Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Những điểm mới của luật hợp tác xã 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI YẾN

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ 2012

Chuyên ngành: Pháp luật kinh tế
Mã số: 60380107.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS DƢƠNG ĐĂNG HUỆ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “Những điểm mới của Luật hợp tác xã 2012” xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả;
- Luận văn đƣợc thực hiện độc lập dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Dƣơng Đăng Huệ.
- Những thông tin, số liệu, bản án đƣợc trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong các luận văn
khác.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Dƣơng Đăng Huệ đã hƣớng dẫn
tận tình để em có thể hoàn thành luận văn. Ngoài ra em xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến


thầy cô trƣờng Đại học Luật, cơ quan đang công tác đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
trong thời gian em viết luận văn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hải Yến


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT HỢP TÁC XÃ 2003 ................... 5
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp tác xã ................................................ 5
1.2. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật hợp tác xã 2003 ........................ 21
CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ
2012 ...................................................................................................................... 32
2.1. Qui định rõ hơn về bản chất hợp tác xã.................................................... 32
2.2. Qui định đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã và xã viên .. 43
2.3. Đơn giản hóa về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh .................... 48
2.4. Hoàn thiện cơ cấu về tổ chức và cơ chế quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã ................................................................................................................ 51
2.5. Sửa đổi, bổ sung một số qui định về tài chính của hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã ........................................................................................................ 52
2.6. Xác định rõ hơn về chính sách ƣu đãi, hỗ trợ hợp tác xã ....................... 53
2.7. Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã ......................... 56
2.8. Về tổ chức đại diện hợp tác xã ................................................................... 58
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
LUẬT HỢP TÁC XÃ 2012 ................................................................................ 60
3.1. Sớm ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật hợp tác xã 2012 60
3.2. Đây mạnh công tác tuyên truyền phổ biến về Luật hợp tác xã 2012….62
3.3. Xây dựng cơ quan quản lý nhà nƣớc thống nhất về hợp tác xã ............. 64
3.4. Xây dựng và triển khai chƣơng trình phát triển hợp tác xã .................. 67



DANH MỤC VIẾT TẮT
HTX: hợp tác xã
LH HTX: liên hiệp hợp tác xã
DN: Doanh nghiệp


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, kinh tế hợp tác, hợp tác xã đƣợc quan tâm và phát triển từ rất
sớm- ngay khi đất nƣớc giành độc lập. Sau này, qua các thời kỳ mặc dù HTX có
lúc gặp phải khó khăn tƣởng chừng nhƣ không thể tồn tại đƣợc, nhƣng với sự
quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, HTX dần lấy lại đƣợc vị thế của mình. Tại
Nghị Quyết Đại Hội IX, X về Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và
nhiệm vụ trọng tâm 2011 đã chỉ rõ: “Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” và nêu rõ các hình
thức tồn tại của kinh tế tập thể, theo đó “Kinh tế tập thể phát triển với hình thức hợp
tác đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt” và “trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy
tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và HTX
cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại”
(1)

.

Mới đây nhất, Đại hội XI (2011) quyết định: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế
tập thể với những hình thức đa dạng mà nòng cốt là HTX”, đã thông qua Nghị
quyết về “Xây dựng nông thôn mới” trong đó có nhấn mạnh vai trò to lớn của

HTX trong việc thực hiện chủ trƣơng này.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng: Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ bao
cấp hay đổi mới nói chung và nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng thì HTX vẫn là
nền tảng của nền kinh tế bền vững phát triển. Do đó, để nhằm thúc đẩy mô hình
HTX phát triển một cách tƣơng xứng với vị trí, vai trò mà Đảng và Nhà nƣớc định

1

“Nội dung chủ yếu của Chiến lƣợc phát triển KT - XH năm 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011”,

website Thủ tướng Chính phủ, truy cập ngày 3/1/2014 tại địa chỉ: />

2

ra, nhiều chủ trƣơng, chính sách đã đƣợc ban hành, trong đó, phải kể đến Luật HTX
1996, Luật HTX 2003. Tuy nhiên, vì đó là những cơ sở pháp lý đầu tiên nên không
thể không tránh khỏi những bất cập, vƣớng mắc. Mặc dù Luật HTX 2003 đã khắc
phục đƣợc khá tốt những hạn chế của Luật HTX 1996 nhƣng trong quá trình thi
hành trên thực tiễn vẫn còn những bất cập, điển hình là nhận thức về bản chất và mô
hình pháp lý HTX chƣa thống nhất, có nhiều cách hiểu khác nhau, dễ gây nhầm lẫn,
thậm chí còn lệch lạc: bị nhầm lẫn với mô hình DN hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2013) hoặc bị coi là tổ chức xã hội- từ thiện;
thậm chí còn cho rằng HTX là cánh tay dài của chính quyền địa phƣơng và Nhà
nƣớc.
Với mục đích tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của HTX, LH HTX một
cách vững chắc trong bối cảnh kinh tế nƣớc ta nhƣ hiện nay; vừa qua Quốc hội đã
thông qua Luật Hợp tác xã 2012 nhằm khắc phục những vƣớng mắc, hạn chế của
Luật HTX 2003. Luật mới này đã thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng về HTX,
góp phần làm rõ và thống nhất nhận thức về bản chất tổ chức HTX, phù hợp với
kinh nghiệm quốc tế phổ biến và xu hƣớng mới phát triển HTX ở nƣớc ta.

Để làm rõ hơn về những điểm mới cũng nhƣ những tiến bộ, những thuận lợi
mà Luật HTX 2012 mang lại cho sự phát triển của HTX, LH HTX trong điều kiện
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo cơ sở cho việc áp dụng
những qui định của Luật vào thực tiễn có hiệu quả, tôi đã chọn đề tài luận văn của
mình về “Những điểm mới trong Luật Hợp tác xã 2012”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong những năm qua, HTX nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu lý luận và những ngƣời hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Tuy
nhiên, từ khi Luật HTX 2012 đƣợc thông qua, đối với những nghiên cứu về những
điểm mới Luật HTX 2012 cũng chƣa có nhiều các công trình, đề tài, luận văn, luận


3

án; chỉ có một số báo cáo hoặc là các chuyên đề phục vụ cho công tác giải trình
những điểm mới của luật. Trong đó có thể kể đến: Chƣơng trình 585 “Quy định về
tổ chức hoạt động của hợp tác xã”- PGS. TS Bùi Nghị- Vụ phó Vụ hợp tác xã; Báo
cáo tổng thuật hội thảo khoa học “ Về những điểm mới trong các đạo luật về kinh tế
ban hành năm 2012”- Th.s Bùi Thị Thanh Thảo; Bộ kế hoạch và đầu tƣ- Vụ hợp tác
xã, (2012), “Tư tưởng HTX kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”,
NXB.Chính trị quốc gia. Các báo cáo chuyên đề này chỉ dừng lại ở mục đích giải
trình những điểm mới của luật, chƣa đi sâu phân tích, làm nổi bật những điểm mới,
tiến bộ, những ƣu điểm, tính khả thi của Luật HTX 2012 so với Luật HTX 2003.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận HTX, LH HTX; những chủ
trƣơng, chính sách của Đảng về việc phát triển HTX, LH HTX và đặc biệt là tập
trung phân tích, đánh giá những qui định mới trong Luật HTX 2012 so với Luật
HTX 2003. Qua đó, làm nổi bật bản chất đặc thù, riêng có của HTX, LH HTX và
những chính sách ƣu đãi mới nhà nƣớc dành riêng cho HTX...
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Phƣơng pháp luận: Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch
sử và cụ thể. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp khảo sát thu thập thông tin số liệu; phƣơng
pháp thống kê; phƣơng pháp phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp để đƣa ra đƣợc
những đánh giá trung thực và chính xác nhất đối với các quy định mới của Luật,
nhằm phục vụ cho việc hoàn thành luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu
5.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và đánh giá những quy định mới của Luật


4

HTX 2012, từ đó có đƣợc nhận thức đúng về bản chất HTX, LH HTX giúp ngƣời
đọc phân biệt rõ HTX với các loại hình DN đang tồn tại trong nền kinh tế nƣớc ta
để có đƣợc sự lựa chọn đầu tƣ phù hợp với nhu cầu của mình.
Ngoài ra, luận văn có thêm mục đích thứ hai là đề xuất giải pháp và phƣơng
hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật HTX 2012 trong thực tiễn.
5.2.

Nhiệm vụ

Để đạt đƣợc mục đích đề ra, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về HTX nhƣ: khái niệm, bản chất,
nguyên tắc hoạt động và tổ chức HTX, sự khác biệt giữa HTX và doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng trong quá trình

phát triển HTX.
+ So sánh giữa Luật HTX 2012 và Luật HTX 2003 để từ đó thấy đƣợc
những quy định mới, tiến bộ hơn nhằm khắc phục những vƣớng mắc, bất cập của
Luật HTX 2003 tạo đà cho sự phát triển của HTX.
6. Cơ cấu luận văn
Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp tác xã và sự cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung Luật hợp tác xã 2003.
Chương 2: Những điểm mới của Luật hợp tác xã 2012.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật hợp tác
xã 2012


5

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT HỢP TÁC XÃ 2003
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp tác xã
1.1.1. Bản chất và đặc điểm hợp tác xã
1.1.1.1. Bản chất hợp tác xã
Bản chất HTX và nhận thức đúng đắn về nó là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Bởi lẽ, nếu nhƣ nhận thức về bản chất HTX còn chƣa rõ ràng, chƣa thống nhất, còn
mang tính chủ quan duy ý chí, áp đặt thì sẽ làm cho HTX trở nên hình thức, phát
triển không bền vững; sẽ làm mất đi vai trò kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà
HTX mang lại đối với nền kinh tế thị trƣờng. Hơn nữa, bản chất của HTX còn là
yếu tố quyết định các vấn đề quan trọng khác liên quan đến HTX nhƣ quyền, nghĩa
vụ của thành viên, quyền và nghĩa vụ của HTX, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý
HTX, xử lý tài sản khi giải thể HTX…. Do đó, việc làm rõ bản chất HTX còn là cơ
sở để nhà nƣớc hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật, ban hành các chính sách ƣu đãi, hỗ
trợ có tính chất đặc thù cho HTX

Ngày nay, trên thế giới, bản chất HTX đƣợc thể hiện khá sinh động tại nhiều
các văn bản có giá trị pháp lý cao. Trong khuyến cáo của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) và trong định nghĩa về HTX đƣợc coi là có giá trị nhất trên thế giới của Liên
minh hợp tác xã quốc tế (ICA) trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm phát triển HTX trên
thế giới gần 200 năm qua thì:
“Hợp tác xã là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của các cá nhân liên kết với
nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế,
xã hội và văn hóa thong qua một doanh nghiệp được sở hữu chung và được kiểm
soát một cách có dân chủ”.
Còn tại Việt Nam, về mặt lý luận, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh (ngƣời đƣa HTX
vào Việt Nam trên cơ sở vận dụng tổng hợp HTX trên thế giới) về HTX rất đơn


6

giản nhƣng phản ánh toàn diện bản chất, với các cụm từ: "Nhóm lại thành giàu,
chia nhau thành khó", "Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây chụm lại nên hòn núi
cao", “Hợp tác xã là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi hao của, tốn công, lại có
phần vui vẻ”

(2)

. Do đó, mục đích chính của xã viên khi thành lập HTX là để thỏa

mãn nhu cầu chung, vì lợi ích chung mà không phải là vì lợi nhuận.
Bản chất đặc thù này cũng đƣợc thể hiện rõ nét tại Điều 3 Luật HTX 2012,
theo đó, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, do các thành viên tự nguyện
thành lập, với mục đích là phục vụ cho chính mình mà không phải phục vụ cho lợi
ích đại chúng.
Nhƣ vậy, xét cho cùng hạt nhân của bản chất HTX đƣợc thể hiện thông qua

3 đặc điểm: tính tự nguyện, thành lập trên cơ sở nhu cầu và nguyện vọng chung và
tính chất đối nhân sâu sắc.
(1) Thành viên thành lập và tham gia HTX trên tinh thần tự nguyện:
Xuất phát từ định nghĩa mang tính phổ biến trên thế giới và đã đƣợc tổ chức
lao động quốc tế (ILO) và Liên minh HTX quốc tế khuyến cáo chính thức thì
nguyên tắc đầu tiên để lập ra HTX là “tham gia tự nguyện”. Có nghĩa là việc gia
nhập hay rút khỏi HTX phải xuất phát từ nguyện vọng của cá nhân thành viên;
ngƣời tham gia HTX không bị bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào ép buộc tham gia
hoặc bị buộc phải ra khỏi HTX. Điều này lý giải cho việc khi các thành viên đã
tham gia HTX là sẵn sàng, tự nguyện chấp nhận các nghĩa vụ, trách nhiệm bản thân
đồng thời họ cũng không có sự phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo; bên cạnh đó,
nếu xét thấy HTX không mang lại lợi ích cho mình cũng có quyền ra khỏi HTX
theo qui định. Nguyên tắc này xuất phát từ một thực tế khách quan: nếu bị bắt buộc
phải làm việc trong các HTX và tập đoàn sản xuất, các thành viên sẽ không có hứng

2

Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội,2011, t.2, tr342-347


7

thú, không “chung lƣng đấu cật”, không đồng lòng vì hoạt động của HTX, thái độ
làm việc không tích cực, làm chống đối và do vậy hậu quả tất yếu sẽ xảy ra là hoạt
động của HTX bị đình trệ, yếu kém, nghèo nàn, thậm chí là bị giải thể.
(2) HTX được thành lập trên cơ sở nhu cầu và nguyện vọng chung
Thông qua HTX, thành viên đƣợc đáp ứng nhu cầu với chi phí rẻ, chất lƣợng
tốt và đảm bảo độ tin cậy; phƣơng án sản xuất, kinh doanh của HTX là phƣơng án
tổ chức hoạt động đã đƣợc bàn bạc dân chủ và đƣa vào điều lệ; HTX đăng ký kinh
doanh những ngành nghề tạo sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu chung của thành

viên chứ không phải ngành nghề đáp ứng vì nhu cầu thị trƣờng.
Mặc dù, HTX đƣợc thành lập trên cơ sở đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng
chung của các thành viên, nhằm phục vụ chính những ngƣời đã sáng lập nên nó
nhƣng điều đó không có nghĩa rằng HTX là tổ chức từ thiện, lại càng không phải là
tổ chức xã hội. Nếu nhƣ tổ chức từ thiện đáp ứng nhu cầu chung của thành viên
dƣới hình thức trợ cấp; nếu nhƣ tổ chức xã hội đƣợc thành lập ra nhằm bảo vệ
quyền lợi chung của thành viên, không độc lập về tài chính mà phải dựa vào sự
đóng góp của hội viên, mang tính chất hội, hiệp hội; thì HTX lại là tổ chức kinh tế,
đặc biệt thúc đẩy “hợp tác” nhằm đáp ứng một cách hiệu quả nhu cầu trong hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội của thành viên. Nét đặc trƣng này cũng đã đƣợc khắc
họa trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về HTX “HTX khác với hội buôn, vì hội buôn lợi
riêng, hợp tác xã lợi chung. HTX tuy là giúp đỡ nhau nhưng không giống các hội từ
thiện. Vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm ra và giúp đỡ bất kỳ ai nhưng có ý bố
thí. HTX có tiêu đi có làm ra, chỉ giúp cho người trong hội, nhưng giúp một cách
bình đẳng, một cách “kách mệnh” ai cũng giúp mà ai cũng bị giúp” (3).
Theo Ngƣời, thì trƣớc hết, HTX đƣợc lập ra vì lợi ích chung, vì nguyện vọng

3

Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội,2011, t.2, tr.342-347


8

chung, hoạt động cũng dựa trên nguyên tắc đó, đồng thời các xã viên giúp đỡ nhau
trong hoạt động sản xuất nhƣng giúp đỡ ở đây không có nghĩa là “bố thí”, là cho
không mà phải có sự lao động, ai cũng đƣợc giúp nhƣ nhau, công bằng.
Nếu HTX rời rạc, thiếu sự hợp tác, thiếu sự liên kết, hoạt động không đúng
với mục tiêu đích thực thì vấn đề tiêu vong là tất yếu. Vì vậy, chúng chỉ thực sự là
HTX đúng nghĩa khi có sự liên kết với nhau trên cơ sở đáp ứng lợi ích chung của

các thành viên HTX. Nói tóm lại, nhu cầu và nguyện vọng chung chính là yếu tố
hàng đầu, gắn kết giữa các cá nhân, tổ chức lại với nhau thành HTX, quyết định sự
ra đời và tồn vong của tổ chức này. Đây chính là một trong ba đặc trƣng của bản
chất HTX.
(3) HTX có tính chất đối nhân
Các tổ chức kinh tế thƣờng đƣợc chia thành hai loại, đó là tổ chức mang tính
chất đối nhân và tổ chức mang tính chất đối vốn. Tổ chức kinh tế đối vốn là các tổ
chức thành lập dựa trên cở sở liên kết về vốn, không quan tâm đến yếu tố nhân thân
của ngƣời góp vốn. Còn đối với tổ chức kinh tế đối nhân là những tổ chức đƣợc
thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành
viên tham gia, sự góp vốn là yếu tố thứ yếu.
DN giống nhƣ HTX, về bản chất cũng là một phƣơng thức liên minh của
những cá nhân nhằm mục đích thực hiện những mục tiêu kinh doanh cụ thể. Tuy
nhiên, những loại hình DN điển hình đƣợc tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc đối
vốn (trừ công ty hợp danh – với khái niệm về công ty hợp danh đƣợc qui định tại
khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 đã ghi nhận loại hình công ty này hoạt
động trên nguyên tắc đối nhân); trong khi đó, nguyên tắc hoạt động cơ bản của
HTX lại là đối nhân, quyền lực và lợi ích của các thành viên không phụ thuộc vào
mức độ góp vốn mà phụ thuộc vào mức độ tham gia sử dụng dịch vụ của HTX.
Tính đối nhân của HTX đƣợc thể hiện ở chỗ: thành viên vừa là chủ sở hữu, là ngƣời


9

quản lý của HTX; đồng thời cũng là ngƣời hƣởng lợi (là khách hàng của HTX):
Thành viên HTX vừa là chủ sở hữu HTX, vừa là người quản lý: Các thành
viên HTX là những ngƣời tham gia vào các hoạt động sản xuất của HTX và họ cũng
chính là ngƣời đóng góp tài chính để thành lập nên tổ chức này, do đó họ là các
đồng sở hữu HTX. Theo đó, họ có quyền quản lý, có quyền tham gia bầu cử, ứng cử
vào các vị trí của HTX, có quyền bỏ phiếu các quyết định quan trọng mà không phụ

thuộc vào mức độ góp vốn; không một xã viên nào, dù góp vốn nhiều bao nhiêu thì
cũng không thể chi phối hay thao túng HTX, làm HTX biến tƣớng đƣợc. Để xác
định tƣ cách cũng nhƣ địa vị pháp lý của các thành viên HTX không phải dựa vào
mức vốn góp của họ, mà phải dựa vào nhu cầu, nguyện vọng chung cần đƣợc đáp
ứng; mà đã là thành viên của HTX thì lẽ đƣơng nhiên họ có chung nhu cầu và
nguyện vọng, cho nên, quyền tham gia quản lý HTX của họ là bình đẳng. Đây chính
là điểm khác biệt so với DN đối vốn, thành lập ra vì mục đích lợi nhuận.
Thành viên HTX còn là người hưởng lợi của HTX (là khách hàng của HTX):
Nhƣ đã phân tích ở trên, HTX hoạt động trƣớc hết nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu
của thành viên, coi thành viên là ngƣời tiêu dùng đầu tiên và quan trọng nhất. Vì
vậy, khoản thu nhập còn lại sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ đƣợc chia theo
mức độ sử dụng sản phầm và dịch vụ của HTX của mỗi thành viên chứ không chia
theo mức độ vốn góp nhƣ trong doanh nghiệp. Đây chính là đặc điểm giúp phân biệt
giữa HTX với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng này.
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp tác xã
Về mặt kinh tế, HTX là một tổ chức kinh tế liên kết các thành viên HTX,
được hình thành một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu chung của họ theo
nguyên tắc “tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ”.
Liên minh HTX quốc tế (ICA) nhấn mạnh: “HTX là tổ chức sở hữu tập thể
và quản lý dân chủ, hoạt động theo các giá trị: tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm,


10

dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. HTX coi con người là trung tâm và
giúp đỡ xã viên thông qua việc ra quyết định một cách dân chủ, mở ra các phương
thức giúp xã viên đạt được những mong muốn về kinh tế, xã hội và văn hóa.”
Cũng theo nhƣ Gs.Ts. Hans Muenkner, nguyên Viện trƣởng Viện Hợp tác xã
(ĐH Tổng hợp Marburg - Đức) trong Hội thảo góp ý cho dự thảo Luật HTX (sửa
đổi) do Ủy ban kinh tế của Quốc hội tổ chức ngày 14/5/2012 cho rằng “cần phải

nhận thức rõ bản chất của mô hình HTX là mô hình tự trợ giúp, tự chịu trách
nhiệm”.(4)
Khoản 1 điều 3 Luật HTX 2012: “HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở
hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác
tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp
ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng và dân chủ trong quản lý HTX”.
Là một tổ chức kinh tế tập thể, các HTX đƣợc hình thành trên cơ sở gắn kết
giữa các thành viên nhằm hợp tác tƣơng trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của họ trên cơ sở tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX.
Mặt khác, là tổ chức kinh tế tự quản của các thành viên, nên họ tự chủ trong
mọi hoạt động của mình; quyền và nghĩa vụ của các thành viên đều bình đẳng mà
không bị chi phối bởi vốn góp nhƣ các loại hình doanh nghiệp khác; kết hợp sức
mạnh của từng thành viên và sức mạnh của tập thể để có thể đƣa ra những quyết
định sang suốt trong hoạt động quản lý cũng nhƣ trong hoạt động kinh doanh nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.
4

Thu Hƣờng (2012), “Dự thảo Luật HTX (sửa đổi): Còn nhiều tranh cãi ngay từ định nghĩa”, Thời báo kinh

doanh, truy cập ngày 18/3/2014 tại địa chỉ: />

11

Việc xác định HTX là một tổ chức kinh tế là để tạo điều kiện cho HTX bình
đẳng trƣớc pháp luật với các loại hình doanh nghiệp khác và đảm bảo quyền lợi
chính đáng của các thành viên HTX.
Về mặt xã hội, HTX mang tính xã hội thể hiện tính nhân văn.
HTX là tổ chức vì mục tiêu đầu tiên là đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng

chung của các xã viên về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng thêm lợi ích cho họ
trong đó có cả lợi ích về xã hội. Khi tham gia HTX, các thành viên họ không thể tự
mình làm hoặc làm không có hiệu quả, nhờ tham gia vào HTX mà họ khắc phục
đƣợc những hạn chế, nhƣợc điểm của mình và tạo ra đƣợc những lợi ích nhằm phục
vụ cho chính bản thân họ một cách tốt nhất. HTX tạo điều kiện cho những ngƣời lao
động, những ngƣời sản xuất nhỏ liên kết lại với nhau tạo ra sức mạnh tập thể đủ sức
cạnh tranh trên thị trƣờng với các chủ thể kinh doanh khác, tạo khả năng và đà phát
triển cho loại hình sản xuất nhỏ, góp phần đƣa “hợp tác” trở thành giá trị văn hóa
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, và đồng thời nhờ đó mà rút ngắn sự phân biệt
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, phân biệt văn hóa- xã hội giữa đô thị và
miền quê, từ đó cải thiện củng cố an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tạo ra
sự gắn kết về tình cảm cũng nhƣ về mặt vật chất giữa các thành viên.
Khoản 7 Điều 7 Luật HTX 2012 khẳng định “Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác

xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên, hợp tác xã thành viên và
hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã trên quy mô địa
phương, vùng, quốc gia và quốc tế”
Bên cạnh đó, trong hoạt động của mình, HTX còn quan tâm giáo dục, đào tạo
bồi dƣỡng, tuyên truyền, phổ biến cho các thành viên của mình về tính chất cao đẹp
và những lợi ích mà bản thân HTX mang lại, nhất là tinh thần hợp tác và dân chủ
(khoản 6 Điều 7 Luật HTX 2012).
Về mặt pháp luật, HTX là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Bởi lẽ:


12

Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 3 Luật HTX 2012 cũng khẳng định “Hợp tác xã

là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân”.
Thứ hai, qua các qui định trong Luật HTX 2012 thấy rằng HTX đáp ứng đầy

đủ bốn điều kiện để đƣợc công nhận là một pháp nhân theo quy định tại Điều 84
BLDS 2005: HTX là một tổ chức kinh tế đƣợc thành lập theo thủ tục pháp lý nhất
định, có đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ theo qui định; có thẩm quyền nhân danh mình để tham gia các quan hệ
pháp luật; có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính.
1.1.1.3. Phân biệt hợp tác xã và doanh nghiệp
* Xét về lập pháp
Việc tồn tại một cách riêng biệt hai hệ thống pháp luật về DN và HTX (Luật
công ty 1990, Luật Doanh nghiệp tƣ nhân 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật
Doanh nghiệp 2005 với Luật HTX 1996, Luật HTX 2003 và Luật HTX 2012) là
một căn cứ về lập pháp cho thấy không thể coi HTX là một loại hình DN theo đúng
nghĩa của nó. Nếu nhƣ HTX là DN thì không cần phải xây dựng Luật HTX.
Sự phân biệt còn thể hiện ở chỗ, trong các luật có liên quan đều tách riêng
khái niệm DN và HTX. VD: Khi quy định đối tƣợng áp dụng của Luật Phá sản
2004, Điều 2 của Luật này đã xác định: đối tƣợng bị phá sản bên cạnh các loại hình
DN còn có chủ thể khác là HTX. Bộ luật Dân sự 2005 cũng có quy định các tổ chức
kinh tế có tƣ cách pháp nhân là HTX và các DN. Nhƣ vậy, các văn bản luật đã tách
biệt giữa DN và HTX không đánh đồng hai chủ thể với nhau.
* Xét về các đặc điểm của doanh nghiệp và hợp tác xã
Không thể coi HTX là một loại hình doanh nghiệp vì các đặc điểm sau đây:
Một là, về lý do ra đời: Nếu nhƣ DN ra đời là vì thị trƣờng, phục vụ nhu cầu
đại chúng, tức là vì nhu cầu của đông đảo ngƣời tiêu dùng trong xã hội thì lý do
HTX đƣợc hình thành trƣớc tiên là vì nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chung của một


13

nhóm ngƣời nhất định – những ngƣời đã thành lập ra HTX.
Hai là, về mục đích hoạt động: nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa HTX
và DN ở đây chính là về mục đích hoạt động; một bên vì lợi nhuận, tìm kiếm giá trị

thặng dƣ còn một bên lại hoạt động là để trợ giúp, phục vụ cho các xã viên vì thế
không thể và không nên đồng nhất HTX và DN. Khoản 1, khoản 2 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2013) đã khẳng định, mục đích của
hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức doanh nghiệp là cung cấp sản phẩm,
dịch vụ cho thị trƣờng đại chúng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp; mục
tiêu của các thành viên góp vốn vào DN là để đƣợc chia lợi nhuận tối đa theo tỷ lệ
vốn góp của mình.
Trong khi đó, HTX chú trọng đến con ngƣời chứ không phải là yếu tố vốn
nhƣ trong công ty, không thuần túy là thu lợi trên lãi vốn góp nhƣ DN. Hoạt động
của HTX có thể đem lại lợi nhuận nhƣng đó chỉ là phƣơng tiện để HTX có thể thực
hiện đƣợc mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho thành viên. Bên cạnh đó, HTX còn có mục
tiêu cao cả khác mà DN không có đƣợc, đó là sự tƣơng trợ, hỗ trỡ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các thành viên, quan tâm đến cộng đồng.
Ba là, về tƣ cách pháp lý của thành viên: thành viên thành lập DN chỉ có một
tƣ cách duy nhất là đồng sở hữu doanh nghiệp. Với HTX, các thành viên luôn có hai
tƣ cách: vừa là đồng sở hữu (ngƣời quản lý HTX), lại vừa là khách hàng sử dụng
sản phầm, dịch vụ của HTX hoặc là ngƣời lao động.
Bốn là, quan hệ kinh tế: nếu nhƣ các thành viên HTX vừa phải cam kết góp
vốn vừa phải cam kết sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc là ngƣời lao động
trong HTX thì thành viên DN, ngoài việc góp vốn, không có ràng buộc khác về kinh
tế với DN.
Điều này thể hiện rằng, HTX có sự khác biệt DN ở chỗ: HTX luôn có khách
hàng, trƣớc khi thành lập đã có khách hàng có nhu cầu sử dụng sản phẩm (các thành


14

viên HTX), trong khi đó DN phải tìm khách hàng trên thị trƣờng.
Năm là, về cơ chế quản lý: Nếu nhƣ nguyên tắc đối vốn là nguyên tắc hoạt
động chủ yếu của DN, thì nguyên tắc đối nhân lại là nguyên tắc hoạt động cơ bản

của HTX. Nếu nhƣ trong DN, quyền lực đƣợc phân bổ cho các thành viên theo tỷ lệ
vốn góp (ai góp nhiều vốn thì ngƣời đó có nhiều quyền lực và ngƣợc lại); thì trong
HTX nguyên tắc biểu quyết công bằng, “một ngƣời- một phiếu” là nguyên tắc đặc
thù chỉ có trong tổ chức và hoạt động HTX mới có, tất cả các thành viên đều có
quyền ngang nhau mà không phụ thuộc vào số lƣợng vốn mà họ đã góp vào HTX là
nhiều hay ít. Tóm lại, nguyên tắc bình đẳng trong quản lý luôn là đặc điểm nổi trội,
làm cho HTX khác biệt với DN.
Sáu là, về nguyên tắc phân phối: Nếu nhƣ trong DN, lợi nhuận thu đƣợc
đƣợc phân chia cho các thành viên chủ yếu theo tỷ lệ vốn góp thì trong HTX lại áp
dụng nguyên tắc phân chia thu nhập chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm và dịch
vụ của HTX. Có nghĩa là, trong HTX, thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch
vụ do HTX cung ứng, thì thành viên đó đƣợc hƣởng nhiều hơn từ thu nhập do hợp
tác xã mang lại. Nhƣ vậy, việc phân chia thu nhập theo vốn góp trong HTX, nếu có
thì cũng chỉ là nguyên tắc có vị trí thứ yếu mà thôi.
Ngoài ra, tài sản không chia là một đặc trƣng chỉ có ở HTX, là cơ sở là nền
tảng gắn kết thành viên với nhau và với HTX, tạo điều kiện cho HTX phát triển bền
vững với mục đích phục vụ cộng đồng thành viên trong hiện tại và tƣơng lai mà DN
không thể có đƣợc. Tài sản này thuộc quyền sở hữu của cộng đồng thành viên,
không đƣợc chia còn trong DN thì không tồn tại loại tài sản này.
 Theo kinh nghiệm quốc tế phổ biến (5)

(5)

“Kinh nghiệm pháp luật các nƣớc về hợp tác xã”, truy cập này 27/3/2014 tại địa chỉ:

/>

15

Điều 3 của Luật HTX Indonexia “HTX là tổ chức kinh tế của nhân dân

mang đặc tính xã hội, có thành viên là các cá nhân hoặc các tập thể hợp pháp tự
nguyện xây dựng lên một thực thể kinh tế, với nghĩa đồng lòng phấn đấu trên cơ sở
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau”
Điều 3 Bộ Luật HTX Philippin “HTX là một tổ chức được đăng ký chính
thức của một nhóm người có quan hệ lợi ích chung, tham gia tự nguyện để cùng
nhau đạt được mục đích kinh tế và xã hội hợp pháp, có đóng góp tương đương nhau
về vốn, chấp nhận chia sẻ công bằng những thiệt thòi cung như lợi ích của việc kinh
doanh, phù hợp với nguyên tắc HTX đã được chấp nhận phổ biến”.
Luật HTX Thái Lan định nghĩa “HTX là một nhóm người thành lập nhằm
thực hiện những hoạt động giúp đỡ lẫn nhau và được đăng ký theo luật này”.
Các nƣớc Thụy Điển, Canada, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Bangladesh…
đều quan niệm HTX là một tổ chức kinh tế gồm những ngƣời có nhu cầu về kinh tế
và xã hội đƣợc thành lập ra nhằm mục đích hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình, từ đó giúp thành viên cải thiện hoạt động kinh tế, thu nhập, nâng
cao mức sống của mình, họ vừa là chủ sở hữu, vừa là ngƣời sử dụng sản phẩm dịch
vụ của HTX.
Nhƣ vậy, nhìn chung hầu hết Luật HTX của các nƣớc trên thế giới đều khẳng
định HTX là một một mô hình kinh tế dành cho những ngƣời yếu thế, là tổ chức
liên kết giữa các thành viên và tạo thành sức mạnh tập thể để có thể chịu đƣợc sức
ép của thị trƣờng, phát triển. Và điều đó thể hiện rằng HTX khác với DN bởi việc
sử dụng lợi ích, dịch vụ của HTX là mang đến lợi ích cho chính xã viên, còn DN là
cung cấp dịch vụ cho xã hội.
Những phân tích trên cho thấy HTX có bản chất riêng và có các đặc trƣng
riêng mà không một DN nào có. Do vậy, chúng ta có thể khẳng định chắc chắn
rằng: HTX không phải là DN.


16

1.1.2. Vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường

Hiện nay kinh tế hợp tác không phải là khu vực chính để tạo ra nhiều lợi
nhuận và tăng trƣởng kinh tế, nhƣng là khu vực có vai trò, vị trí quan trọng trong
việc giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho đông đảo ngƣời lao động, tạo sự ổn
định về chính trị - xã hội góp phần thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Mô hình tổ chức và quản lý hoạt động của HTX đã đem lại hiệu quả thiết thực hơn
cho thành viên nhất là những ngƣời lao động yếu thế nhƣ thiếu vốn, thiếu kinh
nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh…. Lợi ích mà HTX mang lại không
chỉ có mặt kinh tế mà còn có mặt chính trị, xã hội. Nhƣ vậy đã khẳng định vai trò
ngày càng tăng lên của HTX trong phát triển kinh tế- xã hội đất nƣớc.
 Đối với nền kinh tế
Thành viên HTX đóng vai trò kép vừa là chủ sở hữu vừa là ngƣời sử dụng
dịch vụ đã tạo ra hai kênh tăng trƣởng, một mặt góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của các thành viên trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của riêng mình, nhờ đó nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động kinh
tế của mỗi thành viên; mặt khác, từ hoạt động của mình, HTX tạo ra sự tăng trƣởng
cho riêng mình.
Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ công bố, với tƣ cách là một tổ chức
kinh tế, trong những năm gần đây, với khoảng 19.000 HTX (bao gồm cả hơn 4000
HTX không hoạt động) thì đóng góp GDP của kinh tế HTX đạt khoảng 5,2% đến
5,45% .(6)
Không chỉ tham gia trực tiếp vào GDP mà HTX còn tham gia gián tiếp vào
sự nghiệp phát triển kinh tế. Các HTX hoạt động tại địa phƣơng, bám sát địa bàn,
tham gia vào các chƣơng trình phát triển kinh tế ở địa phƣơng, hỗ trợ đắc lực nhất

6

Ban công tác đại biểu, Trung tâm bồi dƣỡng đại biểu dân cử (2012, tr.34).


17


cho các DN vừa và nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào
tăng trƣởng kinh tế.
 Đối với nền chính trị
HTX về bản chất là một tổ chức kinh tế chứ không phải là một tổ chức chính
trị nhƣng nó lại có ý nghĩa chính trị nhất định bởi lẽ tổ chức HTX có vai trò hết sức
to lớn đã góp phần làm lan tỏa tinh thần “dân chủ” trong xã hội. Góp phần nâng cao
vị thế xã hội của ngƣời lao động trong các HTX với tƣ cách không chỉ là ngƣời lao
động làm thuê, mà còn là ngƣời làm chủ cơ sở, từ đó góp phần làm hài hòa hơn mối
quan hệ giữa giới chủ và ngƣời lao động, giữa tƣ bản và lao động. Do đó, trong
HTX yếu tố mang tính chất bóc lột rất ít hoặc không có, góp phần làm dịu bớt đi
mâu thuẫn cơ bản của xã hội giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng, giữa giới chủ
và ngƣời lao động làm thuê, giữa cá thể và cộng đồng, đồng thời làm dịu bớt đi sự
cạnh tranh thị trƣờng khắc nghiệt không cần thiết giữa chính các thành viên HTX
với nhau, nhất là đối với ngƣời sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân, giúp giữ vững
chính trị, ổn định xã hội.
 Đối với xã hội - văn hóa
Với tính chất là tổ chức kinh tế - xã hội, HTX đã tham gia tích cực vào việc
giải quyết các vấn đề xã hội, nhƣ: góp phần giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo, ổn
định đời sống, giảm cách biệt xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất cũng nhƣ
tinh thần cho những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.
HTX còn góp phần phát huy, lan tỏa các giá trị tốt đẹp ra toàn xã hội nhƣ: đề
cao sự trung thực, cởi mở, nâng cao trách nhiệm xã hội của từng thành viên HTX
cũng nhƣ của cộng đồng, chăm lo cả cộng đồng, hƣớng con ngƣời đến những giá trị
cao đẹp nhƣ sự đoàn kết, tƣơng thân tƣơng ái, dân chủ,.... Đây chính là những giá trị
văn hóa mà HTX đem lại, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng văn minh. Với vai trò mang đầy tính nhân văn này cho thấy sự khác


18


biệt rõ rệt giữa HTX với các tổ chức kinh tế khác.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển hợp tác xã ở Việt Nam
Ở Việt Nam, kinh tế hợp tác đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm và phát
triển rất sớm. HTX Thủy tinh Dân chủ là HTX đầu tiên ở nƣớc ta đƣợc thành lập
vào ngày 8/3/1948 trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và từ đó bắt
đầu phát triển khi đất nƣớc giành đƣợc độc lập vào năm 1954. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào mỗi giai đoạn phát triển phong trào kinh tế HTX đƣợc hình thành và phát triển
có khác nhau.
1.1.3.1. Giai đoạn từ 1954 đến trước khi có Luật hợp tác xã 1996
- Đặc điểm chung
+ Thấy rõ đƣợc hai xu hƣớng: sự giảm sút nhanh đi đến kết thúc sớm của mô
hình tổ đổi công và các hình thức hợp tác tự phát của dân; các HTX đƣợc thành lập
theo quyết định hành chính phát triển nhanh chóng.
+ Giai đoạn này chƣa có Luật HTX, vì vậy tổ chức và quản lý HTX còn
mang nặng tính áp đặt cao chịu sự điều hành của Nhà nƣớc theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp. Do đó, HTX tuy phát triển về mặt số lƣợng và quy mô,
nhƣng không phản ánh đƣợc bản chất của HTX, lúc này HTX vừa là tổ chức kinh tế
vừa là tổ chức xã hội.
+ Từ sau năm 1990, phong trào HTX bắt đầu thoái trào trong bối cảnh nhà
nƣớc chuyển đổi từ nền kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa. Vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình đƣợc khẳng định,
kinh tế tƣ nhân đƣợc khuyến khích phát triển và doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc đổi
mới.
- Pháp luật và chính sách phát triển kinh tế hợp tác xã
+ Nghị quyết của Quốc hội ngày 27/5/1959 về vấn đề HTX hóa nông nghiệp
là văn bản pháp lý cao nhất đối với khu vực HTX nông nghiệp ở miền Bắc và đối


19


với cả nƣớc từ năm 1975. Các HTX hoạt động theo điều lệ mẫu thống nhất do
Chính phủ qui định.
+ Ngày 13/1/1981, Ban bí thƣ TW đã ban hành chỉ thị 100 CT/TW về mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệpvới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập cho xã viên. Tuy
nhiên sau một thời gian thực hiện bộc lộ những yếu kém: thu nhập của hộ nông dân
từ kinh tế tập thể vẫn thấp, lợi ích của ngƣời lao động bị vi phạm.
+ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã khẳng định sự tồn tại lâu dài của nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hƣớng xã hội chủ nghĩa, lúc này HTX kiểu
cũ không còn phù hợp, đi đến tan rã hoặc phải chuyển đổi.
+ Năm 1988, Bộ chính trị (khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 10 về đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp và Nghị quyết 16/NQ-TW về phát triển kinh tế
khu vực ngoài quốc doanh làm cho HTX thủ công nghiệp chƣa kịp thích nghi với
thị trƣờng đã thực sự gặp khó khăn. Đến năm 1991, Luật Công ty và Luật doanh
nghiệp đƣợc ban hành và đƣợc sửa đổi, bổ sung vào năm 1994 tạo môi trƣờng pháp
luật cho khu vực kinh tế dân doanh phát triển, đồng thời làm rõ hơn nhu cầu phải có
môi trƣờng pháp lý phù hợp cho khu vực kinh tế HTX. Đây là thời kỳ khó khăn
nhất trong quá trình phát triển HTX ở nƣớc ta, HTX không còn đƣợc coi là một
trong hai thành phần kinh tế độc tôn nhƣ trƣớc.
1.1.3.2. Giai đoạn sau khi có Luật hợp tác xã 1996, 2003, 2012
- Đặc điểm chung
+ Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh về HTX gồm có Luật HTX 1996,
Luật HTX 2003, Luật HTX 2012; tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động
của HTX trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
+ Các HTX hoạt động theo đúng bản chất ngày càng tăng về số lƣợng: HTX
mới đƣợc thành lập, HTX cũ đƣợc chuyển đổi theo Luật HTX trên cơ sở tự nguyện,


20


tự chủ của xã viên, vì lợi ích chung của các thành viên.
- Pháp luật và chính sách phát triển kinh tế hợp tác xã
+ Ngày 20/3/1996, Luật HTX lần đầu tiên đƣợc thông qua. Ngày 21/2/1997
Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/CP về chính sách khuyến khích phát triển
HTX giúp các HTX cũ chuyển đổi hoặc giải thể, tạo điều kiện cho nhiều HTX mới
ra đời. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện xuất hiện những khiếm khuyết cơ bản
nhƣ thủ tục đăng ký kinh doanh còn khó khăn, đối tƣợng bị hạn chế…
+ Ngày 18/3/2003, Ban chấp hành TW Đảng lần 5 khóa IX ra Nghị quyết số
13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Sau
hơn một năm triển khai đã có hơn 100.000 tổ hợp tác và hơn 1.000 HTX mới ra đời.
Bắt đầu chuyển đổi HTX kiểu cũ (mang nặng tính hành chính bao cấp) sang mô
hình HTX kiểu mới (mang nặng tính tự chủ, thị trƣờng). (7)
+ Trên cơ sở NQ số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành TW Đảng, Luật HTX
2003 đƣợc thông qua khắc phục những hạn chế của Luật HTX 1996, tạo môi trƣờng
pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của HTX.
Cùng với sự ra đời Luật HTX 2003, một số Nghị đinh của Chính Phủ về
HTX cũng đƣợc ban hành nhƣ Nghị định của Chính phủ số 177/2004/NQ-CP ngày
12/10/2004 quyết định chi tiết thi hành một số điều của Luật HTX 2003 và Nghị
định số 87/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/2005 về đăng ký kinh doanh
HTX.
+ Sau hơn 10 năm thi hành Luật HTX 2003 đã nổi cộm lên những bất cập
cần phải sửa đổi; do đó, Luật HTX 2012 ra đời thay thế cho Luật HTX 2003, đã tạo
lên một hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho sự phát triển của HTX. Đến ngày
21/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 193/2013/NĐ- CP hƣớng dẫn chi tiết

7

Dự án AID – Coop ( 2009, tr.10)



21

thi hành một số điều của Luật hợp tác xã
1.2. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật hợp tác xã 2003
1.2.1. Những hạn chế chủ yếu của Luật hợp tác xã 2003:
Sau 10 năm thực hiện, nhìn chung Luật HTX năm 2003 đã tạo thuận lợi hơn
cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển so với khung pháp luật thời kỳ trƣớc đây,
có đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế tập thể, góp phần vào việc hoàn
thiện quan hệ sản xuất, vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc nhƣ:
- Thúc đẩy việc tổ chức lại và khuyến khích thành lập mới HTX, LH HTX.
Theo báo cáo của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, tính đến hết năm 2011, cả nƣớc
có khoảng 19.500 HTX (bao gồm cả HTX không hoạt động), tăng 610 HTX so với
năm 2010. Tổ hợp tác phát triển rất nhanh và đa dạng. Năm 2010 có 155.817 tổ hợp
tác, tăng trung bình khoảng 3,3%/năm giai đoạn 2006-2010 (8).
- Tạo điều kiện cho HTX, LH HTX đƣợc hình thành dựa trên sở hữu của xã
viên và sở hữu tập thể, thúc đẩy xã viên HTX, LH HTX cùng góp vốn, góp sức; khẳng
định nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách; khẳng định sự bình đẳng của HTX, LH HTX với
các DN thuộc thành phần kinh tế khác.
- Quy định cụ thể hơn tăng cƣờng chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với HTX,
LH HTX nhƣ: hỗ trợ sáng lập viên chuẩn bị thành lập HTX, LH HTX, hỗ trợ ứng dụng
đổi mới công nghệ, hỗ trợ đầu tƣ cơ sở hạ tầng và ƣu đãi đầu tƣ.
Tuy nhiên, trong thực tiễn phát triển HTX vẫn còn nổi bật lên những tồn
tại, cụ thể:
Về nội lực của các HTX: sức cạnh tranh yếu, còn tồn tại một lƣợng khá lớn
8

Báo cáo tổng kết thi hành Luật HTX 2003, kèm theo Tờ trình số 99/TTr-CP ngày 3 tháng 5 năm 2012 của

Chính phủ (2012, tr.3).



×