nhiên, chế độ tài sản pháp
định hiện hành lại hàm chứa những nội dung cho phép vợ chồng thỏa thuận
một số vấn đề về tài sản. Các thỏa thuận này mang tính nhỏ lẻ, vụ việc nhưng



2

trong một chừng mực nhất định làm thay đổi căn cứ xác lập cũng như làm
thay đổi bản chất chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành.
Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, việc hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế của Việt Nam có thể làm thay đổi quan điểm lập pháp
của Việt Nam. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một quyền dân sự gắn
liền với bản thân vợ chồng. Xuất phát từ sự tự do, tự nguyện về ý chí, trên cơ
sở là một quyền dân sự của cá nhân, hai bên nam nữ trước khi kết hôn hoàn
toàn có quyền thỏa thuận về một chế độ tài sản mà theo họ là phù hợp, miễn
là sự thỏa thuận đó không trái với thuần phong mĩ tục, với trật tự công cộng
và quyền lợi của con cái. Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam thực ra không quá
khác so với môi trường các nước trên thế giới đến mức chúng ta phải tổ chức
các quan hệ tài sản của vợ chồng theo cách riêng. Do đó, nhiều chuyên gia
trong lĩnh vực Luật HN&GĐ cho rằng pháp luật về HN&GĐ Việt Nam cần
thay đổi lại phương thức tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng theo hướng
thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc chọn chế độ tài sản áp dụng,
bên cạnh chế độ tài sản pháp định của vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định
hiện hành đang ngày càng bộc lộ nhiều bất cập. Hơn nữa, cùng với các quan
điểm lập pháp tiến bộ hiện nay đã cho thấy sự cần thiết phải quy định chế độ
tài sản vợ chồng theo thỏa thuận vào Luật HN&GĐ sửa đổi. Để góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận của chế độ tài sản theo thỏa thuận, cũng như giá
trị pháp lý của chế độ tài sản này trong thực tiễn, tác giả lựa chọn đề tài “Chế
độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam” làm Luận
văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tài sản của vợ chồng trong hôn
nhân hoặc liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, tiêu biểu có

thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:


3

(1) TS. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, luận án Tiến sĩ luật học;
(2) Trường Đại học Luật Hà Nội (2008): Tài sản của vợ chồng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, TS.
Nguyễn Phương Lan chủ nhiệm đề tài;
(3) Phạm Thị Linh Nhâm (2010), Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp đại học.
(4) Ths. Nguyễn Hồng Hải (1998). “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản
ước định trong Luật Hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Luật học, Số 3, tr. 10-12;
(5) Ths. Bùi Minh Hồng (2009). “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của
vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí
Luật học, Số 11, tr. 18- 25;
(6) Th.S Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam,
/>Tuy nhiên, các công trình cũng như các bài viết nêu trên vẫn chưa đi sâu
nghiên cứu cụ thể và có hệ thống về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Có thể nói, luận văn là công trình đầu tiên, nghiên cứu một cách toàn diện về
chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong hệ thống pháp luật Việt nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề lý luận về chế độ tài sản
của vợ chồng; các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam về chế độ tài
sản vợ chồng theo thỏa thuận.
- Chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ có nội dung phức
tạp, đa dạng. Luận văn này chỉ đi sâu nghiên cứu những nội dung về chế độ
tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam.



4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp lịch sử,
tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê…
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khái quát các quy định của hệ thống
pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản vợ chồng, đi sâu nghiên cứu các quy
định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận; đánh giá những vướng mắc
khi áp dụng quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo Luật HN&GĐ hiện
hành; tìm hiểu tính ưu việt của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận; kiến
nghị phương hướng xây dựng các quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận trong Luật HN&GĐ năm 2000.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Phân tích các vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng;
- Phân tích, đánh giá các quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
- Tìm hiểu quy định về độ tài sản vợ chồng theo pháp luật của một số
nước trên thế giới để đối chiếu, so sánh, học tập kinh nghiệm để có thể áp
dụng trong việc sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến chế độ tài sản
vợ chồng ở nước ta;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo Luật
HN&GĐ năm 2000 để chỉ ra những tồn tại, vướng mắc;
- Nghiên cứu ưu điểm của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận để
đưa ra phương hướng xây dựng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.



5

6. Những điểm mới và ý nghĩa khoa học của luận văn
- Điểm mới của Luận văn thể hiện: Luận văn nghiên cứu một cách có
hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận trong pháp luật Việt Nam; đánh giá được những ưu điểm của chế độ tài
sản vợ chồng theo thỏa thuận; đề xuất phương hướng xây dựng các quy định
về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
- Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn góp phần hoàn thiện về lý
luận về chế độ tài sản của vợ chồng; là tài liệu tham khảo hữu ích trong công
tác xây dựng pháp luật về HN&GĐ; các kết luận trong Luận văn là cơ sở
pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích về tài sản của các chủ thể trong quan hệ hôn
nhân cũng như chủ thể thứ ba có liên quan; là tài liệu tham khảo có giá trị
trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và thi hành pháp luật về quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận.
Chương 2: Hệ thống pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận.
Chương 3: Phương hướng xây dựng pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO THỎA THUẬN


1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Kết hôn là sự kiện làm phát sinh quan hệ hôn nhân - cơ sở hình thành
gia đình mà ở đó có sự chung sống của các thành viên gia đình. Gia đình phải
thực hiện các chức năng xã hội cơ bản như chức năng sinh đẻ, chức năng giáo
dục và chức năng kinh tế. Sau khi kết hôn, tài sản của vợ chồng sẽ được quản
lý, sử dụng và định đoạt nhằm đảm bảo cho gia đình có thể thực hiện tốt các
chức năng xã hội cơ bản của nó.
Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 thì tài sản bao gồm “vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Quyền sở hữu đối với tài sản theo
Điều 164 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba
quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
Khi quan hệ hôn nhân được hình thành thì về nguyên tắc, chủ sở hữu
các tài sản trong quan hệ hôn nhân là “cả hai vợ chồng” (ngoại trừ những tài
sản thuộc sở hữu riêng). Trong khi đó, cuộc sống thường ngày có thể phát
sinh những giao dịch liên quan đến tài sản cần có sự quyết định nhanh chóng,
khi thì do người vợ thực hiện, khi thì do người chồng thực hiện, có khi do cả
hai vợ chồng cùng quyết định.
Để đảm bảo quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mỗi bên
cũng như của vợ chồng, đảm bảo việc thực hiện các chức năng xã hội của gia
đình, đảm bảo vợ chồng có những hành vi ứng xử đúng mực với nhau nhằm
đạt được mục đích hôn nhân và đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham


7

gia giao dịch liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của mỗi bên hoặc thuộc sở

hữu cả hai bên vợ chồng thì pháp luật cần phải quy định rõ ràng, cụ thể về
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản mà mỗi bên có trước cũng
như sau khi kết hôn. Nói cách khác, pháp luật cần quy định chế độ tài sản của
vợ chồng.
Vậy chế độ tài sản của vợ chồng là gì? Theo Giáo trình Luật HN&GĐ,
tập 2 của Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ định nghĩa: “Chế độ tài sản vợ
chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ
chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài
sản giữa vợ chồng. Tài sản được phân loại gồm: tài sản chung và tài sản
riêng. Với quan hệ tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập,
duy trì và phát triển khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong khi
quan hệ tài sản riêng bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và
thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản”.
Định nghĩa này cũng cho thấy những nội dung trong chế độ tài sản của
vợ chồng. Tuy nhiên, bản thân định nghĩa có điểm chưa chính xác vì cho rằng
chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh “quan
hệ tài sản” của vợ chồng. Nói đến quan hệ tài sản của vợ chồng là nói đến ba
vấn đề: Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ và chồng và quyền thừa kế tài sản. Trong khi đó, nói đến chế độ tài
sản vợ chồng là nói đến các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng, bao gồm: Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ (chồng);
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung hoặc tài sản riêng; việc phân chia tài sản. Như vậy, cho rằng chế độ
tài sản của vợ chồng là “tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
tài sản của vợ chồng” là chưa chính xác.


8


Theo TS. Nguyễn Văn Cừ thì “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao
gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản giữa vợ và chồng theo luật định” [15, tr. 8 – 9].
Định nghĩa này hàm chứa các nội dung cơ bản của chế độ tài sản của
vợ chồng. Tuy nhiên, chế độ tài sản này được định nghĩa theo Luật HN&GĐ
Việt Nam nên chưa bao quát được tính chất của chế độ tài sản của vợ chồng
nói chung theo pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Việc quy định chế độ
tài sản của vợ chồng ở mỗi quốc gia là khác nhau tùy vào chế độ kinh tế, xã
hội, phong tục, tập quán. Có thể chia các quốc gia quy định chế độ tài sản của
vợ chồng theo hai nhóm. Nhóm thứ nhất công nhận quyền thỏa thuận về tài
sản của vợ chồng thì cùng với chế độ tài theo thỏa thuận (chế độ hôn sản ước
định), pháp luật dự liệu một chế độ tài sản để nếu vợ chồng không thỏa thuận
về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản này. Nhóm thứ hai không công nhận
quyền thỏa thuận về tài sản của vợ chồng nên pháp luật quy định một chế độ
tài sản để áp dụng cho tất cả các cặp vợ chồng (chế độ hôn sản pháp định).
Cơ sở để quy định chế độ tài sản của vợ chồng xuất phát từ vị trí, vai
trò quan trọng của gia đình đối với xã hội, từ mục đích nhằm đảm bảo quyền
lợi của gia đình với lợi ích cá nhân của vợ chồng, nhằm đảm bảo nghĩa vụ
chăm sóc lẫn nhau, nuôi dạy con cái…
Để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản vợ chồng
thì nam, nữ phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Để có được quan hệ hôn
nhân hợp pháp, mỗi bên phải đáp ứng điều kiện kết hôn được quy định trong
Luật HN&GĐ, bao gồm: Tuổi kết hôn, sự tự nguyện kết hôn, không thuộc
trường hợp cấm kết hôn. Ngoài ra, các bên phải đăng ký kết hôn tại cơ quan


9


Nhà nước có thẩm quyền. Chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản vợ
chồng có sự khác biệt với chủ thể trong các quan hệ giao dịch dân sự.
Trong quan hệ giao dịch dân sự, người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi được cho phép trở thành chủ thể trong quan hệ giao dịch dân sự để
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì được pháp luật cho
phép trở thành chủ thể trong quan hệ giao dịch dân sự (Điều 20 BLDS năm
2005). Nhưng trong quan hệ hôn nhân thì nam phải từ hai mươi tuổi trở lên và
nữ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Do vậy, chủ thể của quan hệ sở
hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng cũng phải ở độ tuổi tương ứng với tuổi
kết hôn.
Căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng phụ thuộc vào
điều kiện phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Điều này có nghĩa là
ngay từ thời điểm kết hôn, hai bên nam nữ bắt đầu phát sinh một chế độ tài
sản và chế độ tài sản này sẽ chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt do ly
hôn hoặc do một bên chết.
Từ phân tích trên đây, có thể hiểu chế độ tài sản của vợ chồng là tổng
hợp các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm các căn cứ
xác lập quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng và việc phân chia tài sản của vợ chồng.
1.1.2. Các loại chế độ tài sản vợ chồng
Có hai cách để phân loại chế độ tài sản của vợ chồng:
Thứ nhất, căn cứ vào hình thức sở hữu, chế độ tài sản vợ chồng bao
gồm chế độ cộng đồng tài sản và chế độ phân sản.


10

Thứ hai, căn cứ vào chế độ pháp lý, chế độ tài sản vợ chồng bao gồm

chế độ tài sản được xác định theo căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định)
và chế độ tài sản được xác định theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài
sản ước định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận). Xin phân tích các loại chế
độ tài sản của vợ chồng theo cách phân loại thứ hai.
- Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự
liệu về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài
sản của vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định là một giải pháp được nhà lập
pháp ở tất cả các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong pháp luật. Có nước quy
định chế độ tài sản pháp định mang tính chất thay thế trong trường hợp vợ
chồng không có thỏa thuận bằng hôn ước hoặc với mục đích để vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ (phổ biến trong pháp luật của các nước
phương Tây như: Pháp, Nhật Bản, Canađa, Thái Lan, Úc…). Điều 1400
BLDS Pháp quy định “Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có
hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản”.
Có nước quy định chế độ tài sản pháp định như là căn cứ duy nhất để xác định
tài sản của vợ chồng (phổ biến là pháp luật của các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa trước đây như Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba…). Điều 29 Luật
gia đình Cu Ba quy định “chế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc kết hôn
được chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống chung…; chế độ tài
sản này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt không kể vì lý do gì”.
- Chế độ tài sản ước định (hay còn gọi là chế độ tài sản theo thỏa thuận)
là loại chế độ tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên cơ sở hôn ước (hôn
khế). Theo đó, trước khi kết hôn, hai bên kết hôn được thỏa thuận về vấn đề
tài sản trong hôn nhân. Chế độ tài sản này được pháp luật một số nước ghi


11

nhận như pháp luật của các quốc gia theo Thiên chúa giáo, các quốc gia Hồi

giáo (Philipin, Israel) hay phật giáo (Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan). Bên
cạnh đó các quốc gia châu Âu, châu Mĩ, châu Úc và châu Á (Ai cập, Singapo,
Nhật Bản), châu Phi (Nam Phi, Jammaica) cũng thừa nhận.
Khi lựa chọn chế độ tài sản ước định, vợ chồng có thể thỏa thuận để
lựa chọn một trong số các chế độ tài sản mà pháp luật quy định sẵn hoặc tự
thiết lập một chế độ tài sản với điều kiện không trái với pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng có những ý nghĩa sau đây:
- Chế độ tài sản của vợ chồng phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội cụ thể. Pháp luật là công cụ quản lý của giai cấp thống trị đối với xã
hội, thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Chế độ tài sản vợ chồng là một chế định
được quy định trong pháp luật trên cơ sở sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội... Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng có thể nhận biết được sự phát
triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm lập pháp của nhà nước.
Hệ thống pháp luật dưới chế độ phong kiến, thực dân ở nước ta trước đây đều
thực hiện theo quan niệm “người vợ là nô lệ trong gia đình”, “thuyền theo
lái, gái theo chồng”, “phu xướng, phụ tùy”, “của chồng, công vợ”… Điều 96
Dân luật Bắc kỳ (DLBK) năm 1931 quy định: “Chồng là người chủ trương
đoàn thể vợ chồng”. Hoặc “vợ chính, cùng vợ thứ phải được chồng cho phép
mới được thưa kiện cùng giao ước…” (Điều 98). Người chồng có quyền
“mặc nhiên” đại diện cho quyền lợi của gia đình, có quyền ký kết bất kỳ hợp
đồng nào liên quan đến tài sản của vợ chồng, dù có giá trị hay không, đều
đương nhiên được coi là có hiệu lực. Vả lại, người vợ chỉ được “thay mặt”
chồng, chỉ được đại diện trong những nhu cầu gia vụ hoặc chỉ được kết ước
nếu được chồng cho phép (ủy quyền) [15, tr. 23].


12

Qua đó cho thấy bản chất của chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp
luật phong kiến, tư sản phản ánh tính chất, kết cấu của xã hội phong kiến, tư
sản. Quyền sở hữu đối với tài sản của vợ chồng, trước hết tập trung vào tay

người chồng - là chủ gia đình. Không thể có quan hệ bình đẳng thực sự giữa
vợ chồng trong các quan hệ nhân thân và tài sản của vợ chồng.
Hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, khi
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng đều ghi nhận trước hết quyền bình
đẳng của vợ chồng về tài sản, bảo đảm quyền sở hữu của vợ chồng đối với
thành phần các loại tài sản giữa vợ chồng. Bởi lẽ, để thực hiện và đạt được các
quyền tự do, bình đẳng trong các quan hệ nhân thân giữa vợ chồng (họ, tên, tôn
giáo, dân tộc, quốc tịch, chỗ ở, nghề nghiệp…) thì trước hết phải có bình đẳng
thực sự trong quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng - cơ sở vật chất bảo đảm cho
các quyền nhân thân của vợ chồng. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau
về mọi phương diện là một trong các nguyên tắc cơ bản theo hệ thống pháp luật
về HN&GĐ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa [15, tr.24 – 25].
- Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa
nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi
hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ
chồng được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng
lựa chọn chế độ tài sản ước định hay chế độ tài sản pháp định, dù chế độ tài
sản cộng đồng hay phân sản thì các loại tài sản của vợ chồng luôn được pháp
luật quy định rõ. Ví dụ, theo chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng
toàn sản, hay chế độ cộng đồng bao gồm các tài sản là động sản và tạo sản
hoặc chế độ cộng đồng tạo sản, thì tiền lương, tiền thưởng hoặc những thu
nhập hợp pháp khác của vợ, chồng ở trước thời kỳ hôn nhân (trước khi kết
hôn) theo nguyên tắc là tài sản riêng của vợ, chồng, nhưng sau khi kết hôn, nó


13

luôn được coi là tài sản chung của vợ chồng, được sử dụng để đảm bảo đời
sống chung của gia đình [15, tr. 25 - 26].
- Chế độ tài sản vợ chồng quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

đối với tài sản có ý nghĩa làm chuẩn mực pháp lý cho hành vi ứng xử của mỗi
bên vợ chồng. Điều này có nghĩa là pháp luật quy định rõ các quyền mà mỗi
bên vợ chồng được phép thực hiện và nghĩa vụ của vợ chồng phải tuân thủ đối
với từng loại tài sản riêng, tài sản chung là khác nhau. Đối với tài sản riêng,
mỗi bên có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình. Trong một số trường hợp nhất định, vợ hoặc chồng là chủ
sở hữu riêng tài sản riêng cũng không được toàn quyền định đoạt tài sản đó
nếu việc định đoạt tài sản ảnh hưởng đến đời sống của gia đình. Đối với tài
sản chung, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cần có sự đồng thuận của cả
hai vợ chồng. Vì thế, việc quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
các loại tài sản nhằm làm chuẩn mực pháp lý cho hành vi ứng xử, tạo điều
kiện để vợ chồng có những cách thức “xử sự” theo yêu cầu của pháp luật và
phù hợp với đạo đức xã hội, góp phần củng cố, bảo đảm thực hiện các quyền
và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng với nhau và giữa các thành viên trong
gia đình. Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở để vợ chồng có các
hành vi ứng xử, chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với
tài sản của vợ chồng. Trên cơ sở đó xây dựng gia đình thực sự dân chủ, hòa
thuận, hạnh phúc, bền vững, tạo điều kiện cho xã hội bình ổn và phát triển.
- Chế độ tài sản vợ chồng là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba tham gia các giao dịch dân sự với những người
đang có vợ, chồng. Góp phần điều tiết, ổn định quan hệ tài sản trong giao lưu
dân sự, kinh tế, thương mại…


14

Trong suốt thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng lợi ích cá nhân của vợ hoặc
chồng cũng như quyền lợi của gia đình thì vợ chồng phải tham gia nhiều giao
dịch với những người khác. Nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng, các giao dịch
đó được đảm bảo thực hiện, quyền lợi của vợ chồng, của người tham gia giao

dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ. Chế độ tài sản của vợ
chồng định rõ về thành phần tài sản của vợ chồng, quyền hạn, nghĩa vụ của
vợ, chồng đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trước hoặc trong thời
kỳ hôn nhân, quyền sở hữu của vợ chồng đối với từng loại tài sản chung hay
tài sản riêng của vợ chồng, theo đó khi vợ chồng thực hiện quyền sở hữu của
mình vì lợi ích chung cho gia đình, cho cá nhân vợ, chồng hay vì lợi ích của
người khác sẽ được ổn định trong một trật tự pháp lý. Các kết ước liên quan
đến tài sản do vợ, chồng thực hiện theo những mục đích cụ thể đối với từng
loại tài sản đều phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định và trong trường hợp
đó, quyền lợi của người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ
chồng được pháp luật bảo vệ. Pháp luật về HN&GĐ của nhiều nước cũng quy
định về vấn đề này.
Theo Điều 220 BLDS Cộng hòa Pháp (Luật số 65 - 570 ngày
13/7/1965):“Mỗi bên vợ, chồng có thể một mình ký kết hợp đồng nhằm mục
đích duy trì đời sống gia đình hoặc giáo dục con cái; bên kia có trách nhiệm
liên đới đối với nghĩa vụ do việc ký kết này…”.
BLDS Nhật Bản tại Điều 761 cũng quy định: “Đối với các vấn đề chi
tiêu hàng ngày, nếu chồng hoặc vợ thực hiện giao kết pháp lý với người thứ
ba, thì cả vợ lẫn chồng đều phải chịu trách nhiệm liên đới và theo phần đối
với các nghĩa vụ phát sinh từ đó…”.
Bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng
được sử dụng nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình. Nếu tài sản chung
của vợ chồng không đủ chi dùng thì vợ, chồng nếu có tài sản riêng phải có


15

nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng; bảo đảm cho các nhu cầu thiết yếu của gia
đình. Các hợp đồng do một bên vợ, chồng ký kết với người khác vì lợi ích
chung của gia đình được coi là có hiệu lực, bên kia (chồng hoặc vợ) phải chịu

trách nhiệm liên đới. Nói cách khác, pháp luật suy đoán rằng, luôn có sự thỏa
thuận “mặc nhiên” của cả hai vợ chồng, dù hợp đồng đó chỉ do một bên vợ,
chồng thực hiện. Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng bảo đảm được “trật
tự” trong giao lưu dân sự, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng liên
quan đến tài sản của vợ chồng được thực hiện [15, tr. 26 - 27]. Điều 25 Luật
HN&GĐ năm 2000 quy định: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới
đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.
- Chế độ tài sản vợ chồng là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp
có liên quan đến tài sản của vợ, chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác
lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản
riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật
định. Do đó, khi vợ chồng cùng thỏa thuận với nhau để lựa chọn áp dụng một
chế độ tài sản cho mình thì khi xảy ra tranh chấp, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ căn cứ vào những nội dung mà hai bên vợ chồng đã thỏa thuận
với nhau để xem xét tính hợp pháp, hợp lý mà giải quyết tranh chấp. Trong
trường hợp họ không thỏa thuận chế độ tài sản mà mặc nhiên được điều chỉnh
bởi chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp định, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ căn cứ vào nội dung đã được quy định trong các văn bản pháp
luật liên quan để giải quyết, phân xử. Do đó, chế độ tài sản vợ chồng là cơ sở
pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản của
vợ, chồng.


16

1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
1.2.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ của chồng theo thỏa thuận

Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là loại chế độ tài sản của vợ
chồng được xác định dựa trên cơ sở sự thỏa thuận bằng văn bản (hợp đồng)
do vợ chồng lập trước khi kết hôn để quy định chế độ tài sản của vợ chồng
trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nội dung của văn bản thỏa thuận thường xác
định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó
cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa họ với người thứ ba.
Cơ sở để xác định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận chính là
văn bản thỏa thuận hay còn gọi là hôn ước. Hôn ước này phải được lập một
cách tự nguyện bởi vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp (thỏa thuận do
hai người nam nữ chung sống như vợ chồng lập ra không thể được gọi là văn
bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng). Hôn ước phải được lập trước
khi kết hôn và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân. Hôn ước phải
được xác nhận tính hợp pháp bởi cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước
hoặc cơ quan công chứng (tùy theo quy định của pháp luật từng quốc gia).
Nội dung của hôn ước phải là sự thỏa thuận về vấn đề sở hữu tài sản của vợ
chồng. Những thỏa thuận của vợ chồng về nghĩa vụ nhân thân không thể là
một phần của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Văn bản này
trước hết phải quy định rõ cách thức xác định tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng, xác định về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với nhau
hay đối với bên thứ ba trong trường hợp có giao dịch với bên thứ ba. Hôn ước
có tính ổn định cao nên việc thay thế hoặc hủy bỏ phải được thực hiện theo
những thủ tục rất chặt chẽ.
Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng (hôn khế) được áp dụng
ở rất nhiều quốc gia: Không chỉ là các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ theo Thiên


17

Chúa giáo mà có cả các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ Hồi giáo (Philipin,
Israel) hay Phật giáo (Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan), không chỉ các quốc

gia châu Âu, châu Mĩ, châu Úc mà có cả quốc gia châu Á (Ai cập, Singapo,
Nhật Bản), châu Phi (Nam Phi, Jammaica). Trung Quốc - một quốc gia có chế
độ xã hội tương tự với Việt Nam tuy chưa thừa nhận hôn ước nhưng lại cho
phép thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, nó chỉ khác hôn ước ở chỗ được lập
sau khi kết hôn.
Qua trên có thể hiểu khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận như sau:
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là chế độ tài sản mà theo
đó vợ chồng cùng thỏa thuận về việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với tài sản của họ. Thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng văn bản và dưới
nhiều tên gọi khác nhau như: hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hoặc thỏa
thuận trước hôn nhân….
Khi lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, vợ chồng có thể
thỏa thuận lựa chọn một trong các chế độ tài sản do pháp luật quy định hoặc tự
thiết lập một chế độ tài sản khác với điều kiện không trái với pháp luật.
1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận
Xác định chế độ tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất
phát từ quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo đó, hôn
nhân thực chất là một loại hợp đồng dân sự, nó chỉ khác với các loại hợp đồng
dân sự thông thường khác ở nghi thức thiết lập và thủ tục, trình tự chấm dứt.
Bên cạnh đó, nhà làm luật ở các nước phương Tây cũng đề cao quyền tự do cá
nhân, quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ chồng. Với quan niệm trên, tự
do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi quy


18

định chế độ tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật của hầu hết các
nước phương Tây. Có thể điểm qua lịch sử hình thành chế độ tài sản vợ chồng

theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định) như sau:
Thời kỳ La mã cổ đại, phụ nữ và nam giới trước khi kết hôn thường tự lập
thỏa thuận, trong đó xác định trước vấn đề tài sản giữa họ với nhau trong cuộc
sống tương lai, đồng thời cùng nêu rõ những điều kiện thừa kế tài sản khi một
bên vợ hoặc chồng chết. Đây là hiện tượng rất phổ biến trong xã hội trước khi có
sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo. Hiện tượng này thể hiện tính độc lập không
vụ lợi trong quan hệ tài sản của các bên nam nữ khi lập gia đình.
Khi xã hội loài người chứng kiến sự ra đời của hệ tư tưởng “Thiên
Chúa giáo” thì quan niệm hôn nhân là “mối liên kết thần thánh” của các bên
nam nữ được hình thành. Cũng từ thời gian này trở đi, quan hệ hôn nhân và
gia đình chịu sự điều chỉnh của nhà thờ Thiên Chúa Giáo.
Anh và Pháp là những nước mà áp dụng chế độ tài sản ước định từ lâu
đời trong lịch sử. Ở những nước này, sự xuất hiện của hôn ước gắn liền với sự
cần thiết giữ gìn, bảo vệ quyền của những người phụ nữ lập gia đình và người
thân thích của họ trong việc định đoạt những tài sản có trước khi kết hôn cũng
như sử dụng các hoa lợi, lợi tức của những tài sản này.
Vào thế kỷ XVII, cùng với sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản ở Anh,
quy phạm “luật chung” có sự mâu thuẫn với quyền lợi của tầng lớp giàu có
trong xã hội. Để vòng chu chuyển của lưu thông dân sự được phát triển bền
vững và bảo vệ quyền tài sản của những người có quan hệ huyết thống với
người phụ nữ có gia đình và bảo toàn tài sản của gia tộc, cần thiết phải hình
thành chế định tài sản riêng của người vợ trong quan hệ hôn nhân.

Trước

năm 1882, tại Vương quốc Anh, tài sản của vợ chồng theo “luật chung” được
coi là thuộc về người chồng. Phụ nữ có gia đình hoàn toàn mất quyền độc lập


19


về tài sản, họ không có quyền sở hữu tài sản và định đoạt nó theo ý chí của
mình. Tất cả những tài sản mà người phụ nữ có trước khi kết hôn thì sau khi
kết hôn cũng thuộc sở hữu chung của người chồng. Tài sản của vợ như vậy là
không tồn tại. Nhân thân của vợ chuyển hóa vào nhân thân của chồng và tài
sản của vợ cũng thuộc về người chồng. Với mục đích bảo toàn sự tồn tại của
“nguyên tắc công bằng”, xã hội đã thực hiện việc công nhận giá trị của các
hôn ước, theo đó xác định phần tài sản của người vợ nằm ngoài quyền của
người chồng. Về nguyên tắc, những tài sản thuộc về người vợ chỉ là những tài
sản thuộc về nguồn vốn (tư bản) tồn tại dưới hình thức này hoặc hình thức
khác, chứ không thuộc nhóm tài sản thông thường của gia đình. Vào năm
1882, Nghị viện Anh đã thông qua Luật về tài sản của phụ nữ có chồng.
Trong đó quy định khi người phụ nữ kết hôn thì tất cả tài sản mà họ có trước
khi kết hôn và cả những tài sản họ có sau khi kết hôn sẽ thuộc chế độ tài sản
được xác định trong văn bản điều chỉnh về quan hệ tài sản vợ chồng. Phụ nữ
có quyền thực hiện các giao dịch dân sự với những tài sản thuộc sở hữu của
mình và họ có quyền để lại tài sản của mình theo con đường thừa kế. Như
vậy, chế độ tài sản riêng và chung của vợ chồng đã được hình thành.
Thế giới hồi giáo cũng đặt ra yêu cầu ký kết hôn ước, theo đó liệt kê số
lượng tài sản mà chú rể chuyển cho cô dâu dưới dạng quà cưới. Việc soạn
thảo hôn ước được thực hiện với sự có mặt của những người luật sư của cô
dâu và chú rể. Luật sư có mặt khi ký kết hôn ước cũng như trong chính hôn lễ
cùng với người làm chứng và đại diện lãnh đạo tinh thần của đạo hồi.
Như vậy, ở những nước mà pháp luật ghi nhận quyền lập hôn ước thì
trước khi kết hôn, hai bên hoàn toàn có quyền tự do lập hôn ước để thỏa thuận
chế độ tài sản của họ. Pháp luật chỉ can thiệp và quy định chế độ tài sản khi
họ không lập hôn ước. Điều 755 và 756 BLDS Nhật Bản, Điều 1465 BLDS


20


và Thương mại Thái Lan, Điều 1387 BLDS Cộng hòa Pháp đều quy định: Vợ
chồng có thể tự do lập hôn ước, miễn là những thỏa thuận trong hôn ước
không trái với thuần phong mỹ tục hoặc không trái với các quy định của pháp
luật về điều kiện thừa nhận tính hợp pháp của hôn ước.
Từ đó cho thấy, tài sản của vợ chồng không nhất thiết do pháp luật quy
định mà do chính bản thân vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung, tài sản
riêng. Vợ chồng có thể thỏa thuận trên cơ sở lựa chọn một chế độ tài sản được
quy định trong pháp luật hoặc có thể chọn một chế độ tài sản riêng biệt, hoàn
toàn độc lập với chế độ tài sản theo quy định của pháp luật.
Với việc thừa nhận các thỏa thuận trong hôn ước có thể thay đổi trong
thời kỳ hôn nhân, pháp luật đã tạo cho vợ chồng quyền chủ động hơn trong
việc quy định chế độ tài sản của mình. Tuy nhiên, điều đó vẫn không khắc
phục được một hạn chế cơ bản của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là
quá chú trọng đến lợi ích cá nhân của vợ, chồng, lợi ích của gia đình bị xem
nhẹ, hoặc lợi ích của gia đình được xem xét theo ý thức chủ quan “thuần túy”
của vợ chồng, dẫn đến mâu thuẫn bản chất của hôn nhân là tính cộng đồng và
bản chất của gia đình là “bổn phận và trách nhiệm”. Do vậy, chế độ tài sản
này thường không được pháp luật của các nước trong hệ thống Xã hội chủ
nghĩa trước đây (trong đó có Việt Nam) ghi nhận.
Đồng thời, cũng trên quan niệm coi hôn nhân là quan hệ dân sự đơn
thuần nên tự do, tự nguyện là yếu tố phải được coi trọng hàng đầu. Chính vì
vậy, quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ tài
sản của vợ chồng được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không
vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Những cam kết, thỏa thuận hợp pháp là cơ sở để xác lập các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản phát sinh trong hôn nhân và các quyền,



×