Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

niệm chế độ tài sản vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.28 KB, 11 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, gia đình là tế bào của xã hội , thể hiện tính
chất và kết cấu của xã hội . Để cho gia đình tồn tại và phát triển , cần phải
có các điều kiện vật chất – cơ sở kinh tế của gia đình ,nuôi sống gia đình .
Do đó, chế độ tài sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm xây
dựng như là một trong các chế định cơ bản , quan trọng nhất củapháp luật
về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác
lập tính cộng đồng,sau khi kết hôn , hai vợ chồng ở vào tình trạng “ăn
chung, đổ lộn’’,cùng chung sức,chung ý chí trong việc tạo dựng tài
sản,xây dựng gia đình hòa thuận,hạnh phúc vì sự ổn định và sự ổn định
của xã hội. Tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập đòi
hỏi cần phải có một quy chế pháp lý đặc biệt nhằm điều chỉnh vấn đề tài
sản của vợ chồng. Vì vậy, Nhà nước bằng pháp luật phải quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng. Một trong số những quy định đó là chế độ tài sản
ước định.
B.NỘI DUNG
I> Cơ sở lí luận :
1. Khái niệm tài sản
Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng
thuộc về quyền của chủ thể ( theo từ điển học )
2. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng :
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản
của vợ chồng,bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản ,quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung ,tài sản riêng , các trường
hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định.
3. Nguyên nhân hình thành chế độ tài sản của vợ chồng :
 Do tính chất , mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập – tính
cộng đồng của quan hệ hôn nhân . Mặt khác, để đảm bảo đời sống
chung của gia đình ,đáp ứng được các nhu cầu về vật chất ,tinh
thần của vợ chồng,nghĩa vụ chăm sóc ,giáo dục con cái,….


 Pháp luật có dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở để vợ
chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan
đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời lỳ hôn nhân , như việc luật
quy định các ,nguồn gốc ,phạm vi các loại tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng hoặc tài sản chung của vợ , chồng .
 Khi vợ chồng sử dụng , định đoạt tài sản của mình nhằm đảm bảo
đời sống chung của gia đình ,….luôn có liên quan đến quyền lợi
của những người khác - người thứ ba ký kết các hợp đồng liên
quan đến tài sản vợ chồng
 Việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở
pháp lý để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với
những người khác.
4. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng :
 Xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, thì
các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tơ cách là vợ
chồng của nhau.
 Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục
đích trước tiên và chủ yếu nhằm đảm bảo quyền lợi của gia
đình , trong đó có lợi ích của cá nhân của vợ - chồng.
 Căn cứ xác lập , chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự
phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân
 Chế độ tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc thù riêng
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể
II> Chế độ tài sản ước định ở một số nước trên thế giới:
1. Nội dung :
Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn
nhân thực chất là một hợp đồng , một khế ước do hai bên nam nữ thỏa
thuận , xác lập trên nguyên tắc tự do , tự nguyện .
Hôn ước ( hôn khế) là sự thỏa thuận bằng văn bản do vợ chồng lập

trước khi kết hôn quy định chế độ tài sản của vợ chồng suốt thời kỳ hôn
nhân.
Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất
phát từ quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Hôn nhân
khác ở tính chất “ long trọng ’’trong thiết lập ( việc kết hôn phải đăng kí
tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi thức đặc
biệt được quy định trong pháp luật ) và trong việc chấm dứt (hôn nhân chỉ
chấm dứt khi có sự kiện chết ,có tuyên bố của Tòa án một bên vợ , chồng
đã chết hoặc khi có bản án hoặc quyết định của tòa án về ly hôn có hiệu
lực pháp luật , tất cả các trường hợp chấm dứt này phải tiến hành theo
những thủ tục hành chính hoặc thủ tục tố tụng tại Tòa án được pháp luật
quy định )
Bên cạnh đó, nhà làm luật các nước phương Tây cũng đề cao quyền tự do
cá nhân , quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ chồng . Với quan niệm
trên , tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu
tiên khi quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về hôn nhân
và gia đình ở hầu hết các nước phương Tây.
Theo nguyên tắc trên, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được
phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền
và nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đó. Cần phải tôn
trọng các quyền tự do cá nhân của công dân ,của vợ chồng khi thiết lập
quan hệ hôn nhân , trong đó có quan hệ tài sản giữa vợ chồng.
Điều 1465 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định :
“Khi vợ chồng không có sự thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ trước khi
kết hôn ,thì quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được điều chỉnh bởi những quy
định của chương này.
Bất cứ điều khoản nào trong thỏa thuận trước khi thành hôn trái với trật tự
công cộng , với đạo đức , hoặc quy định là quan hệ giữa hai vợ chồng về
tài sản đó sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp nước ngoài thì vô hiệu”
Điều 1387 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp cũng có nội dung như trên.

Như vậy, tài sản của vợ chồng không nhất thiết do pháp luật quy
định mà do chính bản thân vợ chồng tự thỏa thuận tài sản nào là tài sản
chung , tài sản nào là tài sản riêng. Trong hôn ước này , vợ chồng có thể
thỏa thuận lựa chon một chế độ tài sản phù hợp để duy trì và đảm bảo
thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân .
Có thể lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo chế độ cộng đồng
( có tài sản chung ) hay chế độ phân sản ( không có tài sản chung giữa
vợ và chồng). tùy theo chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn thỏa thuận
trong hôn ước ,các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng được thực hiện
theo chế độ cộng đồng hoặc theo chế độ phân sản.
Nếu lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng : vợ chồng thỏa thuận trong
hôn ước về các vấn đề : thành phần tài sản chung của vợ chồng , các
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung; tài sản riêng của
mỗi bên vợ , chồng ( nếu có ); các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng và quyền lợi của mỗi bên vợ , chồng được hưởng từ việc chia tài
sản chug đó; giải quyết các món nợ phát sinh từ đời sống chung của gia
đình ; thỏa thuận để lại thừa kế cho một bên vợ ,chồng hưởng từ phần tài
sản chung của bên kia,….
Nếu lựa chọn chế độ phân sản : giữa hai vợ chồng không có khối
tài sản chung , vợ , chồng phải thỏa tuận tùy theo tư lực của mỗi bên đóng
góp đảm bảo đời sống chung của gia đình , nghĩa vụ chu cấp lẫn nhau,
giáo dưỡng các con,…
Ngày nay, do các điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu từ cuộc sống chung
giữa vợ chồng, pháp luât của một số nước đã quy định về vệc hạn chế tính
“ bất di bất dịch ’’ của chế độ tài sản ước định. Do đó , các thỏa thuận của
vợ chồng trong hôn ước mang tính ổn định cao .
Điều 1395 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 quy định : “ Hôn ước
không thể thay đổi sau khi đã kết hôn ’’.
Tuy nhiên, nguyên tắc hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ
hôn nhân có một hạn chế cơ bản là nó có thể gây ra những ảnh hưởng

không tốt đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ chồng hay của người
thứ ba có quan hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn lầm một
chế độ tài sản hoàn toàn không phù hợp với điều kiện , hoàn cảnh gia đình
, nghề nghiệp , thu nhập hoặc chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn có thể
chỉ phù hợp ở giai đoạn đầu , còn sau đó các quy định trong chế độ tài sản
đã lựa chọn lại cản trở việc thực hiện các quyền , nghĩa vụ cũng như lợi
ích của gia đình .
Vì vậy,sau một thời gian nhất định , vì lợi ích của vợ chồng , của
gia đình mà hai vợ chồng có thể thỏa thuận về việc thay đổi chế độ tài sản
theo hôn ước được kí kết trước khi kết hôn . Bên cạnh đó, luật cũng quy
định các thủ tục và điều kiện pháp lý chặt chẽ cho việc thay đổi hôn ước
vì quyền lợi của người thứ ba có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ
chồng.
Đồng thời , để khắc phục hạn chế trên , hiện nay pháp luật một số nước đã
thừa nhận các thỏa thuận trong hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ
hôn nhân với những điều kiện pháp lí chặt chẽ .
Điều 1397 Bộ luật Dân sự Pháp ( Luật số 65 – 570 ngày
13/07/1965, luật số 89-18 ngày 13/1/1989 ) quy định :
“ Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận
hoặc theo luật định , hai vợ chồng có thể , vì lợi ích của gia đình , xin sửa
đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một
chứng thư có chứng thực của Công chứng viên và được Tòa án nơi cư trú
phê chuẩn’’.

×