Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Một số vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.49 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỒ THỊ HẢI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn thạc sỹ, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đến Cô giáo –
Tiến sỹ Nguyễn Minh Hằng – người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo giúp
đỡ tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau
Đại học, Khoa Pháp luật Kinh tế và các bộ môn khác của trường đã tận tình giảng
dạy, truyền đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập, thực hiện và hoàn thành


Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã giúp đỡ và
động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện Luận văn, nhưng do sự hạn chế
về nguồn tài liệu cũng như thời gian và trình độ nên Luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy (cô) giáo, các nhà
nghiên cứu để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân sách nhà nước

: NSNN

Thu nhập cá nhân

: TNCN

Thu nhập doanh nghiệp

: TNDN

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1

Nguồn thu từ thuế TNCN vào NSNN từ 2009 đến nay

Bảng 2


Cơ cấu nguồn thu từ thuế TNCN giai đoạn 2009 - 2011


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. .................................................................................................................. 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP
LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ....................................................................... 6
1.1. Khái quát chung về thuế TNCN .............................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm thuế TNCN ......................................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN..................................................................................... 8
1.1.3. Vai trò của thuế TNCN ....................................................................................... 11
1.2. Khái quát chung về pháp luật thuế TNCN ............................................................ 13
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế TNCN ........................................................................ 13
1.2.2. Lịch sử hình thành pháp luật về thuế TNCN ...................................................... 14
1.2.3. Các nguyên tắc đánh thuế áp dụng trong pháp luật thuế TNCN ....................... 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................ 20
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thuế TNCN .................... 20
2.1.1. Quy định về phạm vi áp dụng thuế TNCN......................................................... 20
2.1.3. Quy định về kỳ tính thuế ..................................................................................... 32
2.1.4. Quy định về căn cứ tính thuế đối với cá nhân cư trú ......................................... 34
2.1.5. Quy định về căn cứ tính thuế đối với cá nhân không cư trú .............................. 44
2.1.6. Một số quy định về quản lý thuế TNCN ............................................................. 46
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay ........................... 50
2.2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................... 50


2.2.2. Những tồn tại, hạn chế ....................................................................................... 55

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở
VIỆT NAM.................................................................................................................. 61
3.1. Những yêu cầu có tính định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật thuế TNCN ở
Việt Nam ...................................................................................................................... 61
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam ............................ 63
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về một số loại thu nhập chịu thuế TNCN ................ 63
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về thu nhập được miễn thuế ......................... 64
3.2.3. Hoàn thiện quy định về giảm trừ gia cảnh......................................................... 66
3.2.4. Hoàn thiện quy định về thuế suất thuế TNCN .................................................... 67
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam .. 68
3.3.1. Nâng cao hiệu quả của cơ chế hành thu và kiểm soát thu nhập của người nộp
thuế ............................................................................................................................. 69
3.3.2. Đẩy mạnh hoạt động đăng ký và cấp mã số thuế cho người nộp thuế .............. 70
3.3.3. Xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế .. 71
3.3.4. Cải cách hệ thống hành chính thuế TNCN......................................................... 72
3.3.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế TNCN; thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN .......................................................... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 75


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, sự ra đời và tồn tại của thuế là hiện
tượng khách quan, là điều kiện vật chất quan trọng để Nhà nước tồn tại và phát
triển. Hệ thống thuế được cấu thành bởi nhiều sắc thuế khác nhau, hướng đến các
chủ thể và các hoạt động phong phú, đa dạng của đời sống xã hội với những chức

năng riêng biệt. Trong đó, thuế TNCN là sắc thuế có chức năng cơ bản là phân
phối thu nhập, qua việc điều tiết trực tiếp vào TNCN nhằm giảm bớt sự phân hóa
giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường là cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thuế
TNCN ở Việt Nam. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 1990
đã động viên được sự đóng góp của những cá nhân có thu nhập cao trong xã hội
cho NSNN, giảm bớt sự chênh lệch về mức sống của người lao động trong xã hội.
Trải qua năm lần sửa đổi, bổ sung, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao đã có những điều chỉnh các quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng
nộp thuế, căn cứ tính thuế,…để phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội của đất
nước.
Nhằm tăng hiệu lực pháp lý của thuế TNCN cũng như khắc phục những
nhược điểm của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, ngày
21/11/2007, Quốc hội đã ban hành Luật thuế TNCN, chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/01/2009. Từ khi thực hiện Luật thuế TNCN đến nay, hệ thống thuế ở Việt
Nam đã dần hoàn thiện, phạm vi đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế được
mở rộng; thống nhất các quy định về thuế áp dụng đối với cá nhân có thu nhập và
đóng góp ngày càng lớn cho NSNN. Tuy nhiên, do sự biến động nhanh của nền
kinh tế nên một số quy định trong Luật thuế TNCN đã không còn phù hợp với thực
tiễn như quy định về mức giảm trừ gia cảnh, một số quy định về kỳ tính thuế, về
thủ tục kê khai, quyết toán thuế còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi cho người nộp
thuế, công tác quản lý thuế cũng như hiện đại hoá quản lý thuế.


2

Những bất cập này phần nào đã sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh kịp thời khi ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN vào năm 2013.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh mới, các quy định của pháp luật thuế TNCN vẫn
còn những nhược điểm như quy định về giảm trừ gia cảnh, quy định về xác định

thuế TNCN đối với một số loại thu nhập chưa hợp lý,…Ngoài ra, công tác quản lý
thuế TNCN trên thực tiễn vẫn còn gặp những vướng mắc, khó khăn gây thất thoát
nguồn thu cho NSNN.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng pháp luật thuế TNCN hiện hành để
từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam là yêu cầu cấp thiết. Đó cũng là lý do để
tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề pháp lý về thuế TNCN ở Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nhận xét về tình hình nghiên cứu pháp luật thuế TNCN qua các giai
đoạn sau:
- Trước 1/1/2009: Các quy định về thuế TNCN trong Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao được nghiên cứu ở một số luận văn thạc sỹ, bài
báo khoa học như “Một số vấn đề pháp lý về thuế TNCN” - Luận văn thạc sĩ luật
học của Võ Quang Huy (1997), “Thực trạng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam
hiện nay và phương hướng hoàn thiện” bài viết trên Tạp chí Luật học, số 10/2007
của Ths. Trần Vũ Hải; “Một số vấn đề về nguyên tắc công bằng trong pháp luật về
thuế TNCN” bài viết trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2008 của Ths.
Trần Minh Đức,…
Các nghiên cứu giai đoạn này hầu hết đã chỉ ra những nhược điểm của pháp
luật hiện hành về thuế TNCN và đề ra những giải pháp khắc phục. Đó là một trong
những cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện và ban hành Luật thuế TNCN 2007.
- Từ 1/1/2009 đến nay: Luật thuế TNCN 2007 chính thức có hiệu lực, thuế
TNCN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu là bài
viết “Những vấn đề đặt ra khi thực thi luật thuế TNCN Việt Nam” của TS.Lê Thị


3

Thu Thuỷ in trong Tạp chí Luật học số 6/2009; “ Tìm hiểu các quy định về thuế

TNCN từ chuyển nhượng bất động sản” - Khoá luận tốt nghiệp của Ma Thị Vân
Kiều (2010) “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thu nhập chịu thuế TNCN” - Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Văn Dũng
(2011); “Vấn đề giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN năm 2007 - Thực trạng
và kiến nghị từ kinh nghiệm Nhật Bản” - Khoá luận tốt nghiệp của Trần Thúy Mai
Lan (2012); “Pháp luật thuế TNCN với thu nhập từ bất động sản” - Khoá luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Kim Cúc (2012). Các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở một
số khía cạnh của thuế TNCN như thu nhập chịu thuế TNCN, phạm vi áp dụng của
thuế TNCN, quy định về giảm trừ gia cảnh,…
Ở cấp độ luận văn thạc sỹ Luật học, tiêu biểu có “Thực tiễn thi hành pháp
luật thuế TNCN ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” – Luận văn thạc sỹ Luật
học của Hoàng Quốc Đạt (2012) đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện
hành về thuế TNCN trên phương diện thực tiễn áp dụng, có sự so sánh với pháp
luật một số quốc gia trên thế giới để ra các giải pháp áp dụng có hiệu quả ở Việt
Nam; “Pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sĩ luật học của Tạ Minh Hảo (2013) đã làm rõ nội dung pháp luật về
quản lý thuế TNCN ở Việt Nam. Các nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu một cách
toàn diện về pháp luật thuế TNCN, nhất là ở cấp độ Luận văn thạc sỹ không
nhiều…Đặc biệt là từ thời điểm 1/7/2013 khi Luật thuế TNCN được sửa đổi, bổ
sung có hiệu lực ở một số điều khoản thì vẫn chưa có công trình khoa học nào đề
cập đến pháp luật thuế TNCN trong giai đoạn mới. Đó là thuận lợi nhưng đồng
thời cũng đặt ra những thách thức cho tác giả khi lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài có phạm vi nghiên cứu như sau:
- Pháp luật Việt Nam về thuế TNCN tại Luật thuế TNCN 2007, sửa đổi, bổ
sung 2013; Luật quản lý thuế 2006; Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu


4


nhập cao; Các văn bản hướng dẫn thi hành; so sánh với pháp luật thuế TNCN của
một số quốc gia trên thế giới.
- Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài
chính công.
Các phương pháp nghiên cứu được tác giả kết hợp sử dụng trong bài là: phương
pháp liệt kê; phương pháp so sánh, đối chiếu và phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm cung cấp cho người đọc những vấn
đề pháp lý cơ bản nhất về thuế TNCN, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá những ưu điểm và hạn chế của pháp luật thuế TNCN cũng như thực tế áp dụng
để đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế TNCN hiện hành.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu đó, những nhiệm vụ nghiên cứu sau sẽ
phải đảm bảo thực hiện:


Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thuế TNCN và pháp luật thuế
TNCN



Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thuế TNCN và
đánh giá ưu điểm cũng như hạn chế




Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN, chỉ ra những thành
tựu và hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng.



Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN.

6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Mặc dù lựa chọn đề tài nghiên cứu không phải là mới, tuy nhiên tác giả kỳ
vọng luận văn sẽ đóng góp những điểm mới về mặt khoa học như sau:


5

Thứ nhất, luận văn đã phân tích và chỉ ra được những bất cập và hạn chế của
pháp luật thuế TNCN hiện hành, đặc biệt là của Luật thuế TNCN 2007 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN được ban hành năm 2013. Đây là
vấn đề không dễ bởi việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trong bối cảnh các quy
định pháp luật thuế TNCN vừa được sửa đổi, bổ sung và bắt đầu áp dụng từ
1/1/2014 (riêng một số điều khoản đã được áp dụng từ 1/7/2013).
Thứ hai, những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế TNCN
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN mà luận văn đề ra mang tính
cập nhật cao.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thuế TNCN và pháp luật thuế TNCN
Chương 2:Thực trạng pháp luật thuế TNCN hiện hành ở Việt Nam và thực tiễn áp
dụng

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam


6

CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ
PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1.1. Khái quát chung về thuế TNCN
1.1.1. Khái niệm thuế TNCN
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là
một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện quyền lợi cho giai cấp thống trị,
thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Để có nguồn
lực vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
mình, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ phận
của cải của xã hội. Việc huy động tập trung nguồn của cải xã hội vào trong tay Nhà
nước có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: đóng góp bắt buộc, vận động
dân đóng góp tự nguyện hoặc vay, trong đó, biện pháp huy động, tập trung của cải
có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội được gọi là thuế.
Với phạm vi tác động rộng rãi lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội,
hệ thống thuế của các quốc gia được xây dựng linh hoạt với chức năng và đối
tượng chịu tác động riêng biệt. Cách phân loại phổ biến nhất hiện nay đó là dựa
trên căn cứ đối tượng bị đánh thuế hay đối tượng chịu thuế, theo đó các sắc thuế
hiện nay được phân loại thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản.
Thuế thu nhập là tên gọi chỉ những sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều
tiết một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn
thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.

Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế quan trọng
được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Do động
viên trực tiếp vào thu nhập nên thuế thu nhập có các đặc điểm như: là thuế trực thu
đánh vào thu nhập chịu thuế; có tính phức tạp và ổn định không cao; chịu sự điều


7

chỉnh của luật quốc gia và luật quốc tế. Ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên
thế giới, thuế thu nhập gồm hai loại là thuế TNDN và thuế TNCN, mặc dù hai loại
thuế này có thể ban hành trong cùng một văn bản luật hoặc được ban hành riêng lẻ.
Thuế TNCN là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối
tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập
phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Bất kỳ một
quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế TNCN là
một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách
và thực hiện công bằng xã hội. Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ các lý do
sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập
đảm bảo công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, những cá nhân nào nắm
giữ tư liệu sản xuất, tài sản, vốn,…nhiều hơn sẽ có ưu thế chiếm phần thu nhập cao
hơn. Từ sự phân phối mang tính kinh tế này tất yếu sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo trong xã hội. Hiển nhiên những người có thu nhập cao cũng nhờ vào xã hội
mà họ mới có được, do đó thuế TNCN là một trong những công cụ mà Nhà nước
sử dụng để tái phân phối lại thu nhập xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, sự ra đời của thuế TNCN còn bắt nguồn từ nhu cầu tài chính của
Nhà nước. Bất kỳ Nhà nước nào cũng cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu, cùng với xu thế phát triển kinh tế - xã hội, khả năng mang lại thu nhập cho
mỗi cá nhân ngày càng cao, Nhà nước tìm thấy khả năng huy động nguồn tài chính
to lớn cho mình thông qua thuế TNCN.

Thứ ba, thuế TNCN còn là công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết các
hoạt động kinh tế xã hội. Ở các quốc gia, Nhà nước ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong quá trình điều tiết các mặt hoạt động kinh tế - xã hội của cộng đồng và
thuế TNCN là công cụ quan trọng góp phần thực hiện chức năng đó. Thu nhập của
mỗi cá nhân, tổ chức hay một quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề tích
lũy, đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng và vấn đề phân bổ nguồn lực trong xã hội. Thông


8

qua việc đánh thuế vào thu nhập với những cách thức khác nhau, Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết của mình.
Nhìn chung, việc phân định thuế TNCN và thuế TNDN dựa trên cơ sở chủ
thể nộp thuế là cá nhân hay tổ chức có thu nhập chịu thuế. Theo đó, thuế TNCN là
loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm,
từng tháng hoặc từng lần.
Như vậy, có thể rút ra định nghĩa về thuế TNCN như sau: Thuế TNCN là sắc
thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết một phần thu nhập của các cá nhân vào
NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng xã hội.
Thuế TNCN trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh và
cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến
hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định
miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt .
Một điểm đặc biệt nữa của thuế TNCN đó là hầu hết các quốc gia trên thế
giới hiện nay khi áp dụng thuế TNCN đều thực hiện trên cơ sở kết hợp hai quyền
thu thuế của Nhà nước, đó là thu thuế theo yếu tố lãnh thổ và thu thuế theo yếu tố
quốc tịch. Theo đó, những cá nhân là đối tượng nộp thuế TNCN không chỉ là chủ
thể có quốc tịch của Nhà nước thu thuế mà còn bao gồm cả người nước ngoài,
người không có quốc tịch có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ quốc gia
thu thuế. Đặc điểm này đã phát sinh tình trạng đánh thuế hai lần thường gặp khi

thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng. Đánh thuế
trùng ở thuế TNCN xảy ra khi một cá nhân với một khoản thu nhập chịu thuế có
thể vừa phải nộp thuế TNCN cho quốc gia mà cá nhân đó mang quốc tịch, vừa phải
nộp thuế TNCN cho quốc gia mà thu nhập đó phát sinh. Để hạn chế tình trạng này,
các quốc gia trên thế giới thường lựa chọn giải pháp ký kết các Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần hoặc quy định khấu trừ nghĩa vụ thuế đã thực hiện ở quốc gia
khác trong Luật thuế TNCN.
1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN
Thuế TNCN có các đặc điểm cơ bản như sau:


9

- Thứ nhất, thuế TNCN là thuế trực thu
Thuế trực thu là loại thuế mà chủ thể nộp thuế cũng đồng thời là chủ thể
gánh chịu thuế, nghĩa là chủ thể nộp thuế sẽ mất một phần thu nhập của chính
mình vì thuế.
Thuế TNCN là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu thuế là người nộp
thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực tiếp từ thu nhập của cá
nhân đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng hoặc chủ thể trung gian khác.
Do thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập, tài sản của tổ chức và cá
nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp
thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự
chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, thuế trực
thu lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế hoặc dễ xảy ra
tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi,
tính toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế TNCN với diện thu thuế rộng và
phân tán. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến
hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về
cho NSNN.

- Thứ hai, thuế TNCN có đối tượng chịu thuế là thu nhập của cá nhân
Trong quá trình lao động, con người tạo ra thu nhập dưới nhiều hình thức
khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí phân loại. Mục đích của việc phân loại thu nhập
là cơ sở cho việc phân định đối tượng chịu thuế của các sắc thuế khác nhau cũng
như đặt ra cơ chế hành thu hiệu quả.
Khái niệm “thu nhập” hiện nay chưa được hiểu thống nhất nên vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, các nhà làm luật thường chỉ liệt kê các
khoản được coi là thu nhập của tổ chức, cá nhân mà không đưa ra khái niệm thu
nhập.
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của cá nhân phát sinh rất đa dạng.
Nếu căn cứ vào hoạt động hoặc các giao dịch làm phát sinh thu nhập thì thu nhập
bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; thu nhập từ lao động; thu


10

nhập từ tài sản, tiền vốn; thu nhập từ chuyển nhượng; thu nhập từ thừa kế, tặng
cho; thu nhập từ bản quyền; thu nhập do bồi thường; thu nhập từ trúng thưởng; thu
nhập từ Nhà nước hoặc xã hội dành cho và các khoản thu nhập khác.
Các loại thu nhập kể trên không phải thu nhập nào cũng là thu nhập chịu thuế mà
chỉ có một số khoản thu nhập đáp ứng những điều kiện nhất định mới là thu nhập
chịụ thuế.
Pháp luật thuế TNCN nói riêng và thuế thu nhập nói chung ở các quốc gia
đều quy định các khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế. Thông
thường thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát
sinh, có tính phổ biến và Nhà nước có thể kiểm soát được. Có như vậy, pháp luật
thuế thu nhập mới đảm bảo tính khả thi, tính công bằng và đảm bảo nguồn thu ổn
định cho NSNN.
- Thứ ba, việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo nguyên tắc thuế
suất lũy tiến từng phần.

Thuế suất luỹ tiến được hiểu là việc áp dụng các thuế suất tăng dần đối với
các nhóm đối tượng chịu thuế hoặc toàn bộ đối tượng chịu thuế. Theo đó, hiện nay
thuế TNCN chủ yếu áp dụng thuế suất lũy tiến đối với thu nhập từ tiền công, tiền
lương và thu nhập từ kinh doanh. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của
thuế thu nhập cá nhân là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện
công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng
được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất
càng cao.
- Thứ tư, thuế TNCN là loại thuế có tính ổn định không cao và phức tạp.
Đặc điểm này của thuế TNCN thể hiện ở chỗ các quy định về thu nhập chịu
thuế, thu nhập không chịu thuế thường xuyên thay đổi theo từng biến động của nền
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Ngoài ra, các quy định như giảm trừ gia cảnh,
về mức thuế suất cũng có sự thay đổi linh hoạt do thuế điều tiết trực tiếp vào thu
nhập của cá nhân nên có tác động rất lớn đến mức sống của dân cư và chịu ảnh
hưởng bởi giá cả trên thị trường.


11

Việc quản lý thuế TNCN tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế thường
lớn hơn so với các loại thuế khác bởi ngoài việc xác định các khoản thu nhập chịu
thuế còn phải xác định nguồn gốc thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu, tính ổn
định của thu nhập. Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được các
khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu
công bằng và khuyến khích đối với đối tượng nộp thuế.
- Thứ năm, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế TNCN bao gồm các văn bản pháp
luật quốc gia và cả luật quốc tế.
Đây là đặc trưng của thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng. Hầu
hết thuế TNCN của các quốc gia trên thế giới khổng chỉ áp dụng đối với công dân
của mình mà còn áp dụng đối với người nước ngoài có thu nhập chịu thuế phát

sinh trên lãnh thổ quốc gia đó. Để tránh tình trạng đánh thuế hai lần lên một đối
tượng chịu thuế, các hiệp định tránh đánh thuế hai lần được ký kết giữa các quốc
gia cũng là nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế TNCN.
1.1.3. Vai trò của thuế TNCN
Thứ nhất, thuế TNCN góp phần tạo nguồn thu cho NSNN
Thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng là công cụ chủ yếu của Nhà nước
nhằm huy động một bộ phận của cải trong xã hội nhằm tạo nguồn thu cho NSNN.
Bất kỳ Nhà nước nào để thực hiện được các chức năng cơ bản của mình đều phải
có nguồn lực vật chất và thuế là nguồn thu quan trong để đáp ứng nhu cầu đó.
Thuế TNCN được hình thành từ việc điều tiết một phần thu nhập chịu thuế
của các cá nhân trước khi hành vi tiêu dùng xảy ra. Mức thu thuế sẽ tỷ lệ thuận với
sự phát triển của nền kinh tế và mức sống của người dân trong xã hội, có nghĩa là
thu nhập của dân cư càng cao thì mức thu từ thuế TNCN càng tăng. Do đó, thuế
TNCN đang dần đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nguồn thu từ thuế cho
NSNN.
Ngoài ra, thuế TNCN còn góp phần hạn chế sự thất thu thuế TNDN. Bởi
trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế TNDN và thuế TNCN. Thuế TNCN còn
góp phần khắc phục sự thất thu thuế TNDN khi có sự thông đồng giữa các doanh


12

nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê
khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu nhập
tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế TNDN thì các cá nhân nhận được những
khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế TNCN đối với phần thu nhập nhận được
kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên
của thuế TNCN và thuế TNDN.
Thứ hai, thuế TNCN là công cụ để Nhà nước tái phân phối sản phẩm xã hội, giảm
phân hóa giàu nghèo, góp phần đảm bảo tính công bằng trong xã hội.

Có thể nói rằng đây là vai trò đặc trưng và cơ bản nhất của thuế TNCN. Sở
dĩ như vậy là do thuế TNCN điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân cùng với
tính chất lũy tiến của thuế TNCN đã thu hẹp được khoảng cách về thu nhập của
các cá nhân có mức thu nhập cao và các cá nhân có thu nhập thấp.
Theo Michel Bouvier, các sắc thuế trực thu trong đó có thuế TNCN có khả
năng cá nhân hóa tốt hơn, việc đánh thuế có tính đến điều kiện và hoàn cảnh của
người nộp thuế nên nó đảm bảo tính công bằng tốt hơn. Tất nhiên khi đề cập đến
vấn đề tính công bằng của thuế TNCN vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi khi những
người có thu nhập càng cao sẽ phải nộp thuế nhiều hơn những người có thu nhập
thấp khi thuế được áp dụng theo tính chất lũy tiến như hiện nay [20;tr.222].
Tính công bằng của thuế TNCN còn được thể hiện ở chỗ nghĩa vụ thuế được
áp dụng trên cơ sở có tính đến điều kiện và hoàn cảnh sống của người nộp thuế.
Người nộp thuế không bị giới hạn về các khoản được giảm trừ hợp pháp như số
lượng người phụ thuộc khi xác định giảm trừ gia cảnh; số lần tham gia từ thiện,
nhân đạo,..Như vậy, cùng có thu nhập bằng nhau nhưng các cá nhân có thể phải
thực hiện nghĩa vụ thuế khác nhau nếu số lượng người phụ thuộc của họ không
giống nhau. Đây là một đặc điểm mà các loại thuế gián thu không thể tính đến
được bởi nghĩa vụ thuế chỉ có thể phát sinh khi hành vi tiêu thụ hang hóa, dịch vụ
xảy ra.
Thứ ba, thuế TNCN là công cụ gắn liền với việc thực hiện chính sách kinh tế, chính
sách xã hội của Nhà nước.


13

Thuế TNCN không chỉ là công cụ huy động nguồn thu NSNN, thực hiện
công bằng xã hội mà còn là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước
trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Loại thuế này điều tiết trực tiếp thu nhập cá nhân nên một mặt tác động trực tiếp

đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của các cá nhân bị giảm.Từ
đó cầu hàng hoá, dịch vụ giảm sẽ tác động đến sản xuất.
Ngoài ra để tiến hành thu thuế TNCN, Nhà nước cũng phải xây dựng một hệ
thống hành thu thuế, từ đó sẽ đánh giá được tình hình thu nhập của dân cư cũng
như thực trạng của nền kinh tế. Từ những đánh giá đó mà Nhà nước có thể đưa ra
các chính sách kinh tế khác phù hợp hơn như chính sách về việc làm, chính sách
bảo hiểm, chính sách trợ cấp xã hội,…
Thứ tư, thuế TNCN góp phần giúp Nhà nước kiểm soát thu nhập, phát hiện thu
nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được
từ việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở
của pháp luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối, buôn bán
hàng quốc cấm, trốn tránh thuế , lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công
dân… Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế–xã hội của mỗi
quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những
hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của
thuế TNCN.
1.2. Khái quát chung về pháp luật thuế TNCN
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế TNCN
Để thực hiện hoạt động thu thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng, sự điều
chỉnh của Nhà nước thông qua các quy định pháp luật là hết sức cần thiết. Việc ban
hành các văn bản pháp luật về thuế TNCN có ý nghĩa quan trọng, tạo căn cứ pháp
lý cho việc áp dụng thuế TNCN trên thực tế. Bởi suy cho cùng, mặc dù Nhà nước
nào cũng có quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực, Nhà


14

nước phải sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình
để thực hiện các mục tiêu đã định.

Như vậy, pháp luật thuế TNCN là tổng hợp các qui phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thu, nộp thuế của cá nhân có phát sinh thu nhập theo qui định
của pháp luật.
Pháp luật thuế TNCN phải được xây dựng dựa vào những tiêu chuẩn nhất
định và điều chỉnh tổng thể các loại thuế khác nhau nhưng có mối quan hệ với
nhau. Xây dựng hệ thống pháp luật thuế TNCN cần xem xét và thực hiện theo
những căn cứ cơ bản như đảm bảo nguồn vật chất chi tiêu nhà nước; những yếu tố
liên quan đến tình hình phát triển kinh tế, thu nhập của dân cư, định hướng phát
triển của Nhà nước; yêu cầu đảm bảo bao quát hết nguồn thu cho NSNN và đảm
bảo yêu cầu của các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế quốc tế trong từng
giai đoạn cụ thể.
1.2.2. Lịch sử hình thành pháp luật về thuế TNCN
1.2.2.1. Quá trình hình thành pháp luật thuế TNCN trên thế giới
Thuế TNCN là loại thuế phổ biến trên thế giới và có lịch sử ra đời sớm. Lần
đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế TNCN được đưa vào thực hiện như một hình
thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và
được chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển khác
cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, pháp 1916 và
Liên Xô năm 1922.
Thuế TNCN được tính theo hai phương pháp chính sau:
- Phương pháp tính thuế theo từng hộ gia đình: được áp dụng ở Pháp, Hà
Lan. Với phương pháp tính thuế này, bảo đảm tính công bằng xã hội cao hơn
nhưng phức tạp bởi hộ gia đình phải mở sổ sách kế toán theo dõi nguồn thu nhập
của các thành viên trong gia đình.
- Phương pháp tính thuế thu nhập đối với từng cá nhân: được áp dụng phổ
biến ở Anh, Nhật Bản, Thụy Điển. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ


15


làm, đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên phương pháp này có hạn chế là
chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho hiệu quả
và đáp ứng yêu cầu đảm bảo công bằng xã hội, nhất là những cá nhân có người phụ
thuộc [21; tr.199].
Pháp luật thuế TNCN các quốc gia thường đề cập đến các nội dung cơ bản
như: Đối tượng nộp thuế; Thu nhập chịu thuế: Thu nhập không chịu thuế; Căn cứ
tính thuế; Thuế suất.Việc thu nộp thuế được áp dụng theo phương pháp khấu trừ
thuế tại nguồn phát sinh thu nhập, theo đó người chi trả thu nhập giữ lại tiền thuế
để nộp vào NSNN trước khi trả thu nhập cho người nhận.
Pháp luật thuế TNCN có vai trò rất quan trong trong hệ thống pháp luật thuế
của nhiều quốc gia, đặc biệt là trong việc huy động nguồn thu NSNN, phân phối
thu nhập, giảm sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Tuy nhiên đặt ra mức thuế
cao hay thấp, đánh vào tổng thu nhập hay đánh vào từng khoản thu nhập khác nhay
của các chủ thể thường phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt
ra trong chính sách kinh tế, xã hội của từng nước trong từng thời kỳ nhất định.
1.2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam
Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế
TNCN nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải
cách vào năm 1972.
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế
của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 05
lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần
thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày
6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên nhưng khoảng cách chênh lệch
về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp



16

cũng có xu hướng ngày càng tăng. Như vậy, việc áp dụng thuế TNCN sẽ góp phần
đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước
sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân. Thông qua đó vừa thực hiện nguồn
lực vừa góp phần chống tham nhũng, lãng phí.
Tuy nhiên, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong quá trình áp
dụng đã bộc lộ nhiều nhược điểm như: Phạm vi điều chỉnh tương đối hẹp do không
đánh thuế đối với một số khoản thu nhập không thường xuyên, không đánh thuế
đối với cá nhân kinh doanh; Chưa thật sự công bằng do không khấu trừ các khoản
chi phí cần thiết để duy trì cuộc sống; Biểu thuế lũy tiến từng phần có thuế suất lũy
tiến quá nhanh, lại không bình đẳng giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
Ngoài ra, thu nhập của cá nhân đồng thời được điều tiết bởi các văn bản như: Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNDN và Luật thuế
chuyển quyền sử dụng đất. Những nhược điểm nói trên cần được khắc phục khi
ban hành Luật thuế TNCN.
Trước bối cảnh kinh tế - xã hội đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, ngày 21/11/2007 Quốc hội đã ban hành Luật thuế TNCN và
chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009 thay thế cho Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao.
Luật thuế TNCN 2007 đã khắc phục được những nhược điểm của Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Từ khi thực hiện, Luật thuế TNCN đã
đạt được những mục tiêu đề ra như: đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp
thuế, đối tượng chịu thuế; Đảm bảo động viên hợp lý thu nhập của dân cư, góp
phần đảm bảo công bằng xã hội, thống nhất các quy định về thuế áp dụng đối với
cá nhân có thu nhập; Góp phần đảm bảo nguồn thu NSNN; Từng bước góp phần
thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư.

Tuy nhiên qua một thời gian thực hiện, một số điều khoản của Luật thuế
TNCN đã không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN đã được ban hành vào ngày


17

21/12/2012, bắt đầu có hiệu lực thi hành từ 1/1//2014, trong đó một số điều khoản
đã có hiệu lực từ 1/7/2013 được xây dựng, ban hành nhằm tập trung sửa đổi, bổ
sung những nội dung bất cập so với thực tế, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật và có tính ổn định; việc sửa đổi đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến
số thu NSNN. Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN cũng góp phần tăng tính
cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với
nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.
Như vậy, mặc dù thuế TNCN ở Việt Nam ra đời khá sớm nhưng pháp luật
về thuế TNCN vẫn còn chưa đồng bộ và hoàn thiện, dẫn đến nảy sinh nhiều bất
cập trong quá trình áp dụng.
1.2.3. Các nguyên tắc đánh thuế áp dụng trong pháp luật thuế TNCN
Nguyên tắc đánh thuế của nhà nước là hệ thống quan điểm chỉ đạo chi phối sâu
sắc vấn đề đặt ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế. Thuế TNCN cũng như các sắc
thuế khác đều có sự ảnh hưởng nhất định đến Nhà nước và người nộp thuế. Việc điều
tiết trực tiếp thu nhập của cá nhân sẽ làm cho thuế TNCN tạo ra những tác động đa
chiều đến tâm lý người nộp thuế, do đó việc tuân thủ các nguyên tắc đánh thuế là
nhằm đảm bảo việc thu thuế đạt hiệu quả cao nhất kể cả về số thu, chi phí và mức độ
tác động xã hội của thuế.
1.2.3.1. Nguyên tắc đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế trong thuế
TNCN
Nội dung của nguyên tắc bày là việc áp dụng thuế TNCN phải đảm bảo mọi đối
tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế; mọi đối tượng có điều kiện liên quan

đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau. Trong những trường hợp có sự
khác nhau về điều kiện chịu thuế thì tính công bằng vẫn được đảm bảo. Đó là nếu có
điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác nhau nhưng cùng loại phải được đối xử
với nhau tương xứng.
Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng còn thể hiện ở chỗ những đối tượng được
hưởng các ưu đãi, giảm trừ thuế TNCN giống nhau thì phải được hưởng các chế độ về


18

thuế như nhau. Những đối tượng được khuyến khích, ưu đãi khi có đủ điều kiện cũng
được hưởng sự đối xử ưu đãi tương ứng. [21;tr.18]
1.2.3.2. Nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ việc đánh thuế TNCN phải đảm
bảo nguồn thu cho NSNN nhưng không được để cho người nộp thuế lâm vào tình
trạng khó khăn. Bởi đặc trưng của thuế trực thu nói chung và thuế thu nhập trong đó
có thuế TNCN nói riêng là Nhà nước động viên trực tiếp vào thu nhập, tài sản của
người nộp thuế mà chủ yếu thông qua cơ chế khấu trừ trực tiếp tại nguồn phát sinh thu
nhập. Nếu tổng số thuế phải trả quá lớn thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người dân,
nguy cơ trốn thuế rất tiềm tàng nhưng nếu nghĩa vụ thuế quá thấp thì lại không đảm
bảo nguồn thu cho NSNN.
Chính vì vậy việc xác định thế nào là cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người
nộp thuế TNCN là không đơn giản. Việc ban hành luật thuế TNCN phải dựa trên căn
cứ là việc tính toán số tiền thuế người dân phải trả chứ không chỉ xuất phát từ nhu cầu
chi tiêu của Chính phủ [21;tr.19]
1.2.3.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật thuế TNCN
Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng luật thuế TNCN phải đơn giản, rõ rang,
dễ hiểu, minh bạch và giảm chi phí cho mọi chủ thể liên quan.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi các quy định của Luật thuế phải có tính ổn định
cao, dễ tiếp cận và dễ hiểu, dễ thực hiện. Mặt khác, việc tổ chức bộ máy hành thu

phải được tổ chức sao chi phí quản lý thu thuế TNCN không cao hơn mức chi phí
cho phép trong mục tiêu đề ra. Ngoài ra, việc áp dụng luật thuế TNCN cũng phải
tính tới mối tương quan giữa tổng thu dự tính đạt được và chi phí phải trả cho việc
thu và quản lý thuế TNCN [21;tr.20].
1.2.3.4 Nguyên tắc tránh đánh thuế hai lần
Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi việc đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra
tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần.


19

Tình trạng đánh thuế trùng chủ yếu xảy ra đối với thuế thu nhập, phát sinh từ
việc các quốc gia trên thế giới áp dụng đồng thời quyền thu thuế theo yếu tố lãnh thổ
và quyền thu thuế theo yếu tố quốc tịch.
Để giải quyết tình trạng đánh thuế trùng, nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống pháp
luật thuế của một quốc gia phải bóc tách những phần của đối tượng tính thuế đã nằm
trong diện chịu loại thuế đó ở giai đoạn trước. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật thuế
giữa các quốc gia cũng phải tính tới khả năng các nhà đầu tư, công dân của quốc gia
này nhưng có đối tượng tính thuế ở một quốc gia khác. Do đó việc các nước tham gia
kí kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần là điều rất cần thiết.


20

CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thuế TNCN
2.1.1. Quy định về phạm vi áp dụng thuế TNCN
2.1.1.1. Đối tượng nộp thuế

Việc quy định đối tượng nộp thuế của Luật thuế TNCN hiện hành so với quy định
trước đây của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đảm bảo tính
hợp lý hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó biểu hiện ở các khía cạnh sau:
- Quy định về phạm vi chịu thuế
Trước đây, nguyên tắc đánh thuế thu nhập đối với cá nhân dựa trên tiêu chí
phân biệt công dân Việt Nam và người nước ngoài và giữa người nước ngoài với
nhau. Cách xác định phạm vi chịu thuế này thể hiện sự phân biệt không cần thiết
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, giữa người nước ngoài cư trú không
thời hạn và có thời hạn ở Việt Nam gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài của Nhà nước.
Chính vì vậy, pháp luật thuế hiện hành đã có sự thay đổi khi xác định phạm
vi chịu thuế Nhà nước chỉ dựa trên tiêu chí là yếu tố cư trú của đối tượng nộp thuế.
Cụ thể tại Điều 2 Luật thuế TNCN quy định: “Đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này
phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập
chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.”
Việc quy định như vậy đã tạo sự bình đẳng giữa công dân Việt Nam và
người nước ngoài, đồng thời cũng tránh được sự phức tạp trong việc xác định đối
tượng chịu thuế. Hơn nữa, nó còn thể hiện thiện chí của nước ta trong việc nỗ lực
thực hiện chế độ đãi ngộ quốc gia, tạo môi trường mở và tâm lý yên tâm cho nhà
đầu tư, người nước ngoài khi vào làm việc và sinh sống tại Việt Nam.


×