Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh thái nguyên hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.29 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HUY HOÀNG

CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Lý luận Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60380101
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài



3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

9

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

9

5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn

10

6. Giá trị lý luận và thực tiễn của luận văn

10

7. Kết cấu của luận văn

10

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO

11

DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật: khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình


11

thức và phương pháp
1.1.1. Khái niệm “phổ biến, giáo dục pháp luật” và những đặc điểm cơ

11

bản của nó
1.1.2. Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

18

1.2. Những điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

21

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa và xã hội

21

1.2.2. Về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ phổ biến, giáo dục pháp luật

25

1.2.3. Về pháp luật và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ phổ biến, giáo

27

dục pháp luật

1.2.4. Về cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật

30

1.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng phổ biến, giáo

31

dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay
Kết luận của Chương 1

33


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

34

LƢỢNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

34

2.1.1. Ưu điểm, thành tựu và nguyên nhân

34

2.1.2. Nhược điểm, hạn chế và nguyên nhân


55

2.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật

58

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
2.2.1. Về nhận thức tư tưởng

58

2.2.2. Về nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật

59

2.2.3. Về chỉ đạo, lãnh đạo, kiểm tra, giám sát công tác phổ biến, giáo

62

dục pháp luật
2.2.4. Về việc bảo đảm những điều kiện cho công tác phổ biến, giáo dục

64

pháp luật
Kết luận của Chương 2

68

Kết luận chung


69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BCHTƯ: Ban chấp hành Trung ương.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
QPPL: Quy phạm pháp luật.
HĐND: Hội đồng nhân dân.
UBND: Ủy ban nhân dân.
TAND: Tòa án nhân dân.


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam,
tại mục XI với đề mục: Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đã nhấn mạnh việc nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Để có được "Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” theo
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn
chỉnh, đồng bộ và mang tính ổn định lâu dài. Đồng thời, pháp luật của nhà nước phải
được thực thi nghiêm chỉnh. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước

quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công
dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Có thể thấy rằng, tăng cường pháp chế XHCN chính là điều kiện quan trọng
để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để tăng cường pháp chế
XHCN thì trước hết phải đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân
dân, trước hết là trong Đảng và các cơ quan nhà nước, làm cho mọi người hiểu và
làm theo pháp luật một cách thống nhất.
Từ những khái quát trên đây chúng ta nhận thấy, để thực hiện tốt chức
năng quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà
nước pháp quyền, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thì phải từng
bước trang bị những kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời
đến toàn thể cán bộ, công chức và đông đảo nhân dân tạo cơ sở, điều kiện cho việc
nâng cao ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của mỗi công dân.


2
Qua khảo sát, nghiên cứu về thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua cho thấy: công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật ở tỉnh Thái Nguyên đã từng bước đi vào nề nếp, tạo được sự
chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động ở các cấp, các ngành, địa phương
trên địa bàn tỉnh; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ tỉnh đến cơ sở thường
xuyên được củng cố, kiện toàn và ngày càng hoạt động có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở các ngành, các cấp đang từng bước được
củng cố, bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên trách, đã và đang xây dựng được một lực
lượng đông đảo cán bộ cơ sở tham gia vào công tác này. Các hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật đã mang tính thiết thực, gắn với từng đối tượng và đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh.
Thông qua các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phong phú, đa dạng đã
từng bước nâng cao ý thức tìm hiểu, nghiên cứu và ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, công chức và nhân dân trong đời sống xã hội; tăng cường trách nhiệm, nghĩa
vụ của đội ngũ cán bộ công chức trong thực thi nhiệm vụ, quyền hạn và phát huy sự
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của nhân dân bằng pháp luật; góp phần
hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo, các vụ việc vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật
hành chính; hạn chế tranh chấp dân sự và các tệ nạn xã hội; tham gia góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên còn có một số tồn tại, hạn chế như: một số ngành, địa phương chưa nhận
thức đúng về vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật; vai trò tham mưu trong triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của cơ
quan tư pháp còn hạn chế, nhất là ở cấp huyện, cấp xã; đội ngũ cán bộ chuyên trách
và cán bộ kiêm nhiệm làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (báo cáo viên pháp
luật cấp tỉnh, huyện; tuyên truyền viên, cộng tác viên tuyên truyền pháp luật cơ sở)
còn thiếu, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; công tác
chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiến thức pháp luật tuy đã được quan
tâm nhưng chưa thực sự kịp thời, thường xuyên; chưa có chế độ hỗ trợ, đãi ngộ phù
hợp, nhất là đối với tuyên truyền viên pháp luật ở cấp xã và ở xóm, bản, tổ dân phố,


3
cụm dân cư; việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật chưa được thường xuyên và đồng đều...
Là công chức đang công tác tại Sở tư pháp tỉnh Thái Nguyên, được phân công
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn làm công tác tham mưu đối với hoạt động quản lý
nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, qua thực
tiễn công tác, bản thân tôi luôn nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội nói chung và trong

hoạt động quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện
nhiệm vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thực tế còn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc cũng như những tồn tại, hạn chế nhất định. Qua quá trình nghiên
cứu, học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội, với những kiến thức lý luận được các
thày, cô giáo cung cấp, trang bị, cùng với thực tiễn công tác của bản thân, tôi chọn
chủ đề: “Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp
Thạc sỹ Luật học. Tôi hy vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất
lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ở địa phương trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm.
Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như:
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ quan hậu cần hiện nay
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của Lê Hồng Sơn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004 [27]. Trong Luận văn này, tác giả Lê Hồng Sơn đã nêu những vấn
đề về cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ
quan hậu cần. Tác giả cũng đề cập đến các vấn đề xung quanh khái niệm và những
tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ quan hậu cần, khảo
sát và nêu ra thực trạng chất lượng giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ quan hậu cần
như: thực trạng chất lượng nội dung, phương pháp, hình thức; thực trạng chất lượng
đội ngũ những người làm công tác giáo dục pháp luật và đội ngũ học viên sỹ quan;


4
thực trạng chất lượng công tác xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và môi trường
giáo dục trong học viện... Từ các thực trạng tác giả cũng đã nghiên cứu về nguyên
nhân của thực trạng chất lượng công tác giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ quan
hậu cần từ đó đề ra những yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật

trong đào tạo sỹ quan hậu cần hiện nay. Luận văn trên có những đóng góp tích cực
trong việc nêu lên tính cần thiết của công tác giáo dục pháp luật trong đào tạo sỹ
quan hậu cần hiện nay, tuy nhiên Luận văn của tác giả chủ yếu đề cập đến công tác
giáo dục pháp luật cho một đối tượng cụ thể là sỹ quan hậu cần trong môi trường
học tập của Học viện hậu cần, do đó về phạm vi, đối tượng, nội dung và hình thức,
phương pháp trong giáo dục pháp luật được tác giả đề cập trong luận văn mang tính
đặc thù cho áp dụng cho chương trình đào tạo sỹ quan hậu cần; mặt khác luận văn
chỉ đề cập đến công tác giáo dục pháp luật, không đề cập đến vấn đề phổ biến pháp
luật.
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay - Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị
Tuyết Mai - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 [21]. Trong Luận văn
này, tác giả cũng đã nêu cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đồng thời nêu khái quát
đặc điểm của giáo dục pháp luật cho đối tượng này, luận văn cũng đề cập một vấn
đề theo tôi là khá quan trọng đó là các yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam,
trên có sở đó tác giả đã đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, những kết quả đạt
được, những tồn tại, khó khăn, từ đó tác giả đề ra phương hướng, giải pháp tăng
cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Mai đề cập đến một trong những nhóm đối tượng rất cần được thường xuyên
giáo dục pháp luật đó là đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, nhất là đối
với đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam nơi mà theo tác giả có những điều kiện khách quan không thuận lợi như: là địa


5
bàn có nhiều đồi núi, gây khó khăn trong việc quy tụ dân cư, là trở lực lớn đối với

công tác quản lý ngay từ cấp chính quyền cơ sở, là nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít
người sinh sống với sự đa dạng phong tục, tập quán tham gia chi phối, điều chỉnh
quan hệ xã hội, mà nhiều khi các phong tục, tập quán đó có vai trò nổi trội hơn pháp
luật, là trở lực đối với việc đưa pháp luật vào cuộc sống; bên cạnh đó cũng theo tác
giả, những khó khăn về địa lý, về giao thông thì dân trí thấp chính là nguyên nhân
kìm hãm phát triển và khiến mặt bằng kinh tế ngày càng tụt hậu, kéo theo sự tụt hậu
trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống, đặt cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
trước những thách thức và đòi hỏi ở họ sự nỗ lực nhiều khi vượt quá khả năng đáp
ứng [21, tr.3]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến những hạn chế về trình độ, chất
lượng công tác của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã nhất là ở các tỉnh
miền núi phía Bắc là những yếu tố chủ quan cản trở không nhỏ tới sự lớn mạnh của
đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, cản trở không nhỏ đến nhận thức về
nhu cầu hiểu biết pháp luật và khả năng nắm bắt pháp luật của bản thân họ [21, tr.4].
Tham khảo, nghiên cứu Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai giúp tôi
có nhìn nhận rộng hơn về phạm vi nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật trong khu
vực các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, địa phương
mà tôi nghiên cứu xây dựng bản Luận văn tốt nghiệp này. Tuy nhiên, Luận văn trên
chỉ đề cập đến công tác giáo dục pháp luật cho một nhóm đối tượng cụ thể là cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã, mặt khác với phạm vi của một đề tài Luận văn Thạc
sỹ Luật học tác giả không có điều kiện nghiên cứu hết các tỉnh thuộc khu vực miền
núi phía Bắc Việt Nam mà theo tác giả gồm 15 đơn vị hành chính cấp tỉnh được hợp
thành bởi hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc [21, tr.8].
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật đối với sinh viên trong các trường
Đại học không chuyên Luật ở Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn
Thu Thủy - Đại học Luật Hà Nội, năm 2006 [37]. Luận văn của tác giả Nguyễn Thu
Thủy đã nêu lên sự cần thiết của việc giáo dục pháp luật trong các trường đại học
không chuyên luật, coi đây là hoạt động mang lại hiệu quả góp phần hình thành ý
thức sống, làm việc theo pháp luật trong thế hệ sinh viên, giúp cung cấp lượng kiến
thức cơ bản và cần thiết cho sinh viên làm hành trang trong cuộc sống và công tác



6
sau này. Đồng thời, tác giả cũng nêu những khó khăn đối với việc giáo dục pháp luật
trong các trường không chuyên luật ở Việt Nam như: nội dung kết cấu chương trình,
giáo trình, tài liệu nghiên cứu còn nhiều bất cập, đội ngũ giảng viên, phương pháp
giảng dạy, trang thiết bị giảng dạy, thái độ tình cảm của sinh viên và giáo viên đối
với môn học chưa được coi trọng, đã dẫn đến chất lượng giáo dục pháp luật đối với
sinh viên trong các trường không chuyên luật còn thấp…[37, tr.1]. Luận văn cũng đã
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng giáo dục pháp luật trong
các trường đại học không chuyên luật, trên cơ sở đó rút ra những tiêu chí cơ bản để
đánh giá, đề xuất những giải pháp cụ thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật cho sinh viên trong các trường đại học không chuyên luật ở nước ta hiện
nay. Nghiên cứu Luận văn của tác giả Nguyễn Thu Thủy giúp tôi xác định rõ hơn về
sự cần thiết của công tác giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường không
chuyên luật nhất là đối với tỉnh Thái Nguyên – trung tâm giáo dục, đào tạo chuyên
nghiệp lớn thứ ba của toàn quốc sau Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thu Thủy cũng chỉ đề cập
đến phạm vi của hoạt động giáo dục pháp luật và đối với một nhóm đối tượng là
sinh viên các trường không chuyên luật mà chưa đề cập đến công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật đối với các nhóm đối tượng khác nhau.
Ý thức pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở
nước ta hiện nay – Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị Như Quỳnh – Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009 [26]. Luận văn đề cập đến một trong
những vấn đề được Đảng, Nhà nước ta và xã hội rất quan tâm hiện nay đó là vấn đề
về ý thức pháp luật, theo tác giả: ý thức pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của đất nước, từ đó hình thành lối
sống tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật [26, tr.1]. Từ
vai trò quan trọng của ý thức pháp luật, tác giả đã xây dựng cơ sở lý luận về ý thức
pháp luật, đồng thời xác định rõ một trong những phương thức, giải pháp nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho nhân dân là hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật [26, tr.2]. Tác giả cũng đã đánh giá thực trạng hoạt động tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật của nước ta trong thời gian qua, trên cơ sở


7
những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, tác giả đã nêu ra một số giải pháp
hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật, đây là những đóng góp có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn khá cần thiết của luận văn đối với công tác này trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh chủ yếu nhấn mạnh đến
vấn đề ý thức pháp luật và coi tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là phương
thức, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật, do vậy cơ sở lý luận về công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật mới dừng ở góc độ khái quát mà chưa đi sâu phân tích
về vị trí, vai trò, ý nghĩa, đặc điểm…, của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, mặt
khác tác giả sử dụng cụm từ “tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật” là chưa xác
định rõ vai trò, vị trí và những đặc trưng cũng như yêu cầu cụ thể về hình thức,
phương pháp của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở Thành phố
Hà Nội hiện nay – Luận văn Thạc sỹ Luật học của Phạm Kim Dung – Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010 [9]. Luận văn của tác giả Phạm Kim Dung xác
định: để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà
nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những kiến thức về nhà
nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời [9, tr.1]. Theo tác giả, hiện nay ở
nhiều địa phương, vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức không phải là ít và trong
nhiều nguyên nhân đãn đến sự vi phạm đó có một nguyên nhân cơ bản đó là cán bộ,
công chức chưa nắm vững kiến thức về nhà nước và pháp luật. Tác giả cũng đánh
giá khái quát về kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn
của cán bộ, công chức thành phố Hà Nội trong những năm qua, đồng thời chỉ rõ việc
đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục ý thức pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản
lý nhà nước và quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay đang còn là

vấn đề bức xúc, từ đó tác giả cho rằng, cần thiết phải làm cho tất cả cán bộ, công
chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của thành phố Hà Nội khi đã tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ,
áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mà mình quản lý là
một vấn đề hết sức quan trọng [9, tr.2]. Luận văn của tác giả Phạm Kim Dung đã


8
trình bày khá công phu các vấn đề liên quan đến giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức trong cơ quan hành chính sự nghiệp của thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay,
tuy nhiên trong luận văn có một số điểm chưa thống nhất trong việc sử dụng khái
niệm “cơ quan hành chính” và “cơ quan hành chính sự nghiệp”, cụ thể, như tên đề
tài tác giả dùng khái niệm “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành
chính ở thành phố Hà Nội hiện nay” [9, tr.2] và trong các phần nội dung tác giả đề
cập chủ yếu đến đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước,
nhưng cũng tại nhiều phần khác, tác giả lại đề cập đến khái niệm “cơ quan hành
chính sự nghiệp” [9, tr.4], do vậy có thể dẫn đến nhầm lẫn trong xác định đối tượng,
phạm vi nghiên cứu của luận văn. Mặt khác, luận văn trên chỉ nghiên cứu việc giáo
dục pháp luật đối với một nhóm đối tượng là cán bộ, công chức trong phạm vi địa
bàn thành phố Hà Nội với đặc trưng là Thủ đô nên có những đặc điểm riêng so
với các tỉnh, thành, địa phương khác.
Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn – Luận văn Thạc sỹ Luật học của Vũ Bích Ngọc – Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2011 [22]. Luận văn xác định việc giáo dục pháp luật
trong quần chúng nhân dân nói chung và trong cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân
Việt Nam nói riêng là một công tác quan trọng, giáo dục pháp luật là một nội dung
quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong quân đội, giúp cho việc
nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng tình cảm pháp lý, phong cách sống và làm việc
theo pháp luật của quân nhân, đảm bảo thực hiện tốt phương châm quản lý đơn vị
theo điều lệnh quân đội và pháp luật của nhà nước [22, tr.1]. Luận văn của tác giả

Vũ Bích Ngọc cũng đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân nói riêng; nghiên
cứu đặc thù của giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam; từ phân tích,
đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam từ năm
2008 đến năm 2011, tác giả đã đề xuất và luận chứng những giải pháp cơ bản nhằm
góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục pháp luật trong quân đội
nhân dân Việt Nam. Luận văn đã có những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn đối
với công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật đối với cán bộ,


9
chiến sỹ trong quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, tuy nhiên đối tượng của luận
văn chỉ đề cập đến cán bộ, chiến sỹ trong quân đội nhân dân do đó không khái quát
hết được các đặc điểm về đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp của hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các đối tượng khác và toàn thể nhân dân.
Ngoài sáu Luận văn Thạc sỹ Luật học của các tác giả nêu trên, người viết
cũng tham khảo thêm một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công
bố, tuy nhiên, do khuôn khổ Luận văn có hạn nên không thể nêu khái quát nội dung
cơ bản của các công trình nghiên cứu khoa học này.
Các Luận văn nói trên và các công trình do tác giả nghiên cứu, tham khảo đã
nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp
luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ
thống vấn đề này trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Song các công trình nghiên cứu
trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn khá phong phú để giúp tôi có cơ sở để hoàn
thành bản luận văn này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng
như cán bộ, công chức, viên chức, phụ nữ, thanh niên, nông dân, đồng bào dân tộc

thiểu số..., và các tầng lớp nhân dân khác.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn đề lớn, phức tạp, do đó Luận
văn chỉ đề cập công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của Luận văn là đề xuất được những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai
đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn luận giải những vấn đề lý luận về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay; đánh giá
thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh Thái Nguyên và đề xuất


10
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên
địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ngoài ra, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,...
6. Giá trị lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn làm rõ tính đặc thù của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở tỉnh
Thái Nguyên, góp phần nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở
tỉnh Thái Nguyên. Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật cho riêng từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy của Trường Chính
trị tỉnh Thái Nguyên, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thành phố, thị xã

thuộc tỉnh Thái Nguyên; phục vụ việc biên soạn thành đề cương bài giảng của đội
ngũ báo cáo viên pháp luật của tỉnh Thái Nguyên, các cơ sở giáo dục khác và làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật các cấp ở tỉnh Thái Nguyên.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu thành hai chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay; Chương 2: Thực trạng và giải pháp
nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên hiện nay.


11
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật: khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình
thức và phƣơng pháp
1.1.1. Khái niệm “phổ biến, giáo dục pháp luật” và những đặc điểm cơ bản
của nó
Theo Từ điển tiếng Việt [18] thì khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật là
một từ ghép bởi hai từ phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật, theo đó, phổ biến
pháp luật có nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, phổ biến, giáo dục pháp luật
là giới thiệu tinh thần văn bản quy phạm pháp luật cho đối tượng của nó. Theo nghĩa
rộng, phổ biến, giáo dục pháp luật là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên
cả nước, trong các văn bản ở nước ta, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật có nghĩa là: truyền
bá, cung cấp những kiến thức khoa học về pháp luật; những nội dung quy định của pháp
luật tới đối tượng để đối tượng có được những nhận thức đúng đắn, khoa học về pháp
luật từ đó hình thành niềm tin, thái độ, tình cảm pháp luật đúng đắn để thực hiện pháp

luật một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Từ cách hiểu như trên, chúng ta có thể thấy công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành bởi những chủ thể nhất
định. Theo các quy định của pháp luật [25], có thể phân chia các chủ thể đó thành
các nhóm như sau:
+ Nhóm chủ thể là các cơ quan nhà nước, bao gồm: các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm toán
Nhà nước; chính quyền các cấp ở địa phương và cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp
quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và lĩnh vực quản lý, các cơ quan này có các trách nhiệm cụ thể trong phổ biến, giáo
dục pháp luật, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu như ban hành theo
thẩm quyền chương trình, đề án, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật và chỉ đạo,


12
hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý triển khai thực hiện; xác
định nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng nhóm đối
tượng; biên soạn tài liệu và phổ biến kiến thức pháp luật chuyên ngành; bảo đảm
quyền được thông tin về pháp luật của nhân dân; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang
nhân dân thuộc phạm vi quản lý; xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo
viên pháp luật; chỉ đạo các trường, cơ sở dạy nghề thuộc phạm vi quản lý tổ chức
giáo dục pháp luật trong cơ sở giáo dục, cơ sở dạy nghề; bố trí, chuẩn hóa, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp
luật; kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động chuyên
môn của các ngành...
+ Nhóm chủ thể là các tổ chức, gồm: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức

danh tư pháp, các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và gia đình. Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách
nhiệm tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên, đoàn viên của tổ chức
mình; vận động nhân dân chấp hành pháp luật; phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ
chức hữu quan phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; xây dựng, tập huấn, bồi
dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật của tổ chức mình;
vận động tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ hoạt động phổ biến giáo
dục pháp luật; tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phổ biến,
giáo dục pháp luật. Các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp
có trách nhiệm tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; tổ chức phổ
biến giáo dục, pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; kết
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động chuyên môn; tạo điều kiện
cho thành viên của tổ chức, công chức, viên chức, giảng viên, học viên, sinh viên
tham gia hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp luật. Các cơ sở giáo dục
của hệ thống giáo dục quốc dân căn cứ vào nội dung, hình thức giáo dục pháp luật ở


13
từng cấp học và trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân
có trách nhiệm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, bố trí giáo viên dạy môn giáo
dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật, đồng
thời phối hợp với gia đình và xã hội thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật trong các
cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Các thành viên trong gia đình có
trách nhiệm gương mẫu chấp hành pháp luật; ông, bà, cha, mẹ có trách nhiệm giáo
dục và tạo điều kiện cho con, cháu tìm hiểu, học tập pháp luật, rèn luyện ý thức tôn
trọng, chấp hành pháp luật.
+ Đối với các chủ thể là cá nhân, phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định
là trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; của cán
bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân; báo

cáo viên pháp luật; tuyên truyền viên pháp luật và những người được mời tham gia
phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở. Tùy từng vị trí, mỗi cá nhân nêu trên đều có
trách nhiệm nhất định trong phổ biến, giáo dục pháp luật. Các chủ này cần có kiến
thức pháp lý nhất định, có thể là những người được đào tạo chuyên môn về pháp luật
hoặc là những người có thời gian công tác nhất định và có hiểu biết chuyên sâu về
những lĩnh vực pháp luật nào đó; có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; biết tích lũy tư liệu, kiến thức pháp lý, pháp luật hiện hành,
đường lối chính sách của Đảng, kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội, kinh
nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài về lĩnh vực đó; có kiến thức nhất định về
tâm lý học..., đồng thời nắm vững những kỹ năng, phương pháp được vận dụng
trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ hai: phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động nhằm vào những đối tượng
cụ thể. Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là trung tâm của
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vì chỉ khi xác định được đối tượng của phổ
biến, giáo dục pháp luật chúng ta mới xác định các vấn đề khác như chủ thể, nội dung,
hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật một cách phù hợp nhất.
Trước khi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, người làm công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải biết đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp


14
luật là ai, họ cần gì, công việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh vực pháp luật nào và
mình phải quan hệ công tác với họ như thế nào?
Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng, phong phú vì việc thực
hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi công dân, tuy nhiên các đối tượng có đặc điểm
riêng về trình độ học vấn, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp…, do vậy, việc xác định
đúng đối tượng là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật. Trước khi có Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, việc xác định đối tượng phổ
biến, giáo dục pháp luật căn cứ trên cơ sở các văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành kèm theo các chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến,

giáo dục pháp luật, theo đó có một số đối tượng như sau: các tầng lớp nhân dân; cán
bộ, công chức, lực lượng vũ trang nhân dân, thanh thiếu niên; người lao động, người
sử dụng lao động, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ, nông dân…
Thứ ba: phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động nhằm đạt được mục đích
nhất định - đó là giúp nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng, góp phần hình
thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng và nâng cao ý thức tự giác chấp hành
pháp luật của đối tượng.
Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã
hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình, ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh, dù rằng bản
chất của nó rất tốt đẹp, nhưng những quy định pháp luật đó dù tốt đẹp bao nhiêu
chăng nữa mà không được nhân dân biết đến thì vẫn là những trang giấy ngủ yên
không làm rung động không khí. Pháp luật của Nhà nước có thể được một số người
tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu
cầu sản xuất kinh doanh của họ. Những người này luôn theo sát những quy định của
pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số
lượng đối tượng này không phải là nhiều. Trong điều kiện trình độ dân trí chưa cao,
đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, cho nên các đối tượng
nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật, nghĩa là số đông nhân dân lao động trong xã
hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật chính là
phương thức truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định
pháp luật đến với người dân, giúp cho nhân dân hiểu biết, nắm bắt kịp thời mà


15
không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó còn là
phương thức hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân.
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng
vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ cho quyền
và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo công bằng
và dân chủ xã hội. Khi nào người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật

không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi người vẫn tự giác thực hiện. Tạo
lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi phải có sự kết hợp
của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng vai trò quan trọng là phổ biến, giáo dục
pháp luật để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp
dụng pháp luật, tuyên truyền về những mặt thuận lợi và khó khăn phức tạp của việc
thực hiện và áp dụng pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều
chỉnh pháp luật. Pháp luật cũng như mọi hiện tượng xã hội khác trong xã hội bao giờ
cũng có hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thỏa mãn hết, phản ánh được đầy đủ
nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều chỉnh
của pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước
đo, do đó sẽ có một số ít không thõa mãn được. Chính các yếu tố hạn chế và mặt trái
của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy
mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân được tiến hành thường xuyên,
kịp thời và có tính thuyết phục. Phổ biến, giáo dục pháp luật không đơn thuần là
tuyên truyền các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi
phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành
dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ hành vi hợp pháp, lên án các hành vi phi pháp.
Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của
con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của con người
với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao
ý thức tự giác và chấp hành pháp luật của nhân dân.


16
Thứ tư: phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành thông qua những hình
thức và phương pháp nhất định. Có nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
khác nhau, mỗi hình thức có sự phù hợp riêng với một hoặc một số đối tượng nhất

định, do đó khi phổ biến, giáo dục pháp luật thì phải xuất phát từ đối tượng được
phổ biến, giáo dục pháp luật để chọn lựa được hình thức tối ưu. Ngoài ra, hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật để phát huy hiệu quả cần phải phù hợp với từng địa
bàn, điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, do đó khi phổ biến, giáo dục pháp luật cũng
phải xuất phát từ địa bàn, điều kiện kinh tế - xã hội của nơi tiến hành phổ biến, giáo
dục pháp luật. Trong rất nhiều hình thức như vậy khi tiến hành phổ biến, giáo dục
pháp luật cần chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến hoặc két
hợp đan xen các loại hình thức.
Các phương pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật cũng đa dạng, phong
phú. Trong phổ biến, giáo dục pháp luật, các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật
cần lựa chọn được những phương pháp phù hợp đối với từng hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật cụ thể. Điều đó đòi hỏi người làm phổ biến, giáo dục pháp luật
phải nắm vững những kỹ năng nhất định để sử dụng trong các phương pháp như: kỹ
năng nói và viết, khả năng hòa đồng và giao tiếp... Phổ biến, giáo dục pháp luật là
truyền đạt thông tin pháp luật và giải thích pháp luật cho người khác, chính vì thế
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, khả năng hòa đồng và giao tiếp đóng vai trò rất quan
trọng cho sự thành công của người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, sự kết
hợp giữa khả năng nói và viết trong bản thân mỗi người làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để đem lại hiệu quả cao trong công tác này.
Đồng thời, phổ biến, giáo dục pháp luật cần đảo đảm tính liên tục, tính hệ thống.
Bảo đảm tính hệ thống tức là đặt văn bản vào vị trí của nó trong hệ thống pháp luật,
trong ngành luật hoặc lĩnh vực pháp luật có liên quan đến văn bản. Điều đó giúp cho
đối tượng hiểu vấn đề sâu hơn. Bảo đảm tính liên tục nghĩa là theo phương châm
"mưa dầm thấm lâu", việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải được tiến hành liên tục,
có hệ thống, tránh hình thức, làm theo phong trào. Bên cạnh đó, việc sử dụng các
hình thức, phương pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật cần gắn với các yếu tố xã
hội, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, vùng miền nhất định. Pháp luật thực chất là


17

quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội được Nhà nước thừa nhận, do đó nó có mối
liên hệ với các phong tục, tập quán khác. Chính vì thế khi làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật ở từng vùng miền, đối với mỗi dân tộc, rất cần thiết phải có sự
hiểu biết nhất định về các phong tục, tập quán của dân tộc, vùng miền đó, để so
sánh, giải thích, phân biệt và tránh những sai sót, hiểu lầm đáng tiếc về vấn đề
phong tục, tập quán có thể xảy ra để đối tượng vừa tôn trọng pháp luật, vừa hiểu biết
thêm về mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục, tập quán, từ đó hạn chế, bài trừ,
xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu.
Trong phổ biến, giáo dục pháp luật việc vận dụng bất kỳ các hình thức,
phương pháp nào cũng cần mang tính đại chúng, đảm bảo hình thức, phương pháp
đó phù hợp với đối tượng, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ áp dụng, ngôn ngữ đại chúng, hành
văn giản dị, ngắn gọn… Bản thân các quy phạm pháp luật và tính hệ thống của các
ngành luật, lĩnh vực pháp luật rất rộng, nhiều văn bản và khó nắm bắt, nghiên cứu, tìm
hiểu, và cũng có rất nhiều người quan niệm rằng “pháp luật là khô khan”, do vậy bám
sát nội dung này giúp đạt được mục đích là truyền tải thông tin pháp luật đến đối tượng.
Thứ năm: phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động truyền tải thông tin pháp lý
đảm bảo đúng với nội dung, tinh thần của pháp luật thực định, đồng thời luôn đề cao
tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật không
giống với việc tuyên truyền, phổ biến về văn hóa, văn nghệ. Khi tuyên truyền, phổ
biến về văn hóa, văn nghệ, người ta có thể nhân cách hóa, hư cấu thành những hình
tượng nghệ thuật để phục vụ cho mục đích của hoạt động văn nghệ. Phổ biến, giáo
dục pháp luật khác với loại hình phổ biến, giáo dục khác ở chỗ: nội dung được phổ
biến, giáo dục ở đây là pháp luật, là những quy tắc xử sự được Nhà nước ban hành,
có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ đến nội dung và yêu cầu của các quy định đó. Do đó,
phổ biến, giáo dục pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính
khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ thông tin cho người nghe về pháp luật,
truyền đạt cho họ biết được các văn bản QPPL và những điều luật mới được ban
hành mà còn phải giải thích về các văn bản QPPL và các điều luật đó. Một trong
những yêu cầu đã trở thành nguyên tắc trong tuyên truyền, giải thích pháp luật là

phải đảm bảo tính khoa học. Tính khoa học ở đây trước hết đòi hỏi phải có trình độ


18
pháp lý, chẳng hạn hiểu rõ thành phần của quy phạm pháp luật để hiểu được quy
phạm, hiểu nội dung của quan hệ pháp luật để phân biệt rõ quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, từ đó nêu lên được ý nghĩa của quy phạm trong việc điều chỉnh những quan
hệ xã hội.
Phổ biến, giáo dục pháp luật phải đảm bảo, đề cao tính Đảng là vì: pháp luật
và đường lối, chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, pháp luật bao
giờ cũng là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; đường lối,
chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật cũng
chính là việc phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng. Thực hiện không
đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật đều làm tổn hại tới Nhà nước và xã hội, tổn
hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Pháp luật được thực hiện nghiêm minh, chính xác
và đầy đủ thì uy tín lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội càng được khẳng
định. Do đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bao giờ cũng phải đề cao tính
Đảng, sự lơ là, coi thường và không quán triệt đầy đủ tính Đảng sẽ rơi vào chủ quan,
duy ý chí, phiến diện.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một lĩnh vực công tác khó, có tính đặc thù, là
hoạt động có những đặc điểm riêng, có những yêu cầu và đòi hỏi cụ thể đối với
người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nắm bắt những vấn đề cơ bản về
đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật trên đây sẽ giúp cho người làm công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật có cơ sở để tiếp cận, từng bước tham gia và làm tốt
công tác này trọng thực tiễn hoạt động.
1.1.2. Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
- Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật là các tri thức về pháp luật ở các
cấp độ: tri thức về hệ thống pháp luật thực định và tri thức khoa học chuyên sâu.
Căn cứ vào đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật, chúng ta xác định

được những tri thức pháp luật nào là cần thiết cho từng nhóm đối tượng cụ thể dựa
trên cơ sở các đặc điểm của từng nhóm đối tượng. Đối với đại đa số nhân dân, tri
thức về hệ thống pháp luật thực định là hết sức cần thiết, song cả về mặt thực tiễn
chúng ta nhận thấy không thể ôm đồm, truyền tải toàn bộ hệ thống pháp luật được
nhà nước ban hành cho tất cả các đối tượng ở các cấp độ giống nhau với yêu cầu về
nhận thức và nội dung như nhau. Số đông dân chúng, trước hết cần được trang bị


19
kiến thức pháp luật chung về hệ thống chính trị, về nhà nước, những quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân…
Tuy nhiên, đối với các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt thì tùy từng nhóm đối
tượng, việc xác định các mối quan hệ mà nhóm đối tượng thường xuyên chịu sự tác
động bởi các quan hệ pháp luật nhất định có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch
định các nội dung pháp luật cần thiết để tiến hành hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật mà nhất là trong công tác phổ biến pháp luật trực tiếp cho đối tượng, ví dụ: với
các đối tượng là nông dân, đối tượng là thanh niên, đối tượng là phụ nữ, đối tượng là
đồng bào dân tộc thiểu số…, chúng ta cần nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát nhu cầu
của đối tượng để xây dựng nội dung pháp luật cần thiết để tiến hành hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể.
Ngoài những tri thức pháp luật về hệ thống pháp luật thực định thì việc phổ
biến, giáo dục pháp luật về tri thức khoa học pháp lý chuyên sâu cũng là một nội dung
có ý nghĩa hết sức quan trọng nhất là đối với nhóm đối tượng làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật chuyên trách, kiêm nhiệm, các luật gia, luật sư, cán bộ công chức…
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, cũng như trong phổ biến, giáo dục kiến
thức, tri thức nói chung, nội dung tri thức về pháp luật cũng rất đa dạng, phong phú
vì nó bao gồm toàn bộ các quan hệ xã hội được nhà nước điều chỉnh bằng quan hệ
pháp luật, do đó việc truyền tải nội dung pháp luật mặc dù hết sức cần thiết, song
không thể truyền tải một cách máy móc, dập khuôn, giáo điều cho mọi đối tượng
khác nhau trong xã hội mà tính chất, đặc điểm riêng của từng đối tượng sẽ quyết

định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Hình thức hiểu theo nghĩa chung nhất là cái bên ngoài, cái chứa đựng nội
dung, là cách thức tiến hành một việc, một hoạt động nào đó [18].
Theo cách hiểu trên đây về khái niệm hình thức, từ đó có thể thấy rằng, phổ
biến, giáo dục pháp luật chính là cách thức mà thông qua đó, chủ thể phổ biến, giáo
dục pháp luật tiến hành hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, cung cấp tri thức
pháp lý cho các đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm đạt được mục đích
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.


20
Thực tiễn trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chúng ta nhận thấy, có
rất nhiều cách thức để tiến hành hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, các cách
thức này rất phong phú, đa dạng và có tính đến đặc điểm của từng đối tượng, điều
kiện của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật từng địa bàn, khu vực và đồng thời
có một điểm hết sức quan trọng đó là việc người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật có thể vận dụng, kết hợp một cách hài hòa, phù hợp các hình thức phổ
biến, giáo dục pháp luật trong những hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể.
Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn của các cơ quan nhà nước ở Trung ương
trong những năm qua cho thấy, trước khi có Luật phổ biến, giáo dục pháp luật thì
chưa có văn bản QPPL quy định cụ thể các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
mà chủ yếu dựa trên các tài liệu nghiên cứu khoa học, các văn bản không mang tính
quy phạm pháp luật ở góc độ hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ tư pháp và một số cơ
quan cấp Bộ, ngành Trung ương có liên quan. Trên thực tế, việc vận dụng các hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật ở các địa phương được thực hiện đan xen, lồng
ghép với nhau căn cứ vào các hướng dẫn nêu trên có tính đến đặc điểm về đối tượng,
điều kiện của từng địa phương, nhìn chung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
thường được tiến hành thông qua các các hình thức cơ bản như: tuyên truyền
miệng; trên các phương tiện thông tin đại chúng; biên soạn và phát hành tài liệu

pháp luật (sách, đề cương, tờ gấp, bản tin); xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách
pháp luật; sinh hoạt cõu lạc bộ pháp luật; thi tìm hiểu pháp luật; trợ giúp pháp lý;
hòa giải ở cơ sở; xét xử của Tòa án…
- Phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
Theo nghĩa chung nhất, phương pháp được hiểu là cách thức tiến hành để có
hiệu quả cao. Như vậy, trong phổ biến, giáo dục pháp luật, phương pháp có thể hiểu
là cách thức mà các chủ thể làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thực hiện việc
vận dụng các hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật để đạt được mục đích của
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Và cũng giống như các phương pháp trong
hoạt động giáo dục nói chung, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng có nhiều
phương pháp. Quan trọng là ở chỗ, với những nội dung pháp luật cụ thể và đối với
mỗi hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, người làm phổ biến, giáo dục pháp luật có
thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm đạt những hiệu quả xác định cho từng
nhóm đối tượng cụ thể.


21
Việc phân loại các phương pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật có thể dựa
trên những tiêu chí khác nhau và việc phân loại này cũng mang tính tương đối và
mang tính lý luận là chủ yếu, bởi việc vận dụng, kết hợp các phương pháp cần được
thực hiện một cách nhuần nhuyễn trong thực tiễn của hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật của các chủ thể làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên,
chúng ta có thể nhận biết một số phương pháp sau:
+ Theo tiêu chí công cụ, phương tiện trong phổ biến, giáo dục pháp luật, có
phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại. Phương pháp truyền thống là
phương pháp sử dụng các công cụ, phương tiện truyền thống đã được sử dụng trong
hoạt động giáo dục, đào tạo như: dùng bảng, phấn, giấy, bút, thuyết trình, đọc,
ghi…Phương pháp hiện đại là phương pháp có sự kết hợp khoa học với máy móc,
phương tiện hiện đại như máy vi tính, các loại máy chiếu…, với những yêu cầu
riêng về đổi mới phương pháp trong giảng dạy.

+ Theo tiêu chí cách thức tiến hành, chúng ta có nhiều phương pháp được
xem như phương pháp giảng dạy tích cực như: mô hình hóa, trực quan hóa, tạo tình
huống, nêu gương, kết hợp lý luận với thực tiễn, giải thích, kiểm tra, đánh giá…
Như vậy, có thể thấy rằng, phương pháp là yếu tố quan trọng quyết định đến
hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và phải đạt được mục đích của
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã được tiến hành. Các phương pháp mà chủ
thể làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có thể vận dụng rất phong phú và đa
dạng, điểm cốt lõi là ở chỗ, cùng với việc lựa chọn được hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật phù hợp, việc kết hợp một cách khoa học, nhuần nhuyễn các phương
pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ giúp hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Những điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa và xã hội
Trong những năm qua, nhiều văn bản, nghị quyết quan trọng của BCHTƯ
Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V,
VI, VII, VIII, IX, X, XI [10] đã xác định tầm quan trọng và trách nhiệm của các cơ
quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục


×