Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Các điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của nền ngoại giao việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.13 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
-----------------

BÀI TẬP CHƯƠNG 1
MÔN: Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam

Phân tích các điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của nền ngoại giao
Việt Nam. Tóm tắt những sự kiện tiêu biểu trong thời kì các triều đại Việt
Nam và đặc điểm của nền ngoại giao truyền thống Việt Nam.

Lớp: Quốc tế học 3A
Nhóm 2
1. La Nguyễn Mỹ Duyên - K40.608.015
2. Nguyễn Kim Hoàn
- K40.608.025
3. Lưu Mỹ Linh
- K40.608.038
4. Trần Ngọc Thoa
- K40.608.093


PHẦN 1: PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI CỦA NGOẠI
GIAO VIỆT NAM
Mỗi quốc gia có truyền thống dựng nước và giữ nước riêng. Với một vị trí địa lý tự
nhiên nhiều thuận lợi, lại phong phú tài nguyên khoáng sản nên việc dựng nước của Việt
Nam đã khó, việc giữ nước lại càng khó hơn bội phần. Hoạt động ngoại giao vốn là nhân tố
sống còn của một quốc gia, không một quốc gia nào có thể tồn tại nếu không giao lưu với
bên ngoài. Ngoài ra, hoạt động ngoại giao chính là một bộ phận quan trọng của đấu tranh
dựng nước, giữ nước lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Đối với Việt Nam, đặc
điểm về tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến đường lối và chính sách ngoại giao.


Việt Nam đã tận dụng tốt những điều kiện thuận lợi của tự nhiên và xã hội, góp phần đẩy
mạnh các hoạt động ngoại giao. Việt Nam đã có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại
giao tinh tế và hiển hách.
Về đặc điểm tự nhiên, có thế nói hiếm có quốc gia nào được thiên nhiên ưu đãi như
Việt Nam. Việt Nam nằm ở rìa phía Đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực
Đông Nam Á – đây là một thuận lợi to lớn giúp nước ta có thể thúc đẩy quan hệ với nhiều
quốc gia trong khu vực. Việt Nam là cầu nối khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á, cũng
như liên kết các quốc gia trong vùng Đông Nam Á lại với nhau. Nhà nước Văn Lang trước
kia, nhà nước Việt Nam ngày nay có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và
biển Đông, có hệ thống giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường không, bảo
đảm giao lưu trong khu vực Châu Á và thế giới thuận lợi. Đã từ lâu, nhiều kẻ thù luôn nhòm
ngó, đe doạ và tiến công xâm lược. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nước ta đã vô số lần
trải qua các cuộc chiến chống lại các thế lực đô hộ, xâm chiếm. Để bảo vệ đất nước, bảo vệ
sự trường tồn của dân tộc, cha ông ta đã đoàn kết và phát huy tối đa ưu thế của địa hình để
lập thế trận đánh giặc.
Về vị trí địa lý, Biển Đông bao quanh nước ta ở phía Đông và phía Nam. Biển Đông
là vùng biển tương đối kín, có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú. Biển Đông có vị trí
địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, giao thông nên là tuyến giao thông hàng hải quan
trọng. Đây là Việt Nam giáp Biển Đông theo một đường trải dài, do đó có nhiều điều kiện
cực kỳ thuận lợi cho việc khai thác Biển Đông về giao thông, tài nguyên biển, khai thác vị
trí chiến lược của Biển Đông để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cũng chính vì những thuận
lợi như thế mà ngay từ khi rất sớm, Việt Nam đã trở thành miếng mồi ngon của nhiều
cường quốc. Thế nhưng dân tộc ta đã đánh bại được mọi mưu đồ xâm lược của các nước
lớn, giữ vững được nền độc lập, tự do cho dân tộc. Hiện nay sự nổi lên của Tr
Việt Nam giáp với Lào và Campuchia ở phía Tây, đây là hai quốc gia anh em của
Việt Nam. Ba quốc gia láng giềng đã liên kết lại với nhau thành một “liên bang Đông
Dương” vững chắc, hợp thành một sức mạnh chung để đánh tan kẻ thù xâm lược như trong
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vị trí liền kề, Việt Nam thuận lợi trong
quan hệ giao thương với hai nước, đẩy mạnh các hoạt dộng xuất nhập khẩu hàng hóa qua
biên giới, các hoạt động giao lưu văn hóa, hợp tác cùng phát triển.



Phía Bắc nước ta giáp với Trung Quốc là một nước có thế mạnh về kinh tế, cũng như
có tầm ảnh hưởng khu vực từ xưa đến nay, được phân định bởi một đường biên giới khá
dài. Nhờ có vị trí cận kề mà chúng ta có nhiều điều kiện tiếp thu có chọn lọc văn hoá Trung
Quốc – một nền văn hóa lớn và lâu đời. Tuy nhiên, Việt Nam luôn bị đe dọa bởi nguy cơ
xâm lược từ phía Trung Quốc bởi Trung Quốc luôn muốn bành trướng lãnh thổ. Do đó, Việt
Nam luôn phải đề cao cảnh giác cao độ với mọi hành động của nước bạn, đồng thời bảo vệ
vững chắc non sông bờ cõi. Hiện nay cùng với sự nổi lên của Trung Quốc là mưu đồ độc
chiếm Biển Đông của họ nên Việt Nam cần phải bảo vệ chủ quyền Biển Đông bằng những
biện pháp thích hợp, tích cực hợp tác với các quốc gia trong khu vực bảo vệ, khai thác hợp
lý tài nguyên của Biển Đông, tiến tới xây dựng một khu vực Biển Đông hòa bình, hợp tác
và phát triển.
Rừng là tài nguyên vô giá đối với con người Việt Nam. Nhờ có rừng, khí hậu Việt
Nam ôn hòa, giữ được đất, chống được bão lụt. Không những thế những loài động vật, thực
vật quý hiếm trong rừng luôn là sự thu hút vô tận với bè bạn năm châu thế giới, đặc biệt là
những du khách thích khám phá thiên nhiên. Trong thời kỳ chiến tranh ngày xưa, nhờ
những cánh rừng bạt ngàn che chở cho nghĩa quân và quân đội nhân dân ta thì đến nay ta
khó giữ được nền độc lập tự do cho nước nhà. Chính vì vậy, muốn hòa nhập với thế giới,
chúng ta phải bảo vệ tài nguyên rừng và sử dụng một cách hợp lý.
Nước ta có mạng lưới sông ngòi dầy đặc cùng hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng
chịt với mật độ lớn. Chính nhờ sự dầy đặc của sông ngòi và nguồn nước lớn từ các con
sông, nên nước ta thuận lợi trong việc phát triển ngành nông nghiệp, có đủ nguồn nước để
cung cấp cho đời sống sinh hoạt của người dân qua các thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, nguồn
thủy hải sản trên các dòng sông lớn như sông Cửu Long, sông Hồng rất phong phú và đa
dạng, có giá trị lớn, phục vụ cho khai thác, tiến tới xuất khẩu các mặt hàng thủy sản sang
nước ngoài. Nhờ hệ thống sông ngòi dầy đặc, chúng chảy qua các nước nên người dân
trong khu vực bên sông có thể dễ dàng giao lưu trao đổi văn hóa với người dân nước bạn
thông qua hệ thống giao thông đường thủy, từ đó đẩy mạnh phát triển ngành du lịch ven
sông. Thế nhưng, trong lịch sử, lợi dụng địa hình ven sông, ven biển mà nhiều kẻ thù đã

theo đường thủy để tiến vào xâm lược nước ta. Nhưng chúng không hiểu được đặc tính của
vùng nước xung quanh nước ta, chúng đơn thuần nghĩ cứ theo đường thủy là vào được nước
ta. Các anh hùng Việt Nam đã khéo kéo lợi dụng địa hình vùng nước để đánh giặc, như trận
Bạch Đằng lừng lẫy của Ngô Quyền vào năm 938.
Về đặc điểm xã hội, Việt Nam là một dải đất trải dài hình chữ S với 54 anh em dân
tộc sinh sống, mỗi dân tộc mang một nét đặc trưng riêng. Sự đa dạng về thành phần dân tộc
đã đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu bản sắc dân tộc cùng với nền văn hóa phong
phú trong mắt cộng đồng quốc tế. Nền văn hóa Việt Nam phong phú và đa dạng trên tất cả
các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp
từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững
trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ


và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn
học, nghệ thuật. Dân tộc ta đã khiến cho cả thế giới ngả mũ thán phục dù chịu sự đô hộ của
bọn giặc xâm lược mấy ngàn năm trời mà vẫn giữ vững được bản sắc văn hóa riêng. Việt
Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp với đặc trưng cơ bản là lối sống cộng đồng
và trọng tình, cho nên truyền thống ứng phó với môi trường xã hội thường hướng đến tinh
thần hòa hiếu, tránh đối đầu, tránh chiến tranh. Nếu không xuất phát từ những đặc trưng này
thì sẽ khó lý giải trọn vẹn được những ứng xử ngoại giao trên tinh thần hòa hiếu của các
vương triều phong kiến Việt Nam. Đối với Trung Quốc là một nước lớn, cùng với những
hoàn cảnh địa chính trị cụ thể, Việt Nam lại càng phát huy tinh thần hòa hiếu trong ứng xử
ngoại giao của mình. Qua đó ta thấy rằng, nếu nền văn hóa bị mất đi đồng nghĩa với mất
nước. Vì thế mỗi người dân đất Việt phải biết tự hào với văn hóa đất nước, góp phần xây
dựng và gìn giữ văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển.
Dân cư là nhân tố điển hình nhất trong đặc điểm xã hội Việt Nam, dù dân cư khá
đông đúc nhưng phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung nhiều ở một số vùng lớn như
thành thị nhưng lại thưa thớt ở vùng núi. Chính vì dân cư thưa thớt ở vùng núi, vì thế họ
không được tập trung nhiều để phát triển, vấn đề này trở thành điểm hạn chế lớn của nước
ta. Không những thiếu thốn về vật chất, trình độ dân trí cũng hết sức thấp, sự hiển biết về

đời sống của họ của bị hạn chế. Lợi dụng sự kém hiểu biết cũng như tâm lý dễ bị kích động
của người dân vùng núi, những bọn phản động thường xuyên xúi giục người dân làm những
hành động sai trái hòng phá hoại nước ta. Một nền ngoại giao vững mạnh là nhờ có sự đóng
góp của lực lượng dân trí có hiểu biết và nhận thức sâu sắc. Các triều đại hùng mạnh của
Việt Nam trước đây đã gây dựng được nền ngoại giao hùng mạnh một phần là nhờ có
những nhân tài có tư duy nhạy bén, thông minh.
Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với
hoạt động đối ngoại. Đồng bào cư trú suốt dọc tuyến biên giới phía Bắc, Tây và Tây Nam,
có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đây là địa bàn có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước và bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái. Trong tình hình hiện nay, miền núi là địa bàn tiềm năng, mang tính chiến lược, cơ
bản cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với tất cả những ưu thế, thuận lợi về điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện xã hội
vừa giúp cho Việt Nam có nhiều điều kiện phát triển, song đó lại là nguyên nhân khiến Việt
Nam luôn là miếng mồi ngon cho các đế quốc, thông qua việc chiếm hữu Việt Nam, chúng
sẽ biến Việt Nam thành bàn đạp để tiến đánh các nước khác. Thế nhưng, bằng những biện
pháp ngoại giao khéo léo, mềm dẻo của các triều đại Việt Nam xưa và của Đảng, Nhà nước
ta ngày nay; bằng lòng yêu nước, ý chí bất khuất mà bao đời nay, các dân tộc anh em Việt
Nam đều luôn giữ vững được bờ cõi của mình.


PHẦN 2: SỰ KIỆN NGOẠI GIAO TIÊU BIỂU TRONG THỜI KÌ CÁC TRIỀU ĐẠI
VIỆT NAM
1- THỜI NHÀ NGÔ
Vua Ngô Quyền (898-944) là người sáng lập ra nhà Ngô. Tháng 11-938, quân Hoằng
Tháo của phương Bắc bị Ngô Quyền đánh tan trong trận Bạch Đằng và Hoằng Tháo bị giết
chết. Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, cầm
quyền trị nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các vương quyền
phương Bắc. Ngô Quyền lập triều đình. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với

Nam Hán mà ông vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong "Ngũ đại
thập quốc" lúc ấy. Nhưng ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được sang sinh
cơ lập nghiệp ở lãnh thổ do mình cai quản. Ngô Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ
Trung Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta. Một số tướng sĩ Trung
Quốc được Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại các địa phương.Năm
954, Ngô Xương Văn sai sứ sang giao hảo với Nam Hán và xin tiếp viện. Vua Nam Hán
nhận giao hảo của Xương Văn. Sau đó âm mưu cho Lý Dư làm sứ cầm cờ "tinh" sang chiêu
dụ nhận Tĩnh Hải quân là phiên thần và phong chức Tiết độ sứ cho hắn để cai quản Đô hộ
cho Ngô Xương Văn. Được tin Lý Dư sắp vào, Ngô Xương Văn cho ngay người đi sang
biên giới ngăn lại. Hai bên gặp nhau ở Bạch châu. Sứ của Xương Văn nói với Lý Dư rằng:
“Giặc biển đương làm loạn, đường sá đi lại rất khó”. Lý Dư bèn quay về nước. Đó là lần
ngoại giao duy nhất giữa nhà Ngô và Nam Hán trong 21 năm tồn tại.
Nhà Ngô thi hành chính sách ngoại giao cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách
lược, tiến công ngoại giao, làm tan rã ý đồ xâm lược của nhà Hán. Đó là việc bỏ chức Tiết
độ sứ, lên ngôi vua, xây dựng nhà nước độc lập, lập triều đình, nghi lễ riêng, phẩm phục
riêng; Trong thì xưng đế, ngoài thì xưng vương; Lợi dụng sự rối ren của phương Bắc,
không cầu thân riêng rẽ, đứng độc lập tự chủ.
2- THỜI NHÀ ĐINH
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân nổi dậy từ thời nhà Ngô, thống nhất
quốc gia và lên ngôi hoàng đế. lần lượt chiếm các nước Nam Bình, Hậu Thục và tiến đánh
Nam Hán, cương thổ áp sát nước Đại Cồ Việt mới thành lập. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi
vua, quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng chưa đặt ra ngay, vì Trung Quốc chưa chấm
dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc".
Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua được 2 năm thì năm 970 ở Trung Quốc, Tống Thái Tổ
tiến quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt. Từ đấy biên giới
Tống sát với nước ta. Tống đặt quan hệ giao hảo với ta, chưa có ý đồ gì khác, vì Trung
Quốc chưa thống nhất. Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hòa bình hữu nghị. Có
điều đặc biệt trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hoàng là ông vẫn làm
vua, vẫn cầm quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông lại cho
con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà



Tống. Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống không bằng lòng, nhưng nhà
Tống chưa làm gì được.
Năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn đều bị cận thần sát hại, con nhỏ là Đinh
Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, vua Tống tính ngay chuyện xâm lược nước ta. Nhà Tống bắt
đầu họp quân, tuyển tướng, đem thư sang hăm dọa ta, coi như một tối hậu thư. Đe dọa ngoại
giao như thế này không phải là một việc làm ngẫu nhiên mà là quốc sách của kẻ bành
trướng, một bước mở đầu của chiến tranh xâm lược. Nhà Đinh thực hiện các hoạt động
ngoại giao tuy cởi mở nhưng vẫn rất thận trọng. Mặc dù giữa quan hệ hòa hiếu với lân
bang, chủ động giao hảo với nhà Tống khi nhà Tống đang mạnh nhưng vẫn đề phòng cẩn
trọng trước hành động đe dọa của nhà Tống.
3-

THỜI TIỀN LÊ

Mùa đông năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị sát hại. Con thứ
Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi, triều đình nhà Đinh suy yếu. Nhân cơ hội này, nhà Tống
ráo riết tập trung binh lực chuẩn bị xâm lược nước ta. Đứng trước vận mệnh nguy nan của
đất nước, triều đình đã suy tôn Lê Hoàn làm vua, lập nhà Tiền Lê năm 980. Ngay khi lên
ngôi, Lê Hoàn liền cử sứ đoàn sang Tống hoãn binh, đồng thời ráo riết bố phòng, lập đồn
lũy, tích trữ lương thảo, rèn vũ khí, tuyển thêm quân, quyết tâm kháng chiến giữ nước.
Nhà Tống lấy cớ Lê Hoàn tự xưng Đế, đổi niên hiệu để đem quân thôn tính nước ta.
Chúng sai sứ sang nước ta đưa ra hai yêu cầu: hoặc Đinh Toàn thống soái, Lê Hoàn làm
Phó, hoặc phải đưa hai mẹ con Dương Vân Nga - Đinh Toàn sang quy phục, nhà Tống sẽ
trao Tiết Việt cho Lê Hoàn. Lê Hoàn không chịu, vì thế, đầu năm 981, quân Tống đem 4
vạn quân sang xâm lược nước ta. Phân tích các tin tình báo đưa về, Lê Hoàn quyết đánh
địch trên cả hai tuyến thủy, bộ, phá tan âm mưu phối hợp hai đoàn quân thủy, bộ của chúng.
Quân ta đã đánh tan ba đạo quân Tống: đạo quân đường bộ bị tiêu diệt ở Chi Lăng; một đạo
quân đường thủy bị tiêu diệt ở Bạch Đằng; còn đạo quân thủy bị tiêu diệt ở Tây Kết. Sau

khi đánh ta quân xâm lược nhà Tống, vua đã cho sứ giả sang khôi phục lại quan hệ ngoại
giao hòa hiếu giữa hai nước. Trong khi đón tiếp các sứ giả nhà Tống, vua giữ thái độ kiên
quyết và mềm dẻo như cho những người tải giỏi vào vai người phục vụ, phu chèo thuyền;
dùng quân sự để uy hiếp sứ giả... Vì thế mà vua Lê Đại Hành giữ yên được bờ cõi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống đã làm nức lòng
nhân dân cả nước, củng cố vững chắc lòng tin vào khả năng bảo vệ độc lập của dân tộc Việt
Nam. Về đối ngoại, nhà Tiền Lê đã thi hành một chính sách tích cực, bình đẳng, kiên quyết
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kể cả vùng biên cương. Tên tuổi Lê Hoàn và tướng
quân nhà Tiền Lê mãi khắc sâu vào lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta.
4-

THỜI NHÀ LÝ

Quan hệ với nhà Tống ngày càng căng thẳng. Cuối năm 1073, quan lại nhà Tống lại
dụ dỗ Nông Thiện Mỹ, một thủ lĩnh vùng gần Thất Khê (Cao Bằng ngày nay) đem 700 dân
chạy sang theo Tống. Đầu năm 1075, triều đình nhà Lý viết thư sang triều đình Tống đòi


Tống trả lại ta Nông Thiện Mỹ và 700 dân, Tống không nghe và không trả lời. Bởi lẽ nhà
Tống chuẩn bị xâm lược nước ta và Quảng Tây là trung tâm chuẩn bị chiến tranh. Triều
đình Tống dồn nhiều tiền của, công sức, binh lính, quân trang, quân dụng cho Quảng Tây.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông, nước ta đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà
Tống. Triều đình nhà Lý và Thái úy Lý Thường Kiệt quyết đánh trước, Lý Thường Kiệt ra
kế sách“ngồi im đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc” để phá
tan những căn cứ chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống ở Quảng Tây và Quảng Đông. Chỉ có
thế mới xóa bỏ được ý đồ xâm lược của Tống.
Trước khi tiến quân vào đất Tống, Lý Thường Kiệt cho truyền “Lệ bố" đi khắp miền
Quảng Đông, Quảng Tây. "Lệ" là để ngỏ, “bố” là bố cáo. Lệ bố là những tờ hịch nói công
khai cho dân chúng biết. Có lệ bố viết cụ thể: "… Nay bản chức vâng lệnh Quốc vương, chỉ
đường Bắc tiến, muốn dẹp tan làn sóng yêu nghiệt, làm phân rõ đất đai nhưng không phân

biệt dân chúng… Ta nay ra binh cứu dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền đi để mọi
người biết. . . "
Có lệ bố nêu lý do cuộc hành quân của ta: "Có những dân làm phản trốn sang Tống.
Các quan Tống dung nạp và giấu đi. Ta đã cho sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế
Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt biển sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi
Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì thế, quân ta tới đuổi bắt nhưng dân trốn ấy...”.
Lệ bố của Lý Thường Kiệt truyền đi, được nhân dân Tống hoan nghênh. Cho nên khi
quân Lý Thường Kiệt tiến vào nội địa Tống, người dân Tống không hoang mang, không sợ
chạy, không chống đối cuộc hành quân của ta. Sau khi đã truyền lệ bố đi các nơi và biết
chắc dân Tống không phản đối cuộc hành quân của ta, quân ta từ nhiều ngả tiến vào đất
Tống. Quân ta chiến thắng liên tiếp, lần lượt tiêu diệt hơn 10 căn cứ quân sự của Tống ở
Quảng Tây. Cuộc hành quân của ta trên đất Tống làm cho triều đình nhà Tống hoang mang
lúng túng và quân tướng Tống ở miền nam nước Tống thua thiệt nghiêm trọng.
Sau khi hạ thành Ung Châu và giành nhiều thắng lợi lớn trên đất Tống, Lý Thường
Kiệt rút quân về nước. Mùa thu năm 1076, sau khi đem quân từ Quảng Tây về, Lý Thường
Kiệt cho đắp ở bờ sông Cầu một khúc đê cao như bức thành đất, dài gần 7 vạn bước
(khoảng 30 km), chạy dài từ bến đò sông Như Nguyệt tới chân núi Nham Biền. Bên ngoài
đê, đóng cọc tre mấy lớp để làm giậu, giữ lấy chân đê. Toàn bộ khúc đê cao này là một
chiến lũy kiên cố để chặn đánh địch, không cho chúng qua sông Cầu tiến vào Thăng Long.
Những ngày đầu năm 1077, tướng Tống là Quách Quỳ đem đại quân vượt biên giới tiến
sang ta. Sau 10 ngày hành quân rất chật vật, quân Tống mới tới bờ bắc sông Cầu, nhưng
không sang được vì không có thuyền. Đối diện với quân Tống bên bờ bắc là phòng tuyến
kiên cố của ta ở bên bờ nam và có đại quân ta đóng ngay tại phòng tuyến. Quân Tống nửa
đêm bắc cầu phao qua sông, liều chết đánh sang bờ nam. Quân ta kiên quyết chống lại. Giữa
lúc chiến sự diễn ra quyết liệt, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ khích lệ tướng sĩ:
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành kham thủ bại hư.



Được động viên, quân ta đánh càng mạnh. Quân giặc thiệt hại rất nặng. Sau trận đánh
này, quân Tống bị quân ta vây chặt ở bờ bắc sông Cầu trong 40 ngày liền. Quân Tống ở thế
không thể tiếp tục chiến tranh được nữa. Lý Thường Kiệt mở đường cho giặc: "Dùng biện sĩ
để bàn hòa, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã
tắc” khi biết chúng cùng đường. Ông đưa tin cho địch: "Rút quân về thì giao hảo". Tướng
Tống là Quách Quỳ buộc phải nhận lời Lý Thường Kiệt, xin rút quân về nước. Tuy đình
chiến, nhưng quân Tống vẫn sợ; mấy vạn người nửa đêm ù té chạy khỏi chiến trường,
không dám để quân ta biết. Thấy thế, quân ta không truy kích, để cho chúng rút chạy an
toàn. Nhưng giặc sợ mà vẫn chưa hết tham. Dọc đường chạy về nước, bọn chỉ huy quân
Tống để một số tướng sĩ ở lại chiếm giữ mấy châu vùng biên giới của ta. Biết vậy, nhưng ta
không cho quân đuổi theo đánh chiếm lại ngay. Ta chủ trương cho quân Tống rút về nước,
chấm dứt chiến tranh, sau sẽ thu hồi những vùng đất giặc còn giữ bằng đàm phán ngoại giao
kết hợp với uy hiếp quân sự.
Thái độ ấy, một lần nữa được nhắc lại trong Sông núi nước Nam. Khẳng định nước
Nam (Nam quốc) là của người Nam (Nam đế) là sự ý thức sâu xa về chủ quyền thiêng liêng
bất khả xâm phạm của dân tộc. Hơn nữa, thái độ ấy là tư thế của một dân tộc dám kiêu hãnh
đứng thẳng làm người, giơ một quả đấm thép giáng thẳng vào bộ mặt kiêu căng ngạo mạn
của bọn phong kiến Trung Quốc coi nước khác chỉ là chư hầu của chúng, coi dân tộc khác
chỉ là nô lệ của chúng. Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là “lẽ phải”, là “sự thật”
hiển nhiên, bởi giang sơn bờ cõi này là do tự bàn tay dân tộc ta đã gây dựng. Nó đã tồn tại
từ mấy ngàn năm nay. Ngay đến cả đấng thần linh tối cao là “Trời” cũng phải thừa nhận và
ghi rõ trong “sách trời”. Thêm một lần nữa, bài thơ nhấn mạnh tính chất tất yếu của quyền
độc lập tự chủ và khát vọng chính đáng của một dân tộc. Càng khát khao độc lập tự chủ, dân
tộc ta càng kiên quyết đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập. Ý chí ấy được khẳng
định ở hai câu kết của bài thơ. Lời tuyên bố thật đanh thép: kẻ thù chớ có xâm phạm. Nếu
chúng bay dám coi thường cả đấng tối cao là “Trời”, phạm vào “sách trời”; coi thường cả
một dân tộc, phạm vào lòng tự tôn dân tộc, xâm phạm đến sông núi nước Nam thì sẽ chuốc
lấy thất bại thảm hại, nhơ nhuốc đến ngàn đời. Có thể nói, Sông núi nước Nam là lời tuyên
bố đanh thép và hùng hồn nhất từ trước đến nay về chủ quyền đất nước. Khí thơ hùng tráng,

quật cường này sống mãi trong lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, xứng đáng là Bản Tuyên ngôn
Độc lập đầu tiên của nước Việt ta. Bản tuyên ngôn ấy kết tinh tất cả tư tưởng và tình cảm,
khát vọng và ý chí của cả dân tộc Đại Việt suốt mấy ngàn năm dựng nước giữ nước và toả
sáng đến muôn đời.
5-

THỜI NHÀ TRẦN

Đầu thế kỷ XIII, đế quốc Mông Cổ rộng lớn từ Thái Bình Dương đến Hắc Hải, rất giỏi
về chinh chiến, cưỡi ngựa, bắn cung. Sau khi chiếm được Trung Quốc, quân Mông Nguyên
tiếp tục tiến xuống phía Nam xâm lược nước ta Chúng xâm lược Đại Việt để chiếm đóng,
cai trị, làm bàn đạp chiếm Nam Tống và xâm lược các nước Đông Nam Á. Vua Trần cho
bắt giam sứ giả, ra lệnh chuẩn bị kháng chiến. Quân Mông Nguyên đã bị quân dân ta thời
nhà Trần đánh bại những ba lần.


Kháng chiến chống quân Nguyện lần I ,vào thời vua Trần Thái Tông. Tháng 1-1258,
Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy ba vạn quân Mông Cổ theo sông Thao tiến xuống Bạch
Hạc, đến Bình Lệ Nguyên gặp tuyến chống cự của Vua Trần Thái Tông. Trước thế giặc
mạnh, quân ta rút về Thiên Mạc để bảo toàn lực lượng. Giặc tiến vào Thăng Long , ta thực
hiện “vườn không nhà trống”, chúng tàn phá Thăng Long và cướp bóc ở các làng chung
quanh. Ở Thăng Long một tháng, chúng hết lương thực, nắm thời cơ đó, quân ta đã đã
phản công ở Đông Bộ Đầu, địch bị đánh bật khỏi Thăng Long chạy đến Quy Hóa bị Hà
Bổng đánh tan, quân Mông Cổ chạy thẳng về nước. Chủ trương đánh giặc của nhà Trần:
thực hiện “vườn không nhà trống”; tạm rút khỏi Thăng Long để bảo toàn lực lượng ;đẩy
địch vào tình thế khó khăn, phát động chiến tranh nhân dân làm tiêu hao sinh lực địch, phản
công lớn truy kích địch. Kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi trong vòng nửa tháng, âm mưu
xâm lược Đại Việt của kẻ thù bị chận lại.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (1285) lần thứ hai vào thời vua Trần
Nhân Tông. Đầu năm 1285, Hốt Tất Liệt huy động nửa triệu quân sang xâm lược Đại Việt.

Tổng chỉ huy quân xâm lăng lần này là Thoát Hoan (con trai Hốt Tất Liệt) và tướng Toa
Đô, chia làm hai hướng tấn công. Thoát Hoan vượt qua cửa ải Lạng Sơn tiến xuống Đại
Việt, Toa Đô theo hướng từ Champa đánh lên. Tướng chỉ huy chống giặc của ta là Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Nhà Trần một lần nữa dùng kế “vườn không nhà trống”, chủ
động lui quân. Ta khiến địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản
địa thì bắt đầu phản công. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử. Chương Dương,
quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân chạy về phía Bắc.
Kháng chiến chống quân Nguyên lần ba (1287) cũng vào thời vua Trần Nhân Tông.
Hai lần bị thất bại, Hốt Tất Liệt xâm lược nước ta lần thứ ba để trả thù, chứng tỏ uy thế của
nước lớn, gồm 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy; 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi hộ tống
đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, lần này lương thực đầy đủ hơn, quân đội nhiều và
mạnh, nhiều tướng giỏi, chú trọng đến thủy binh. Trần Hưng Đạo làm Tiết chế, chỉ huy
kháng chiến. Tháng 12 năm 1287, nửa triệu quân xâm lược tràn vào nước ta. Thoát Hoan chỉ
huy quân bộ đánh vào Lạng Sơn, Vạn Kiếp và xây dựng căn cứ vững chắc để đánh lâu dài
với ta. 600 chiến thuyền lớn do Ô Mã Nhi theo đường biển hộ tống đoàn thuyền lương của
Trương Văn Hổ và hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Ở trận Vân Đồn, Ô Mã Nhi vào
sông Bạch Đằng và hội quân ở Vạn Kiếp, bỏ lại đoàn thuyền lương, liền bị quân Trần Khánh
Dư tiêu diệt. Đợi mãi không thấy đoàn thuyền lương, tháng 1-1288, Thoát Hoan tiến xuống
Thăng Long nhưng bị động, hết lương thực, tinh thần binh lính hoang mang tuyệt vọng. Lúc
này thời cơ để nhà Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân Nguyên đã đến. Vua Trần và Trần
Hưng Đạo dự đoán quân giặc sẽ rút quân qua cửa sông Bạch Đằng. Đúng như dự tính, đầu
tháng 4-1288, Ô Mã Nhi có kỵ binh rút về nước theo hướng sông Bạch Đằng. Chờ đến khi
nước triều lên, ta cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi vờ thua chạy, dụ địch vào trận địa mai
phục của ta. Đúng lúc này thì nước rút, từ 2 bờ sông, thuyền nhỏ của ta đổ ra đánh, bị đánh
bất ngờ, giặc rút nhanh ra cửa biển, thuyền giặc đâm vào bãi cọc nhọn, bị vỡ và đắm. Hoảng
sợ, địch bỏ chạy lên bờ bị quân ta tiêu diệt, còn Ô Mã Nhi bị bắt. Trận Bạch Đằng kết thúc
thắng lợi. Cùng lúc này Thoát Hoan phải liều mạng rút chạy về nước. Ba trận đánh bại quân
Mông Nguyên đã tiêu diệt ý đồ xâm lược Đại Việt của quân Nguyên, cuối cùng quân
Nguyên phải từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.



Bên cạnh đó, một sự kiện ngoại giao tiêu biểu thời nhà Trần là vào năm 1301, Thái
thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn Chiêm Thành. Đây là chuyến thăm
chính thức nước ngoài đầu tiên của một vị vua Việt Nam. Vua được Quốc vương Chiêm
Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi
ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân dù Chế Mân đã có chính thất
là Vương hậu Tapasi. Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng
nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành
khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành. Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý
(còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền
Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ 2 với
phong hiệu là Paramecvari.
6THỜI HẬU LÊ
Sự kiện ngoại giao thời này là Lê Lợi và Nguyễn Trãi vừa đánh, vừa đàm, buộc giặc
Minh phải đầu hang trong danh dự qua Hội thề Đông Quan.
Thời kỳ chiến tranh đánh đuổi quân Minh đô hộ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì đấu
tranh ngoại giao kết hợp đấu tranh quân sự để đánh thắng giặc. Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ
trương “Ta mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà địch phải khuất" (Ngã mưu
phạt như tâm công, bất chiến tự khuất - Bình Ngô đại cáo).
Đánh vào lòng địch là một bộ phận của đấu tranh ngoại giao mà Nguyễn Trãi đã dùng
với hai hình thức: Dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân ở các thành; Đấu tranh
hòa đàm, khi thì để hòa hoãn tạm thời với địch, khi thì buộc địch phải chấm dứt chiến tranh,
rút quân về nước.
Từ năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn phất cờ khởi nghĩa, chiến đấu kiên cường, càng đánh
càng mạnh, nhưng vẫn khi được, khi thua, chưa giành được những chiến thắng lớn và những
thắng lợi quyết định. Năm 1423, Nguyễn Trãi tới Lam Sơn, bắt đầu vận dụng kế sách đấu
tranh - hòa đàm để mở đầu một giai đoạn chiến tranh mới, giai đoạn đánh mạnh vào lòng
địch, kết hợp đánh mạnh bằng quân sự và bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy để đánh
bại hẳn quân địch. Muốn thực hiện kế sách đó, công việc trước tiên là phải đàm phán thương
lượng với địch để có một thời gian hòa hoãn, ngừng chiến với địch, tăng cường sức mạnh

của mình. Nguyễn Trãi được trao trách nhiệm trực tiếp nghiên cứu, trù liệu việc đàm phán và
đàm phán thành công. Ta và địch có một thời gian hòa hoãn, ngừng chiến từ đầu năm 1423
tới mùa xuân năm 1424. Nghĩa quân Lam Sơn có thời gian chuẩn bị điều kiện đánh lâu dài
với địch, đi đến càng đánh càng thắng. Nhưng việc hòa hoãn không thể kéo dài. Nhưng dần
dần, địch thấy rõ nghĩa quân Lam Sơn đương tăng cường lực lượng, nên hòa hoãn được hơn
một năm, địch cắt ngoại giao, bắt giam sứ của nghĩa quân, không cho trở về.
Khoảng tháng 12 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tới trước thành Trà Long, cho
người dụ hàng Cầm Bành. Bấy giờ là đầu năm 1425, Cầm Bành bị vây khốn đã hơn một
tháng. Thấy không có viện binh, lại được lệnh ngừng chiến, Cầm Bành tuyệt vọng, mở cửa
thành ra hàng. Nghĩa quân vào thành, tha tội cho Cầm Bành và mọi người trong thành. Sau


khi đánh thành Trà Long, nghĩa quân Lam Sơn tiến đánh Nghệ An, và trong vòng 10 tháng
giải phóng một nửa nước về phía nam, dồn địch vào các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thanh
Hóa, Tân Bình, Thuận Hóa để vây hãm chúng, tạo điều kiện và thời cơ tiến ra giải phóng
miền Bắc.
Giữa năm 1426, bọn tướng giặc Trần Trí khẩn cấp kêu xin viện binh bên nước chúng.
Triều đình nhà Minh cho hai đạo viện binh sang cứu nguy cho quân tướng của chúng đang
bị khốn ở Đại Việt; một đạo do Vương An Lão chỉ huy tiến sang theo đường Vân Nam, một
đạo do Vương Thông chỉ huy tiến sang theo đường Quảng Tây. Khoảng cuối tháng 8 đầu
tháng 9 năm 1426, cả ba cánh quân lần lượt xuất phát. Nghĩa quân Lam Sơn cùng nhân dân
miền Bắc liên tiếp đánh thắng giặc tại các trận Cần Ninh, Cần Trạm, đánh tan viện binh
Vương An Lão tại trận Cần Đồng Dọc, phá vỡ cuộc phản công của Vương Thông - chủ
tướng mới của giặc, tiếp đó đánh tan đại quân Vương Thông tại trận Tốt Động - Chúc Động
(Hà Tây), buộc chủ tướng giặc Vương Thông phải chạy vào thành Đông Quan cố thủ. Trận
Tốt Động - Chúc Động vừa kết thúc thì ngày 10 tháng 11 năm 1426 đại quân Lam Sơn từ
Nghệ An ra tới Đông Quan. Ngày 22 tháng 11, đại quân Lam Sơn mở cuộc tiến công lớn,
quét sạch những căn cứ của giặc ở bên ngoài thành Đông Quan. Thay mặt các lãnh tụ Lam
Sơn, Nguyễn Trãi viết thư trả lời Vương Thông, chỉ nhận nghị hòa với điều kiện Vương
Thông hạ lệnh cho quân giặc ở các nơi phải trao lại thành cho nghĩa quân, rút về Đông Quan

chờ ngày về nước và Vương Thông phải cho người cùng sứ của ta sang triều đình Minh giao
hảo. Không thể không chấp nhận những điều kiện của nghĩa quân đưa ra, Vương Thông bắt
buộc phải cho người đưa giấy đi các thành Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình,
Thuận Hóa, hạ lệnh đình chiến và rút quân về Đông Đô. Về phía ta, Nguyễn Trãi cũng nhân
việc Vương Thông nghị hòa, gửi thư đi dụ hàng các thành khác của giặc. Vốn đã mất tinh
thần chiến đấu, lại thấy cái thế không thể cầm cự được nữa, nên khi nhận được lệnh của
Vương Thông và thư dụ hàng của Nguyễn Trãi là quân giặc ở các thành Nghệ An, Diễn
Châu, Tân Bình, Thuận Hóa vội mở cửa ra hàng, trao lại thành trì cho nghĩa quân và chuẩn
bị lên đường ra Đông Quan theo sự hướng dẫn của nghĩa quân.
Vương Thông quả thật có ý muốn bội phản những lời ước hẹn khi cầu hòa. Đầu năm
1427, vua Minh quyết định cử một đạo viện binh lớn sang Việt Nam do Liễu Thăng chỉ huy.
Viện binh của quân Minh chia làm hai đạo, do những tướng giỏi bậc nhất của chúng cầm
đầu, theo hai đường tiến sang Đại Việt. Một đạo gồm năm vạn quân và một vạn ngựa do
tướng Mộc Thạnh làm tổng binh và hai tướng Từ Hanh, Đàm Trung làm tả hữu phó tổng
binh, theo đường Vân Nam tiến sang. Một đạo gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa do tướng Liễu
Thăng làm tổng binh, tướng Lương Minh là phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ làm hữu tham
tướng và hai thượng thư làm tham tán quân vụ là Binh bộ thượng thư Lý Khánh và Công bộ
thượng thư Hoàng Phúc. Khoảng đầu tháng 10 năm 1427, hai đạo viện binh của giặc tới gần
biên giới Đại Việt. Biết đạo quân Liễu Thăng sẽ vượt biên giới sang trước, nghĩa quân Lam
Sơn chuẩn bị đánh đạo quân này. Khi 10 vạn quân của Liễu Thăng đánh vào cửa ải Pha
Lũy, tướng nghĩa quân Lam Sơn trấn giữ Pha Lũy là Trần Lựu theo kế hoạch vừa chiến đấu
vừa lui dần về Chi Lăng. Với địa thế hiểm trở, ải Chi Lăng rất thuận lợi cho việc đặt mai
phục của quân ta. Một vạn quân của các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lĩnh, Đinh Liệt,
Lê Thụ mai phục sẵn để chờ Liễu Thăng đến. Khi Liễu Thăng còn cách vài dặm đường,
tướng Trần Lựu và nghĩa quân từ trong Chi Lăng tiến ra đón đánh. Trần Lựu vừa đánh vừa


lui. Liễu Thăng hăm hở đem một vạn quân tiên phong đi trước mở đường, tiến thẳng vào
Chi Lăng. Không thấy quân ta, hắn chủ quan tưởng quân ta bỏ chạy, vội cùng hơn 100 kỵ
binh băng lên đuổi, cả vạn quân tiên phong chạy theo sau. Liễu Thăng hung hăng xông xáo

như vào chỗ không người. Tới cánh đồng lầy chân núi Mã Yên, có cầu bắc qua đồng lầy,
Liễu Thăng và hơn 100 kỵ binh vượt sang khỏi cầu thì cầu sập. Quân tiên phong giặc bị chia
cắt đội hình. Phục binh của ta bốn bề tung ra, đánh rất quyết liệt. Toàn bộ quân tiên phong
của giặc bị giết, Liễu Thăng trúng lao, chết ngay tại trận. Không nhận dụ hàng, tướng giặc
Lương Minh bỏ mạng
Nghĩa quân Lam Sơn tạm thời vây hãm chúng tại đây để đánh đạo quân Mộc Thạnh ở
phía biên giới Vân Nam trước . Sau khi vây hãm quân Thôi Tụ ở Xương Giang, các lãnh tụ
Lam Sơn cho đưa tới Lê Hoa một tên chỉ huy, ba tên thiên hộ giặc bị bắt trong các trận Chi
Lăng, Cần Trạm, cùng các sắc thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng và một bức thư của
Nguyễn Trãi, để các tướng của ta chuyển sang cho Mộc Thạnh. Nhận được sắc ấn cùng mấy
tỳ tướng của Liễu Thăng và đọc thư của Nguyễn Trãi, Mộc Thạnh quả thật lo ngại không
dám tiến nữa mà đem quân chạy trốn. Nhưng các tướng của ta đã kịp thời đánh cho đạo
quân Mộc Thạnh thiệt hại nặng nề tại hai nơi: Lãnh Câu và Đan Xá, gần biên giới Hà Tuyên
ngày nay, giết chết hơn một vạn giặc, bắt hơn một nghìn tên và trên một nghìn ngựa, thu
được rất nhiều khí giới, của báu và xe lương. Giặc bị chết đuối ở khe suối nhiều không kể
xiết. Sử cũ ghi: quân địch hoàn toàn tan vỡ "Mộc Thạnh chỉ kịp một mình một ngựa chạy
thoát thân" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Nguyễn Trãi thuật lại chiến thắng rực rỡ này trong Bình Ngô đại cáo:
“Binh Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa, sợ mà vỡ mật.
Bọn Mộc Thạnh nghe quân Thăng thua to nơi Cần Trạm, bỏ chạy thoát thân.
Lãnh Câu, máu chảy đầy dòng, nước sông nức nở.
Đan Xá, thây chồng khắp núi, cỏ nội đẫm hồng".
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc
ta.
Chiến thắng Xương Giang cùng với những chiến thắng Chi Lăng, Cần Trạm, Lãnh
Câu, Đan Xá là những võ công to lớn. Trong vòng một tháng, ta đã tiêu diệt hoàn toàn 15
vạn viện binh và 3 vạn ngựa của địch, lần lượt giết hết các chủ tướng, bắt sống và cầm tù
toàn bộ tướng lĩnh của địch. Những trận đại phá viện binh địch không những tiêu diệt gọn
toàn bộ 15 vạn viện binh mà còn tiêu diệt cả ý chí cố thủ của 10 vạn quân địch trong thành
Đông Quan; đúng như nhận định của Nguyễn Trãi: viện binh giặc bị diệt thì giặc trong

thành phải hàng. Đánh tan hai đạo viện binh địch, các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn chủ
trương tiếp tục dụ hàng địch trong các thành. Đối với địch ở Đông Quan, để làm chúng mất
tin tưởng trông chờ ở viện binh, Lê Lợi cho giải bọn đô đốc Thôi Tụ cùng một số tù binh
mang binh phù nguyên soái của Liễu Thăng, hai ấn thượng thư bằng bạc của Lý Khánh,
Hoàng Phúc với một ít vũ khí, chiêng trống, sổ sách của viện binh địch tới trước thành
Đông Quan, gọi địch ra xem, lại trao cho chúng một bức thư của Nguyễn Trãi nói rõ sự thất
bại thảm hại của viện binh và khuyên chúng đầu hàng.


Ngày 10 tháng 12 năm 1427, chủ tướng Vương Thông cùng toàn thể các tướng lĩnh,
quan lại cao cấp của địch tới dự hội thề. Thật là những giờ phút vinh dự của những người
chiến thắng. Trong buổi lễ chủ tướng Vương Thông thay mặt toàn thể quân giặc, trịnh trọng
xin thề:
" …Tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời
bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng để đợi viện binh đến nơi. Lại phải
theo đúng sự lý bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm. . .
…Nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề, người phục dịch và các thuyền đã định
rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập tức đem quân về nước,
còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều đình lại không theo sự lý
trong bản tâu, không sợ thần linh núi sông ở nước An Nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan
quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân đó, thì Trời Đất cùng là Danh sơn, Đại xuyên và thần
kỳ các xứ tất đem bọn tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông, tụ bản thân cho đến cả
nhà thân thích, làm cho chết hết, và cả đến quan quân cũng không một người nào về được
đến nhà...".
Lập hội thề là một việc nhỏ, nhưng ý nghĩa chiến thắng rất lớn. Bắt hàng chục vạn tên giặc
phải đầu hàng, phải xin thề không dám chiếm đóng, không dám xâm lược, phá phách, để
được toàn mạng về nước, như thế quả là "cổ kim chưa đã thấy” như Nguyễn Trãi đã nói
trong Bình Ngô đại cáo.
7-


THỜI NHÀ NGUYỄN

Sự kiện ngoại giao nổi bật ở thời kì này là việc Nguyễn Ánh mở đường cho thực dân
Pháp sang xâm lược nước ta cùng với việc kí kết Hiệp ước Versaiìles năm 1787. Trong
những năm 1776-1782, Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh tơi tả, phải chạy ra các đảo Thổ
Chu, Phú Quốc; cầu cứu các giáo sĩ phương Tây giúp đánh lại triều Tây Sơn, khôi phục
quyền lực. Bá Đa Lộc là giáo sĩ người Pháp, năm 1776 được phái sang Cam-pu-chia, ở đây
ông gặp Nguyễn Ánh. Bá Đa Lộc đã ra sức thuyết phục Nguyễn Ánh cầu viện nước Pháp.
Năm 1784 Nguyễn Ánh giao Vương Ấn và hoàng tử Cảnh (mới 5 tuổi) nhờ Bá Đa Lộc đưa
sang Pháp làm con tin và ủy quyền cho Bá Đa Lộc được toàn quyền đàm phán, cầu cứu
Pháp.
Ngày 28-11-1787, giữa chính phủ Pháp do bá tước Montmorin đại diện vua Louis
XVI và Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh (Gia Long sau này) ký Hiệp ước Versaiìles.
Hiệp ước gồm 10 điều khoản, Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại đất đai, theo đó
Pháp hứa cử 4 tàu chiến, 1650 binh lính và trang bị sang giúp Nguyễn Ánh. Đồng thời,
Nguyễn Ánh phải nhượng lại cho Pháp quyền sở hữu cảng Hội An, đảo Côn Lôn, được độc
quyền và hưởng đặc quyền buôn bán ở Việt Nam. Ngoài ra Nguyễn Ánh phải cam kết gửi
binh lính, lương thực, vũ khí khi Pháp có chiến tranh với nước khác. Năm 1799, trong một
lần theo quân Nguyễn Ánh đánh ra Quy Nhơn, Bá Đa Lộc ốm chết. Trên thực tế thì Hiệp
ước này không được thực hiện vì cuộc cách mạng tư sản năm 1789 ở Pháp. Thế nhưng, nó


đã mở đường cho thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp. Nguyễn
Ánh mang ơn người Pháp, vì vậy đã cho 40 cố vấn người Pháp tham gia chính quyền, nên
người Pháp càng có điều kiện để điều tra tình hình và can thiệp vào Việt Nam.
PHẦN 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN NGOẠI GIAO TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
Việt Nam là nước có vị trí quan trọng trong giao lưu quốc tế. Việt Nam nằm ở trung
tâm Đông Nam Á, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây và Tây Nam giáp Lào và
Campuchia, phía Đông và phía Nam nhìn ra biển Thái Bình Dương. Do có vị trí khá thuận
lợi nên Việt Nam từ sớm đã trở thành cầu nối giữa châu Á và Thái Bình Dương, giữa Đông

Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các tuyến đường, các luồng hàng
từ Bắc tới Nam và từ Đông sang Tây, là nơi gặp gỡ của các nền văn hóa, văn minh lớn, mà
ngay từ sớm là văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Quốc… Vì vậy mà trong quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, ngay từ sớm ông cha ta đã nhận thức rõ được hoạt
động ngoại giao có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc,
ngoại giao đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đồng thời củng cố hòa bình và phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác với các nước. Có thể thấy được nổi lên trong ngoại giao truyền thống của ông cha ta
có những đặc điểm sau:
1- Ngoại giao Việt Nam có nền tảng vững chắc là chủ nghĩa yêu nước và ý chí sắt
đá vì độc lập, tự do của dân tộc.
Ngoại giao Việt Nam về bản chất là ngoại giao giữ nước và cứu nước, giữ độc lập,
chủ quyền, chống xâm lược, kiên trì đấu tranh cho các mục tiêu cơ bản của dân tộc “Ngoại
giao Việt Nam về bản chất là ngoại giao giữ nước và cứu nước, chống xâm lược”, được chỉ
đạo bằng những tư tưởng chiến lược lớn đã được tổ tiên ta tổng kết như “Nam quốc sơn hà
Nam đế cư” (Lý Thường Kiệt), hay trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tư tưởng
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” và “Ta mưu đánh vào
lòng, không chiến mà cũng thắng”…
Chính sách đối ngoại tự chủ, cứng rắn là nguyên tắc nhất quán của tổ tiên ta. Mỗi một hành
động nội trị, ngoại giao đều thể hiện tinh thần đó. Ví như khi Ngô Quyền xây dựng triều
đình theo thể chế của một vương triều độc lập, định phẩm phục, nghi lễ riêng là tỏ rõ ý thức
dân tộc mạnh mẽ, độc lập với “thiên triều”. Hay câu nói của Lê Thánh Tông khi dặn dò sứ
giả: “Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vất bỏ, ngươi nên cố cãi, chớ cho họ lấn
dần, nếu họ không nghe còn có thể sai quan sang sứ Bắc triều bày tỏ phải trái. Nếu ngươi
dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di”… Đó là
những dẫn chứng tiêu biểu cho thái độ cứng rắn, không khoan nhượng của tổ tiên ta đối với
quyền lợi tối cao của đất nước.
Trong lịch sử bang giao của nước ta, bang giao với phong kiến Trung Quốc là đặc biệt quan
trọng. Với tư cách là một nước lớn, đã từng đồng hóa nhiều dân tộc và chinh phục nhiều
nước xung quanh, “giai cấp phong kiến Trung Hoa thường đối xử với các nước nhỏ thái độ

trịch thượng và khinh miệt” và tham vọng bành trướng lãnh thổ… Dân tộc Việt Nam ta vốn


có truyền thống yêu nước và tinh thần hòa bình, đã luôn tìm mọi cách để tránh chiến tranh
và duy trì hòa bình. Với ý chí cương quyết không để mất độc lập tự do, dân tộc ta luôn sẵn
sàng giữ thể diện cho nước lớn, tôn trọng họ, sẵn sàng nộp cống, xưng thần để giữ tình hòa
hiếu. Đấy là những hành động rất mềm dẻo và uyển chuyển thực hiện yêu cầu căn bản của
mình là độc lập tự do và sự toàn vẹn của lãnh thổ. Thế nhưng một khi chúng ta tìm mọi
cách để cứu vãn hòa bình nhưng kẻ thù không dứt bỏ tham vọng bành trướng, cố tình gây
chiến tranh xâm lược thì toàn thể dân tộc Việt Nam một lòng một dạ đứng lên chiến đấu,
cùng nhau bảo vệ Tổ Quốc.
“Đối với những vấn đề thuộc về nguyên tắc, thái độ của ta là “cương” và đấu tranh ngoại
giao rất kiên trì”. Để làm cơ sở, làm chỗ dựa cho thái độ “cương” - cứng rắn, trong ngoại
giao với địch, ông cha ta luôn cương quyết trong cả hành động. Đánh trả mãnh liệt hành
động xâm lược của địch trên mặt trận quân sự, trên lĩnh vực đấu tranh ngoại giao, ta cũng
không ngừng tranh thủ thời cơ để tiến công mạnh quân thù”. Đó là những hành động thể
hiện tính “cương” trong đấu tranh ngoại giao của tổ tiên ta từ thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
đến Quang Trung. Ví dụ cho luận điểm này ta xem xét ngoại giao thời nhà Lý. Vua Lý Thái
Tổ và các vua kế vị luôn tiếp tục duy trì mối bang giao hữu hảo với Trung Quốc. Nhưng
đứng trước quyết tâm xâm lược của nhà Tống thì sách lược ngoại giao của ông cha ta không
chỉ dừng lại ở chỗ chấp nhận nộp cống vật và dùng lời nói ôn hòa, mà trong trường hợp này,
ngoại giao phải dựa thêm vào sức mạnh vật chất của đất nước, trước hết là sức mạnh quân
sự. Biết cuộc chiến tranh của nhà Tống xâm lược nước ta là không thể tránh khỏi, thái úy
Lý Thường Kiệt chủ trương “ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi
nhọn của giặc” cùng với chiến công chặn đứng mũi tiến công của 30 vạn quân xâm lược
Tống vào năm 1077 đã là cơ sở để nhà Lý thực hiện việc “dùng biện sĩ để bàn hòa, không
nhọc tướng ta, khỏi tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu”. “Ngoại giao thời nhà Lý đã
nêu lên bài học về sự tác động khăng khít giữa quân sự và ngoại giao. Ngoại giao phải phục
vụ cho sự nghiệp độc lập và hòa bình, giúp vào việc chiến thắng trên mặt trận quân sự và
quân sự phải thực tế đem lại sức mạnh cho ngoại giao, chiến thắng quân sự ở chiến trường

quyết định thắng lợi trên bàn thương lượng của ngoại giao”… Tuy nhiên, đối tượng đấu
tranh của ta luôn là một nước phong kiến lớn mạnh hơn (Trung Quốc), nên “muốn đạt thắng
lợi, không chỉ có “cương”, mà còn phải có sách lược khôn khéo, mềm dẻo”, do đó hai mặt
“cương” và “nhu” luôn đi liền với nhau, “nhu” là để phục vụ “cương”. Vì vậy các triều vua
ta tuy “nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối với ngoài
thì xưng vương”, bề ngoài tỏ ra thần phục, chịu nộp cống, nhận phong tước hiệu nhằm
không để cho phong kiến phương Bắc kiếm cớ xâm lược nước ta. Đặc biệt là sau khi thua
trận, do muốn giữ thể diện cho nước lớn, phong kiến Trung Quốc thường gây lại chiến tranh
để phục thù, do vậy “sách lược “nhu” về ngoại giao của ta có tác dụng vớt vát phần nào thể
diện của “thiên triều”, ngăn chặn âm mưu phục thù và tiến tới đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm
lược của địch”. Những hành động ngoại giao đó không hề làm tổn hại các quyền lợi tối cao
của dân tộc, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta xây dựng lại đất nước, ổn định
cuộc sống, tránh được nạn binh lửa liên miên, khôi phục quan hệ hòa hiếu giữa hai nước…
Ta lại thấy đặc điểm này thể hiện trong ngoại giao của nhà Lý. Sau khi chiến tranh chống
Tống kết thúc, vua Lý vẫn cử sứ giả sang giao lưu với nước Tống. Quan hệ giữa hai nước đi
vào thời kỳ bình thường, thân thiện. Có thể đánh giá, về chính sách đối ngoại triều Lý luôn
thực hiện nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, do đó làm thất bại hành động xâm lược của


nhà Tống, thu phục được Chiêm Thành, đánh tan các cuộc tấn công cướp phá của Chân
Lạp. Sức mạnh về quân sự, chính trị và chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt của nhà
Lý đã khiến triều đình nhà Tống phải nể trọng Đại Việt, từ sau cuộc chiến tranh xâm lược
năm 1076 – 1077, nhà Tống không dám có thêm cuộc tấn công nào vào Đại Việt…
2- Ngoại giao Việt Nam “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vì lợi ích tối cao của dân tộc
Hoạt động đối ngoại là hoạt động có chủ đích, nhằm thực hiện lợi ích quốc gia trong
mối quan hệ hợp tác và đấu tranh với các chủ thể khác của quan hệ quốc tế. Lợi ích tối cao
của đất nước và dân tộc ta trong suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước là
khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Thực hiện mục đích tối cao này là mục tiêu
chiến lược xuyên suốt các hoạt động đối ngoại của các triều đình phong kiến Việt Nam, của
các lực lượng yêu nước, yêu chuộng hòa bình Việt Nam.

Vệc thực hiện lợi ích tối cao này của các thê hệ cha ông ta đã diễn ra trong những
hoàn cảnh khác nhau, những tình thế rất khác nhau. Có những lúc nước ta là một nước bị đô
hộ (dưới thời Bắc thuộc, Pháp thuộc), có những lúc nước ta là một nước độc lập (như dưới
thời các triều đình phong kiến Ngô, Đinh, Tiền, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn). Có những
lúc nước ta chỉ đối phó với một kẻ thù là triều đình phong kiến phương Bắc, có những lúc ta
phải đối phó cùng với nhiều kẻ thù (như nhà Tống và quân Mông – Nguyên ở thời Trần;
hay với quân Pháp, Anh, Mỹ những năm trước và sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945).
Có những lúc thế lực yếu, nội bộ lục đục ( Như cuối thời Ngô với loạn 12 sứ quân, thời nhà
Hồ….). Có những lúc thế nước ta mạnh phải buộc đối phương kiêng nể ( như thời Tiền Lê,
Lê Hoàn quyết đánh địch trên cả hai tuyến thủy, bộ, phá tan âm mưu phối hợp hai đoàn
quân thủy, bộ của chúng. Quân ta đã đánh tan ba đạo quân Tống: đạo quân đường bộ bị tiêu
diệt ở Chi Lăng; một đạo quân đường thủy bị tiêu diệt ở Bạch Đằng; còn đạo quân thủy bị
tiêu diệt ở Tây Kết. Hay thời Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn với các chiến thắng oanh liệt của
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,Lê Lợi, Nguyễn Huệ… buộc triều đình phương bắc nể sợ:
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông, nước ta đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà
Tống. Triều đình nhà Lý và Thái úy Lý Thường Kiệt quyết đánh trước, Lý Thường Kiệt ra
kế sách“ngồi im đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc” để phá
tan những căn cứ chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống ở Quảng Tây và Quảng Đông. Chỉ có
thế mới xóa bỏ được ý đồ xâm lược của Tống; Sau khi chiếm được Trung Quốc, quân Mông
Nguyên tiếp tục tiến xuống phía Nam xâm lược nước ta Chúng xâm lược Đại
Việt để chiếm đóng, cai trị, làm bàn đạp chiếm Nam Tống và xâm lược các nước Đông
Nam Á. Vua Trần cho bắt giam sứ giả, ra lệnh chuẩn bị kháng chiến. Quân Mông Nguyên
đã bị quân dân ta thời nhà Trần đánh bại những ba lần. ( Kháng chiến chống quân Nguyện
lần I ,vào thời vua Trần Thái Tông. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (1285)
lần thứ hai vào thời vua Trần Nhân Tông. Kháng chiến chống quân Nguyên lần ba (1287)
cũng vào thời vua Trần Nhân Tông); Ở thời Lê, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã có chiến thắng
Xương Giang cùng với những chiến thắng Chi Lăng, Cần Trạm, Lãnh Câu, Đan Xá là
những võ công to lớn. Trong vòng một tháng, ta đã tiêu diệt hoàn toàn 15 vạn viện binh và
3 vạn ngựa của địch, lần lượt giết hết các chủ tướng, bắt sống và cầm tù toàn bộ tướng lĩnh
của địch. Những trận đại phá viện binh địch không những tiêu diệt gọn toàn bộ 15 vạn viện

binh mà còn tiêu diệt cả ý chí cố thủ của 10 vạn quân địch trong thành Đông Quan; Dưới sự
lãnh đạo của Quang Trung, quân Tây Sơn đã đánh bại được cuộc can thiệp mang tính xâm
lược của nhà Thanh.


Dù trong hoàn cảnh nào, tình thế nào các thế hệ cha ông ta cũng tìm ra phương cách,
sách lược thích hợp để giữ vững độc lập, tự do cho dân tộc. Đó chính là truyền thống ngoại
giao: “dĩ bất biến ứng vạn biến”-lấy lợi ích tối cao của dân tộc, của đất nước làm cái bất
biến để ứng phó với những biến đổi thới cuộc; kiên định về mục tiêu chiến lược, mềm mỏng
và linh hoạt vê sách lược….
3- Ngoại giao Việt Nam vì hòa bình
Khi mà biện pháp đàm phán hòa bình không thể tiến hành thì dân tộc ta buộc phải
cầm vũ khí đứng lên bảo vệ nền độc lập, tự do dân tộc, thống nhất đất nước. Thế nhưng dân
tộc ta vẫn chìa ra bàn tay hòa bình để kéo đối phương đến bàn đàm phán, thương lượng với
mưu cầu nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, ngày nào còn chiến tranh thì dân tộc ta vẫn
không thể được yên bình.
Ngược dòng lịch sử, ta thấy rằng các thế hệ cha ông đều chủ động đàm phán hòa bình
để kết thúc chiến tranh; dùng các biện pháp ngoại giao vừa mềm dẻo vừa cứng rắn để ngăn
chặn chiến tranh xảy ra. Ở vào thời điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp
viện của nhà Minh, giết chết tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu
diệt quân địch trong thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho
quân sĩ cả hai bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê
Lợi và Nguyễn Trãi đã vận dụng chiến lược “mưu phạt tâm công” (đánh vào lòng người) là cả một chiến lược cơ bản trong Bình Ngô sách mà Nguyễn Trãi đệ trình Lê Lợi ngay từ
lúc khởi nghĩa Lam Sơn còn ở trong thời kỳ trứng nước; là sự khởi đầu cho chủ trương kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao của Nguyễn Trãi. Theo đó, trong lãnh đạo khởi
nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi “đánh vào lòng địch” với hai phương thức chủ yếu: dụ
hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân, thực hiện hòa đàm, khi thì để hòa hoãn tạm
thời với địch để bảo toàn lực lượng; khi ưu thế thuộc về nghĩa quân thì dùng lý lẽ để buộc
địch chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước. Lại nói, trong khi quân dân ta căm phẫn sự tàn
bạo của quân giặc vô cùng, có mang chúng ra chém trăm nhát, bêu rếu ngay chợ cũng

không hả dạ thì vua Lê Thái Tổ Lê Lợi đã ra lời dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình
của mọi người, nhưng không thích giết người là từ tâm của bậc đức. Vả lại, người ta đã
hàng mà mình lại giết thì đó là điều xấu không hay. Nếu vì hả nỗi căm hận trong chốc lát,
mà mang tiếng giết kẻ đầu hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho vạn ức người để dập tắt
mầm mống chiến tranh cho đời sau, sử xanh sẽ ghi chép, tiếng thơm để lại muôn đời, như
vậy há chẳng tốt đẹp hay sao?”.
Trong chính sách đối với hàng binh, nhà vua đã chủ trương không giết để hả giận tức
thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất
thể diện. Minh chứng là tuân theo lời dụ của Lê Lợi, trong thư gửi Vương Thông, Nguyễn
Trãi viết: “Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa
quân ra cõi, yên ổn muôn phần...”. Theo Nguyễn Trãi, dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước
làm trên hết và để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là
điều ta cần không gì hơn thế nữa. Có thể nói, "tuyệt mối chiến tranh, bảo toàn cả nước" là
trên hết, đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của vua Lê và đại thần Nguyễn Trãi. Có
thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc. Vua Lê Lợi,


Nguyễn Trãi cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc
chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn
hùng binh. Tái thiết lập hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời".
Tháng 12/1788, trước nạn xâm lược của quân Thanh, Nguyễn Huệ đã tuyên đọc
chiếu lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân: "... Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không một
thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn mong được vua
hiền cứu đời yên dân nên trẫm đã tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi, đi xe cỏ, cốt quét sạch
loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa... Hỡi muôn dân trăm họ, nhân nghĩa trung chính
là đạo lớn của người ... Trẫm năm nay có cả thiên hạ, sẽ dìu dắt dân và đạo lớn, đưa dân lên
đài xuân".
Sau đại thắng Đống Đa (30/1/1789), Quang Trung không hề tự đắc tự mãn, mà lại
muốn bày tỏ lòng nhân đạo và tinh thần hiếu hòa của mình nên đã ra lệnh đối xử tử tế với
tất cả tù binh, hàng binh trước khi tha họ về quê hương, lại cho thu nhặt hài cốt giặc trên

chiến trường, chôn thành 12 gò đống và lập đàn cúng tế. Nhân dịp này, Quang Trung mượn
lời bài văn tế nói lên tấm lòng khoan dung độ lượng của người chiến thắng: "... Nay ta cho
thu nhặt xương cốt chôn vùi. Bảo lập đàn bên sông cúng tế. Lòng ta thương chẳng kể người
phương Bắc. Xuất của kho đắp điếm đống xương khô. Hồn các ngươi đừng vất vưởng dưới
trời Nam. Hãy lên đường quay về nơi hương chỉ ". Chỉ trong vòng nửa năm sau Đống Đa,
nước Đại Việt của Quang Trung đã lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh để dân ta được
sống trong độc lập và hòa bình.
Truyền thống ngoại giao vì hòa bình của dân tộc ta đã được các thế hệ sau này kế
thừa và phát huy trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giành lại độc lập, tự
do cho dân tộc, thống nhất đất nước.
4-

Ngoại giao Việt Nam hòa hiếu với các nước láng giềng

Chính sách ngoại giao hòa hiếu, thân thiện, hữu nghị với các nước cũng là một trong
những đặc điểm ngoại giao truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hòa bình, hòa hiếu là cốt
lõi của ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao Việt Nam luôn thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn.
Mặc dù luôn phải chiến đấu chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, nhưng con
người Việt Nam vẫn giàu lòng nhân ái, trọng đạo lý, nghĩa tình, không nuôi hận thù, sau
chiến tranh vẫn muốn: “Sửa hòa hiếu cho hai nước tắt muôn đơi chiến tranh”. Ngay sau khi
các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm thắng lợi, đặc biệt là đối với kẻ địch phong kiến Trung
Quốc, ông cha ta vẫn luôn ngoại giao mềm dẻo, có sách lược bằng việc cử sứ giả sang giao
hảo hòa hiếu. Ví như ngay sau khi kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi lên làm Vua,
lập nên nhà Lê, các Vua nhà lê vẫn kiên trì chính sách ngoại giao truyền thống của ông cha:
kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nhưng coi trọng việc giữ hòa hiếu
với Trung Quốc, và điều này thể hiện rõ hơn trong lời nói trên của Nguyễn Trãi.
Không chỉ với Trung Quốc là nước lớn, Việt Nam còn ứng xử ngoại giao trên tinh thần hiếu
hòa, mềm dẻo với các nước ngang bằng hoặc nhỏ hơn trong khu vực, thể hiện rõ bản sắc
văn hóa trong ứng xử ngoại giao của dân tộc; cha ông ta chủ trương giao hảo, thân thiện.



Đôi khi xảy ra xung đột với Chiêm Thành và Ai Lao, nhưng phần lớn ta đều sử dụng sức
mạnh vũ trang để dập tắt xung đột, sau đó lại xây dựng mối quan hệ hữu hảo như trước,
cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa thời Trần với Vua Chămpa là Chế Mân, hay
chuyện Chiêu Quân cống Hồ là những câu chuyện cho ngoại giao giao hảo thân thiện đó…
Trước những chiến công lừng lẫy trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc, thế giới phải công nhận, dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước
bất kỳ kẻ thù nào. Các biện pháp hòa bình đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ, không khoan
nhượng là kế sách “hòa hiếu” bảo vệ Tổ quốc có từ nghìn đời của một dân tộc rất yêu
chuộng hòa bình. Thế nhưng, Việt Nam chỉ dùng đến bạo lực khi không còn sự lựa chọn
nào khác và đấu tranh vũ trang chỉ là biện pháp cuối cùng để bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử cho
thấy, trước họa xâm lăng, Việt Nam luôn biết cách thể hiện thiện chí hòa hiếu để bảo vệ Tổ
quốc một cách hiệu quả. Khi mà buộc phải cầm vũ khí lên để bảo vệ độc lập tự do cho dân
tộc, thống nhất đất nước, thế nhưng dân tộc Việt Nam yêu hòa bình sẵn sàng đưa đối
phương đến bàn thương lượng thông qua biện pháp hòa bình, mưu cầu chấm dứt sớm chiến
tranh vì ngày nào còn chiến tranh thì ngày đó vẫn còn mất mát, đau thương. Việc thương
lượng phải trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, tôn
trọng quyền tự quyết của dân tộc ta.
Ngược dòng lịch sử, vua Quang Trung từng thể hiện tư tưởng hòa hiếu của dân tộc qua câu
nói: "Hai nước đánh nhau cũng không phải là phúc cho dân” và chỉ ra quyết sách "Ngoại
giao hòa bình” và thường gọi là "Khéo về giấy tờ”, tức là giỏi thương lượng, đàm phán để
giữ vững bờ cõi. Trước đó, vua Lê Thánh Tông cũng kiên trì sự nghiệp này.
Biên niên sử năm 1473 ghi trong sách "Đại Việt sử ký toàn thư”, có chép lại câu nói của
nhà vua khi chỉ thị cho Thái bảo Lê Cảnh Huy: "Một thước núi, một tấc sông của ta, cũng
không được đem bỏ đi. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của tổ tiên làm mồi cho
giặc, thì tội phải tru di”. Lê Thánh Tông dặn dò kỹ lưỡng bề tôi về phương pháp đấu tranh:
"Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, ta còn có thể
sai sứ sang phương Bắc, nói rõ điều ngay lẽ gian”. Thế nhưng để "nói rõ điều ngay lẽ gian”,
thực hiện chính sách hòa hiếu với những kẻ chủ tâm đi xâm lược không phải là việc dễ.
"Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại đoạn chiếu thư của Hoàng đế nhà Tống gửi cho vua Lê Đại

Hành (năm 971): "... Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống.
Nếu chịu theo giáo hóa, ta sẽ tha tội cho. Nếu trái mệnh, ta sẽ sai quân đánh”.
Tương tự, Hoàng đế Nguyên Mông Hốt Tất Liệt đối xử với vua Trần Thánh Tông (năm
1279) bằng câu nói trịch thượng: "Nếu quả thật ngươi không tự đến ra mắt được thì hãy lấy
vàng thay thân, hai hạt châu thay mắt, thêm vào đó, lấy hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con
gái, thợ thuyền, mỗi loại hai người, để thay cho sĩ nhân. Nếu không thì hãy tu sửa thành trì
mà đợi xét xử”…
Với tinh thần hòa hiếu, đặt lên trên hết lợi ích chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc, các
vua, chúa Việt Nam đã có cách ứng xử khéo léo, hiệu quả trước những thách thức và sức ép
bành trướng của quân xâm lược. Vua Lê Đại Hành tổ chức thết tiệc đãi sứ mang chiếu thư
đến Hoa Lư, lại còn thân lội ruộng bắt cá cho sứ giả xem và thấy sự chan hòa của nhà vua


nước Việt. Vua Lý Nhân Tông sẵn sàng đem voi đi cống cho nhà Tống, nhưng là để đổi lại,
thu hồi lại được cả vùng đất châu Quảng Nguyên (Cao Bằng).
Còn Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, trước sự ngông nghênh, ngang ngược
của sứ giả Sài Thung, vẫn ân cần làm thơ tống tiễn về nước:
“Không biết đến bao giờ mới lại được gặp mặt
Để ân cần nắm tay nhau mà kể chuyện hàn huyên…”
Những câu chuyện xử trí mềm dẻo về sách lược để thực hiện chiến lược giữ nước qua
các triều Lý, Trần, đến Tây Sơn... cho thấy sự linh hoạt, uyển chuyển của đối sách nhân
nhượng với tinh thần hòa hiếu trong bang giao của dân tộc ta.
5- Giương cao ngọn cờ chính nghĩa, nắm vững tình hình địch, chủ động tiến công là
một trong những đặc điểm của ngoại giao truyền thống Việt Nam
Công tác ngoại giao là một mặt trận có tính chất chiến lược trong cuộc đấu tranh lâu
dài, quyết liệt chống xâm lược. Do vậy cần nắm vững tình hình địch, ông cha a luôn lợi
dụng từng khe hở trong đường lối và chủ trương của địch, khoét sâu điểm yếu cơ bản của
địch là tính chất phi nghĩa trong chiến tranh. Đồng thời luôn đề cao tính chất chính nghĩa
của ta “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chi nhân để thay cường bạo”, nắm vững ngọn
cờ hòa bình, độc lập dân tộc, kết hợp chặt chẽ tính cứng rắn về nguyên tắc với tính linh

hoạt, mềm dẻo về sách lược, giành thắng lợi từng bước trong đấu tranh ngoại giao là cần
thiết và thích hợp với một nước đất không rộng người không đông lại phải đương đầu với
những kẻ thù lớn mạnh hơn mình rất nhiều, nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là độc lập, chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, ngoại giao đã có một vai trò và vị trí vô
cùng quan trọng. Cùng với đấu tranh quân sự, hoạt động ngoại giao của tổ tiên ta đã làm
thất bại mọi mưu đồ xâm lược của các thế lực ngoại bang là nhờ ta hiểu rõ về địch. Ông cha
ta luôn chủ động và tiến công trong đấu tranh ngoại giao. Trong chiến đấu, có khi ta phải
tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, nhưng tổ tiên ta cũng lại rất chủ động tiến công địch
về mặt ngoại giao. “Tiến công ngoại giao để giành ngọn cờ chính nghĩa, bóc trần các chiêu
bài, luận điệu lừa bịp, mị dân của địch và che giấu những khó khăn, nhược điểm của ta, tạo
ra một tình hình “hư hư thực thực” mà địch không tài nào đoán được”. Tiến công ngoại giao
còn làm cho địch chủ quan dẫn đến những sai lầm trong cách bày binh bố trận. Khi thế lực
của ta đã vững mạnh, tiến công ngoại giao nhằm làm suy sụp tinh thần chiến đấu và đập tan
ý chí xâm lược của địch…
Nhiều hoạt động ngoại giao của tổ tiên ta thể hiện tính chủ động và tiến công, nhất là khi
địch bị thất bại nặng trên chiến trường. Chính trong tình hình đó, ngoại giao chủ động đưa
ra giải pháp để kết thúc chiến tranh và địch dễ dàng chấp nhận. Các vị sứ thần của ta mang
tinh thần quật cường của dân tộc, thể hiện khí phách hiên ngang và tiến công ngoại giao
ngay trong sào huyệt địch mà không ngại hy sinh như Đỗ Khắc Chung trong doanh trại Ô
Mã Nhi, Nguyễn Biểu trước mặt Trương Phụ, Giang Văn Minh trước triều Minh… Tính
chủ động và tiến công trong đấu tranh ngoại giao của tổ tiên ta bắt nguồn từ tinh thần bất


khuất của dân tộc, từ tính chất chính nghĩa của các cuộc chiến tranh giữ nước và do có sức
mạnh của thắng lợi quân sự làm chỗ dựa. Trên tinh thần đó, ông cha ta đã sử dụng ngoại
giao như một vũ khí sắc bén, lợi hại để đem lại thắng lợi to lơn cho dân tộc một cách ít tổn
hại nhất.
6- Phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao với hoạt động quân sự
Vừa đánh vừa đàm, kết hợp quân sự với ngoại giao, “mưu phạt tâm công”, trở thành

truyền thống ngoại giao lâu đời của ông cha ta. “Ngoại giao và quân sự là hai lĩnh vực đấu
tranh theo một phương châm chiến lược”. Ngoại giao góp phần tạo điều kiện cho thắng lợi
của quân sự và quân sự có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của ngoại giao. “Ngoại giao
không những được coi là một trong những “phương châm lừa đánh địch” như Nguyễn Trãi
đã nói mà tổ tiên ta còn tiến hành các hoạt động ngoại giao ngay trong quá trình cuộc
chiến”. Ngoại giao phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ chiến lược và chiến đấu xen kẽ, hỗ trợ
đắc lực cho các hoạt động quân sự. Đấu tranh ngoại giao và đấu quân sự kết hợp với nhau
chặt chẽ nhằm đạt các mục tiêu cụ thể. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, tổ tiên ta đã
vận dụng rất sáng tạo và linh hoạt sách lược vừa tiến công quân sự, vừa tiến đánh hòa đàm
thương lượng với địch. Nếu như ở giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, hòa đàm có tác dụng
hạn chế sự vây quét của địch, che dấu lực lượng và những khó khăn tạm thời của ta, thì ở
các giai đoạn sau, khi tương quan lực lượng có lợi cho ta, hoạt động ngoại giao và quân sự
càng kết hợp rất chặt chẽ nhằm dồn địch vào thế “trí cùng lực kiệt” để tiến lên hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong lịch sử ngoại giao nước ta, các hoạt động ngoại giao thời kỳ Lê Lợi lãnh đạo
nhân dân ta đánh đuỏi giặc Minh xâm lược đê lại những bài học vô cùng quý báu. Đây là
thời kỳ Bộ tư lệnh nghĩa quân Lam Sơn đã kiên trì đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu
tranh quân sự để đánh thắng giăc, chủ trương đó là “Ta đánh vào lòng, không chiến mà
cũng thắng”. Trong gần một chục năm tiến hành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427),
Bộ tư lệnh nghĩa quân đã tích cực thực hiện việc “đánh vào lòng địch” với hai hình thức chủ
yếu: dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân ở các thành, thực hiện hòa đàm, khi
thì để hòa hoãn tạm thời với địch để bảo toàn lực lượng, khi ưu thế đã thuộc về nghĩa quân
thì dùng lý để buộc địch phải chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước. Đây là một nét đặc
sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta và trong ngoại giao truyền thống Việt
Nam. Cũng trong thời kỳ này có Nguyễn Trãi là một nhà ngoại giao nổi tiếng, ông đã kiên
trì hòa đàm với địch. Đây là một hình thức đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân
sự, mang lại hòa bình cho đất nước, tạo cơ sở cho quan hệ giao hảo giữa hai nước sau khi
chiến tranh kết thúc.
Thời Quang Trung – Nguyễn Huệ (1789 – 1792), sau khi đại phá 29 vạn quân Thanh,
Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm chủ trương “dùng ngọn bút thay giáp binh”, liên tiếp tiến

công ngoại giao, buộc nhà Thanh phải nhượng bộ ta.
7- Tranh thủ sự ủng hộ và tình đoàn kết quốc tế trong đấu tranh vì độ lập, tự do của Tổ
quốc


Dân tộc ta sớm đã biết tranh thủ sự ủng hộ và đoàn kết quốc tế trong đấu tranh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc. Ngay từ năm 713, Mai Thúc Loan đã tranh thủ được sự giúp đỡ của
các nước láng giềng là Lâm Ấp, Chân Lạp (ở khu vực Campuchia ngày nay) và Kim Lân (ở
khu vực Malaysia ngày nay) đưa quân sang cùng với quân ta chống lại ách đô hộ của nhà
Đường. Năm 1257, đế quốc Nguyên – Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, đồng
thời tiến hành chiến tranh thôn tính Nam Tống. Đứng trước kẻ thù chung, Đại Việt và Nam
Tống đã giúp đỡ lẫn nhau. Năm 1284, nhà Nguyên liên tiếp cho sứ thần sang nước ta đòi
vua Trần Nhân Tông cho “mượn đường sang tiến đánh Chiêm Thành”, triều đình nhà Trần
kiên quyết không đồng ý vì biết đây là kế “Giả đò diệt quắc” của giặc. Trái lại quân ta còn
tích cực ủng hộ Chiêm Thành chống quân Nguyên xâm lược. Qua đó không chỉ thể hiện
tình đoàn kết với Chiêm Thành mà còn thể hiện tư tưởng đoàn kết quốc tế của dân tộc ta
“giúp bạn là giúp chính mình”. Nếu cho nhà Nguyên “mượn đường” đánh Chiêm Thành,
khi chúng thôn tính xong Chiêm Thành thì sẽ dễ dang để thôn tính luôn nước ta bằng cách
từ trong đánh ra, từ hai đầu đất nước đánh vào.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước, truyền
thống tranh thủ sự ủng hộ và tình đoàn kết của các dân tộc Việt Na đã được Nguyễn Ái
Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương phát triển lên một tầm cao mới. Lúc này, Cách mạng
Việt Nam đã trở thành một bộ phận của Cách mạng thế giới, mật thiết liên lạc với các dân
tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ lịch sử hào hùng của mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ ông cha
ta đã truyền lại cho các thế hệ tiếp sau những truyền thống ngoại giao tốt đẹp. Những truyền
thống đó thể hiện nền ngoại giao Việt Nam là nền ngoại giao của một dân tộc anh hùng, bất
khuất, đồng thời rất yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ hữu nghị với các dân tộc khác,
rất khoan dung, độ lượng… Hoạt động đối ngoại của các thế hệ ông cha ta đã góp phần

quan trọng trong việc xây đắp nền độc lập, tự do cho dân tộc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ non sông Việt Nam, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Do đó, các thế hệ tương lai phải biết kế thừa và phát huy hơn nữa những truyền thống tốt
đẹp đó của tổ tiên, làm phát triển và vững chắc nền ngoại giao Việt Nam vì sự phát triển
hưng thịnh của đất nước.



×