Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.74 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THẮM

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
BẰNG TRỌNG TÀI VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI – Tháng 2/2013


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến các Thầy giáo,
cô giáo trong Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau Đại học, Khoa
pháp luật Kinh tế, các phòng, ban, thư viện trong và ngoài trường đã tạo
điều kiện cho em trong suốt quá trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo
- PGS.TS Trần Ngọc Dũng đã tận tình động viên, hướng dẫn và giúp đỡ
em hoàn thành luận văn.



Tác giả luận văn

Trần Thị Thắm


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn này là do tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo - PGS.TS Trần
Ngọc Dũng. Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ
ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Thắm


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT


7

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất của trọng tài vụ việc trong giải quyết các

7

tranh chấp thương mại
1.2. Hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng

15

trọng tài vụ việc ở Việt Nam - Quá trình hình thành và phát
triển
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của trọng tài vụ việc và

20

pháp luật trọng tài vụ việc ở Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT

26

TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
VỤ VIỆC TẠI VIỆT NAM
2.1. Quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp thương mại bằng

26


trọng tài vụ việc
2.2. Quy định về thành lập hội đồng trọng tài vụ việc và sự hỗ trợ

36

của Tòa án trong việc thành lập hội đồng trọng tài vụ việc
2.3 Quy định về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc và thi hành
phán quyết của trọng tài vụ việc

44


2.4 Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp thương

50

mại bằng trọng tài vụ việc
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC

59

QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG
MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VỤ VIỆC Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về giải quyết

59

tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc ở Việt Nam
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh


61

chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng Dân sự

HĐTT:

Hội đồng trọng tài

GTGT:

Giá trị gia tăng

LTTTM:

Luật trọng tài thương mại

PLTTTM: Pháp lệnh trọng tài thương mại
TAND:

Tòa án nhân dân


TTTM:

Trọng tài thương mại

TTVV:

Trọng tài vụ việc

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1986, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới.
Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi
tư duy kinh tế có ý nghĩa lớn lao này đã đặt nền móng cho sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế liên tục của nước ta hơn 25 năm qua. Từ khi chúng ta thực hiện
chính sách mở cửa, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 100 nước
trên thế giới, ký kết hàng loạt hiệp định thương mại song phương và đa
phương trong đó tiêu biểu là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định về
buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do
AFTA. Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia tổ chức kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu

(ASEM), thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bối cảnh đó
đặt ra cho Việt Nam cơ hội để phát triển nhưng cũng không ít thách thức mà
chúng ta phải đối mặt, đặc biệt là việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Vì vậy, việc xây dựng các cơ chế tài phán đa dạng, phù hợp với đặc điểm của
hoạt động thương mại và đáp ứng nhu cầu của các bên là vấn đề có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
Khi xảy ra tranh chấp, các bên có thể lựa chọn các phương thức giải
quyết như thương lượng, hoà giải, toà án và trọng tài. Thương lượng hay hoà
giải thành công không có hiệu lực cưỡng chế. Hoà giải Tại toà án mới có hiệu
lực cưỡng chế thi hành. Trên thực tế, Toà án là cơ quan có đủ chức năng để
ban hành phán quyết có tính pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp nói chung.
Song, để phù hợp với đặc tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt
động thương mại, bên cạnh Toà án còn có những phương thức giải quyết
tranh chấp khác có hiệu quả hơn. Một trong những phương thức đó là trọng


2

tài. Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp đã xuất hiện từ
rất sớm và hiện đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài góp phần tích cực vào việc giải quyết
nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp trong hoạt động thương mại. Pháp luật
Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực này đang từng bước được hoàn thiện theo
hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và các cam kết của Nhà nước ta
khi tham gia các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, pháp luật giải quyết các vụ
tranh chấp còn có nhiều quy định chưa rõ ràng, chưa dự liệu được hết các
trường hợp xảy ra trên thực tế, đặc biệt khi các bên lựa chọn trọng tài vụ việc.
Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật trọng tài, đặc biệt là quy định rõ ràng về
trọng tài vụ việc là công việc cấp thiết để các bên có thể tin tưởng và lựa chọn

trọng tài vụ việc trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Để đáp ứng yêu cầu nói trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Luật học với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tiếp tục hoàn
thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài vụ việc nói riêng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là vấn đề có tính thời
sự cao được các doanh nghiệp rất quan tâm. Do vậy, từ trước tới nay có
không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể chia các công trình
nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thành hai
nhóm lớn sau:
- Nhóm các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ Luật học: Ở nhóm này
có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Giải quyết tranh
chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Đào
Văn Hội (Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003),


3

“Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài” của tác giả
Phạm Thị Phương Thủy (Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004), “Hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài và
tòa án ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ góc độ so sánh” của tác giả Nguyễn Thị
Thu Hoài (Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011),
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài thương mại” của tác giả Lê Thị Nhàn (Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011) … Nhìn chung các công trình trên đã
nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài quy chế và

trọng tài vụ việc, nhưng chủ yếu là nghiên cứu hình thức giải quyết các tranh
chấp thương mại bằng trọng tài quy chế mà chưa đi sâu nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến trọng tài vụ việc.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các công trình
nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu được công bố trên các tạp chí như Tạp
chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Luật học… Trong
đó phải kể đến bài viết của tác giả Phan Thông Anh với nhan đề: “Giải quyết
bằng trọng tài adhoc ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, 2011; “Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở
Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại, tạp chí Khoa học pháp lý, 2007; “Thẩm
quyền của hội đồng trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá trình tố tụng
trọng tài”, của tác giả Đào Trí Úc, Tạp chí Kinh tế - Luật, 2010; “Giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của tòa án” của tác giả Bạch Thị
Lệ Thoa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử ngày 11/8/2009… Các bài viết
thuộc nhóm này, ngoài việc nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài quy chế, cũng đã đề cập tới trọng tài vụ việc, nhưng chưa
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc
ở nước ta.


4

Tóm lại, từ khi có Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (2003) đến Luật
Trọng tài Thương mại (2010) ra đời và có hiệu lực đến nay, chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có
hệ thống vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc ở
Việt Nam. Do vậy, đề tài và nội dung của luận văn này hoàn toàn không trùng
lặp về mặt nội dung với các công trình nghiên cứu nêu trên.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc. Tác giả luận văn
đi sâu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc
theo Luật Trọng tài Thương mại (2010), so sánh với pháp luật nước ngoài;
nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc
ở nước ta, đưa ra yêu cầu và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
trọng tài vụ việc, đồng thời nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài vụ việc trên thực tế.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và
pháp luật.
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như:
phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, diễn giải, lịch sử, thống kê, quy
nạp để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
5.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài vụ việc ở Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động


5

của các thiết chế trong việc thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài vụ việc.
5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày một cách có hệ
thống và phân tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định của pháp

luật hiện hành trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
vụ việc để thấy được quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện từng bước
các chế định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc ở nước ta.
Tác giả luận văn cũng trình bày những ưu điểm, thành công của chế
định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc,
đồng thời cũng chỉ ra những nhược điểm, bất cập, hạn chế của các quy định
pháp lý hiện hành giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc.
Từ đó, tác giả luận văn trình bày yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện chế định pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
vụ việc cũng như các giải pháp để thực thi có hiệu quả các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc
trong thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp
luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc, kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý như sau:
- Nghiên cứu vai trò của trọng tài vụ việc với tư cách là phương thức
giải quyết tranh chấp bên cạnh trọng tài quy chế, từ đó chỉ ra được những ưu
điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
vụ việc.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc được quy định trong Luật Trọng tài
Thương mại (2010) có so sánh với pháp luật nước ngoài về trọng tài vụ việc


6

để thấy được những điểm tiến bộ của các quy định pháp luật hiện hành và chỉ
ra những hạn chế cần khắc phục của pháp luật hiện hành về trọng tài vụ việc.
- Trên cơ sở luận cứ khoa học và thực tiễn, tác giả luận văn đưa ra các

yêu cầu và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài vụ việc và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài vụ việc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài vụ việc tại Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam.


7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VỤ VIỆC
TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất của trọng tài vụ việc trong giải quyết
các tranh chấp thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm trọng tài vụ việc
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về thuật ngữ “Trọng tài vụ việc”
(TTVV). TTVV có thể được hiểu là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu
cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi
tranh chấp đó đã được giải quyết. TTVV có nghĩa là trọng tài không nhất thiết
được tiến hành theo quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực. Các bên
không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng tài
thường trực. Họ có thể tự quy định quy tắc tố tụng riêng. Nói cách khác,

TTVV là trọng tài tự tiến hành [13].
Giáo trình Luật Thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội định
nghĩa “TTVV là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm
dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp” [15, tr. 446].
Trọng tài vụ việc (trọng tài Ad-hoc) là loại hình trọng tài không có cơ
quan thường trực, do các bên tranh chấp lập ra để giải quyết vấn đề mà họ yêu
cầu. Trọng tài Ad-hoc không có quy chế hoạt động riêng và khi giải quyết vấn
đề xong thì giải tán [4, tr. 24].
Như vậy, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về TTVV, tuy
nhiên trong khoa học pháp lý, TTVV được xem xét dưới hai góc độ: Là một
hình thức giải quyết tranh chấp (hình thức trọng tài) và là cơ quan giải quyết
tranh chấp (tổ chức trọng tài).


8

* Trọng tài vụ việc với tư cách là hình thức giải quyết tranh chấp:
TTVV được hiểu là hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là chủ thể thứ ba
độc lập với các bên tranh chấp, xem xét và đưa ra phán quyết về vụ việc buộc
các bên tranh chấp phải thi hành. TTVV chỉ được thành lập khi phát sinh
tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp. Cũng
giống như trọng tài thường trực, cơ chế giải quyết tranh chấp của TTVV là sự
kết hợp giữa hai yếu tố: thỏa thuận và tài phán.
Các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng TTVV phải có thỏa thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận của các bên có liên quan đưa
tranh chấp đã hoặc có thể sẽ xảy ra để giải quyết tranh chấp thông qua
phương thức TTVV. Thông qua thỏa thuận TTVV, các bên gián tiếp thỏa
thuận khước từ thẩm quyền xét xử của Tòa án. Như vậy, yếu tố cơ bản nhất
trong phương thức trọng tài phải là yếu tố thỏa thuận. Nếu không có thỏa

thuận trọng tài, sẽ không có hoạt động trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể là
một điều khoản của hợp đồng (điều khoản trọng tài) hay thể hiện trong một
văn bản riêng (hiệp định trọng tài, phụ lục trọng tài...). Quan điểm chung của
giới trọng tài học quốc tế (mà hiện nay đã được cụ thể hóa thành các quy định
trong pháp luật về trọng tài của nhiều quốc gia) là điều khoản trọng tài độc lập
với hợp đồng chính, sự vô hiệu của hợp đồng chính không tự động làm vô
hiệu điều khoản trọng tài.
Cũng giống như Tòa án, việc giải quyết tranh chấp qua trọng tài thường
trực hay trọng tài vụ việc đều mang tính chất tài phán. Tuy nhiên, tính tài
phán trong giải quyết tranh chấp của trọng tài và Tòa án có sự khác biệt cơ
bản là:
Thứ nhất, nếu Tòa án là cơ quan đại diện cho “quyền lực công” nhân
danh Nhà nước ra phán quyết có tính bắt buộc đối với các đương sự thì Trọng
tài là một tổ chức phi Chính phủ, là một “Tòa án tư” nhân danh ý chí của các
bên tranh chấp để giải quyết.


9

Thứ hai, bản án, quyết định của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước
nên đương nhiên được cưỡng chế thi hành, trong khi quyết định trọng tài chỉ
mang tính tài phán khi được Nhà nước hỗ trợ thi hành. “Đặc điểm cơ bản của
cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp hai yếu tố thỏa
thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể
có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Do vậy, vì bất kỳ lý
do gì, nếu một tổ chức trọng tài đưa ra một phán quyết nào đó mà không dựa
trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên thì đó hoàn toàn không phải là một
phán quyết trọng tài theo đúng nghĩa của nó” [9, tr.472].
Như vậy, sự thỏa thuận và tài phán làm nên tính hai mặt của trọng tài.
Chính tính hai mặt này tạo nên tính khác biệt của hình thức giải quyết tranh

chấp bằng con đường trọng tài so với các hình thức giải quyết tranh chấp
khác.
* Trọng tài vụ việc với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp:
TTVV được định nghĩa là: Cơ quan xét xử do các bên đương sự thỏa thuận,
thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các đương sự đó. Thành phần trọng tài
do các bên đương sự thỏa thuận quyết định.
Trọng tài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, không nhân danh quyền
lực nhà nước, tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, phán
quyết trọng tài không đương nhiên được cưỡng chế thi hành nếu không có sự
hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp.
Trọng tài có đội ngũ trọng tài viên không những am hiểu pháp luật mà
còn am hiểu hoạt động kinh doanh. Các trọng tài viên, ngoài việc đáp ứng các
tiêu chuẩn, còn phải công tâm, vô tư, khách quan. Đương sự có thể lựa chọn
trọng tài viên trong hoặc ngoài danh sách của các trung tâm trọng tài để giải
quyết tranh chấp cho mình.
Trọng tài là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trên cơ sở lấy thu bù
chi, không nhận được sự hỗ trợ vật chất ban đầu từ Nhà nước, do vậy đã gặp
rất nhiều khó khăn. Trọng tài cần phải tạo được niềm tin đối với các nhà kinh


10

doanh bằng chính các ưu điểm của mình mà các phương thức giải quyết tranh
chấp khác không có, như: giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, bảo vệ được bí
mật kinh doanh, thủ tục đơn giản, gọn nhẹ. Đặc biệt, với sự ra đời của Pháp
lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 (PLTTTM), sau đó là Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010 (LTTTM), phán quyết của trọng tài trong nước được
cưỡng chế thi hành mà không phải thông qua thủ tục công nhận của Tòa án.
Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của 80 quốc gia trên thế giới cho thấy
hầu hết các quốc gia đều có những đạo luật (Trung Quốc, Singapore, Tháilan, Hoa Kỳ, Anh…) hoặc quyển luật trong các bộ luật tố tụng dân sự (Đức,

Nhật, Pháp) với tên gọi là Luật Trọng tài, không phân biệt tranh chấp dân sự
và thương mại [18].
Ở Việt Nam, pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài hiện nay được
ghi nhận trong LTTTM và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo khoản 7,
Điều 3, LTTTM (2010): “Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp
theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận”. Điều
2, LTTTM cũng giới hạn thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài gồm
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; hoặc tranh chấp
giữa các bên mà ít nhất một bên có hoạt động thương mại; hoặc tranh chấp
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Như vậy,
pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận trọng tài với tư cách là một hình thức, một
cơ quan giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại chứ
không giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng như cách ghi nhận của
pháp luật nhiều quốc gia.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức TTVV là hình
thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của các trọng tài viên, với tư
cách là bên thứ ba độc lập do các bên tranh chấp thỏa thuận lập ra, nhằm
chấm dứt mâu thuẩn, xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên
tranh chấp phải thi hành.
1.1.2. Bản chất của trọng tài vụ việc


11

Bản chất của TTVV được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, TTVV chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và chấm
dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Nếu như Trọng tài thường trực có trụ sở riêng, hoạt động theo quy tắc
định sẵn thì tính chất “vụ việc” hay “lâm thời” của hình thức TTVV thể hiện
ở chỗ Trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để

giải quyết vụ tranh chấp cụ thể giữa các bên. Tổ chức trọng tài này chỉ tồn tại
và hoạt động trong thời gian giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên. Khi giải
quyết xong vụ tranh chấp, Trọng tài tự chấm dứt hoạt động. Đặc trưng này thể
hiện sự linh hoạt, chủ động của các bên khi giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, TTVV không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành (vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của
các bên) và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên lựa chọn hoặc được chỉ định có thể là
người có tên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm
trọng tài nào. Đây cũng chính là ưu điểm lớn của tổ chức trọng tài này vì các
bên có nhiều cơ hội lựa chọn được trọng tài viên có sự am hiểu sâu sắc về lĩnh
vực đang xẩy ra tranh chấp. Từ đó, tạo điều kiện để các bên có thể giải quyết
vụ tranh chấp một cách nhanh chóng mà không tốn nhiều thời gian, tiền của.
Thứ ba, TTVV không có quy tắc tố tụng có sẵn dành riêng cho mình.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp
nên quy tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận
xây dựng. Tuy nhiên, để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư
vào việc xây dựng quy tắc tố tụng, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa
chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, mà thông thường là quy tắc tố
tụng của trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Như vậy, TTVV là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt và mềm
dẻo về phương thức hoạt động nên phù hợp với tranh chấp ít tình tiết phức
tạp, cần giải quyết nhanh chóng. Các bên tranh chấp có kiến thức và hiểu biết


12

pháp luật cũng như có kinh nghiệm tranh tụng. Tuy nhiên, trên thực tế, số
lượng các vụ tranh chấp được giải quyết thông qua hình thức TTVV trong
thời gian qua không nhiều.

1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của trọng tài vụ việc
* Ưu điểm:
Trọng tài vốn phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong thương mại
quốc tế bởi có nhiều tính ưu việt, đáp ứng được nhu cầu của các doanh
nghiệp. Lợi thế đầu tiên khi doanh nghiệp lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp này là thủ tục tố tụng linh hoạt. Đây là một trong những tiêu chí mà các
doanh nghiệp thường quan tâm khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp.
Luật Trọng tài các nước quy định thủ tục tố tụng trọng tài rất đơn giản, chủ
yếu dựa trên thỏa thuận của các bên. So với trọng tài thường trực, trọng tài vụ
việc có một số ưu điểm sau đây:
Ưu điểm cơ bản của hình thức TTVV là quyền tự định đoạt của các bên
rất lớn. Thủ tục giải quyết của TTVV hoàn toàn do các bên tự thỏa thuận cho
riêng họ và các trọng tài viên phải tuân theo. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của
các bên để thực hiện một cách đầy đủ, hiệu quả và tốn nhiều thời gian vì các
bên phải thỏa thuận chi tiết về việc tiến hành quá trình tố tụng.
Bên cạnh đó, việc tiến hành giải quyết tranh chấp thương mại bằng
TTVV có chi phí thấp và thời gian giải quyết nhanh. Với việc lựa chọn hình
thức trọng tài này, các bên sẽ không phải trả thêm các khoản chi phí hành
chính cho các trung tâm trọng tài (thông thường khoản chi phí này không
nhỏ). Ví dụ, theo Quy tắc tố tụng của Tòa án Trọng tài quốc tế ICC, khi nộp
đơn kiện, nguyên đơn phải nộp một khoản phí đăng ký là 2.500 USD và
khoản phí này sẽ không được hoàn lại trong bất kỳ điều kiện nào. Mức phí
hành chính tối đa mà ICC yêu cầu các bên phải nộp có thể lên tới 75.800 USD
(Biểu phí tổn và các chi phí trọng tài của ICC có hiệu lực từ ngày 1/1/1998).
Theo Quy tắc Tố tụng của Viện Trọng tài Stockhoml Thụy Điển, khi nộp đơn


13

kiện, nguyên đơn cũng phải nộp một khoản phí đăng ký là 1.500 Euro và

khoản phí này sẽ không được hoàn lại trong bất kỳ trường hợp nào.
Đối với TTVV quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự
không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài
thường trực. Các bên có thể lựa chọn bất kỳ trọng tài viên nào trong hoặc
ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho các bên lựa chọn được trọng tài viên am hiểu vấn
đề đang tranh chấp, từ đó có thể giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh
chấp.
Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố
tụng giải quyết tranh chấp giữa các bên. Khi lựa chọn TTVV các bên tranh
chấp có thể cùng nhau thỏa thuận xây dựng một quy tắc tố tụng riêng để giải
quyết vụ tranh chấp của họ. Nhưng để rút ngắn thời gian giải quyết tranh
chấp, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn một quy tắc tố tụng của trung tâm
trọng tài nào mà họ cho là phù hợp nhất. Trong khi đó, ở hình thức trọng tài
thường trực, các bên chủ yếu chịu ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của trung tâm
trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Theo ông Trần Hữu Huỳnh - Trưởng Ban pháp chế Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): “Trong thực tế có ba hình thức xây dựng
một quy tắc tố tụng cho TTVV: Thứ nhất, các bên cùng thỏa thuận thành lập
một số quy tắc tố tụng riêng áp dụng cho vụ kiện; Thứ hai, các bên có thể
chọn một quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có của các tổ chức quốc tế (hoặc khu
vực) để áp dụng; Thứ ba, các bên trong trọng tài vụ việc có thể chọn quy tắc
tố tụng của một tổ chức trọng tài khác để áp dụng, mặc dù điều này không có
nghĩa là các bên muốn chọn trọng tài thường trực thay cho trọng tài vụ việc”
[16, tr.276].
Ngoài ra, đối với TTVV, các bên có thể thỏa thuận bỏ qua một số thủ
tục tố tụng không cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết vụ tranh chấp.
* Hạn chế:



14

Bất cứ phương thức giải quyết tranh chấp nào cũng có những ưu điểm
và hạn chế nhất định. Bên cạnh những ưu điểm đã nêu ở trên, so với trọng tài
thường trực, TTVV có một số hạn chế như sau:
Nhược điểm lớn nhất của TTVV là phải phụ thuộc vào thiện chí của
các bên. Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ có nguy cơ bị
trì hoãn. Nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài (HĐTT) bởi
vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.
Trong TTVV, không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng tài và
giám sát các trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến
hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các trọng tài viên.
Cả trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ
giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh
sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thể
giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ
các Tòa án.
Do vậy, chỉ khi có tồn tại một HĐTT và một quy tắc tố tụng cụ thể
được xác lập thì quá trình tố tụng mới có thể tiến hành được suôn sẻ như
trọng tài quy chế trong trường hợp một bên từ chối không tham gia vào quá
trình tố tụng.
Nhìn chung, TTVV là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu
điểm so với trọng tài thường trực cũng như thương lượng, hòa giải và tư pháp.
Vì vậy, trong tương lai, TTVV và trọng tài thường trực sẽ là phương thức giải
quyết tranh chấp cơ bản để giảm gánh nặng xét xử cho Tòa án. Tuy nhiên,
không có một phương thức giải quyết tranh chấp nào hoàn hảo tuyệt đối.
TTVV cũng không thể nằm ngoài điều đó. Vì thế, chúng ta nhìn nhận những
mặt tích cực nhưng cũng không bỏ qua những mặt hạn chế của TTVV để tìm
cách khắc phục và hoàn thiện TTVV. Có thể nói, đối với các hạn chế đã phân
tích ở trên thì sự hỗ trợ của Tòa án đối với TTVV là sự trợ giúp vô cùng cần

thiết.


15

1.2. Hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng
Trọng tài vụ việc ở Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển
1.2.1. Hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài vụ việc ở Việt Nam
Hệ thống pháp luật về TTVV ở Việt Nam được quy định trong các văn
bản pháp luật như: Bộ Luật tố tụng Dân sự (2005), Luật Trọng tài Thương
mại (2010), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Thương mại (2005), Bộ luật
Hàng hải (2005), Luật Bảo vệ môi trường (2005), Luật Chứng khoán (2006),
Luật Chuyển giao công nghệ (2006), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Xây
dựng (2003), Luật Thi hành án Dân sự (2008)... Các Nghị định của Chính phủ
hướng dẫn thi hành luật về TTVV. Các thông tư, chỉ thị của các Bộ hướng
dẫn thi hành luật, nghị định về TTVV.
Các quy định trong các văn bản pháp luật trên quy định về giải quyết
tranh chấp bằng hình thức trọng tài, các bên tranh chấp có thể lựa chọn hình
thức trọng tài thường trực hoặc TTVV để giải quyết các tranh chấp. LTTTM
năm 2010, ngoài các quy định chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
còn có một số quy định riêng cho hình thức trọng tài thường trực và TTVV.
Các văn bản pháp luật này quy định về các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng TTVV.
Trọng tài muốn xem xét tranh chấp có thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài hay không phải căn cứ vào các điều kiện mà pháp luật quy định. Một tranh
chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TTVV khi có hai điều kiện: Một là,
tranh chấp phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài; Hai là, giữa các
bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài. Điều 2, LTTTM (2010) quy
định cụ thể về các trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.

LTTTM cũng quy định cụ thể về hình thức của thỏa thuận trọng tài (Điều 16),
thỏa thuận trọng tài vô hiệu (Điều 18), thỏa thuận trọng tài không thực hiện
được (Điều 6). Ngoài các điều kiện giải quyết tranh chấp bằng TTVV được
quy định trong LTTTM thì trong các luật khác cũng có quy định cho phép


16

Trọng tài giải quyết một số vấn đề, cụ thể: Luật Doanh nghiệp (Điều 170); Bộ
luật Hàng hải (Khoản 2, Điều 4); Luật Đầu tư (Điều 12); Luật Hàng không
Dân dụng Việt Nam (Điều 32, Điều 173) và trong một số luật chuyên ngành
khác.
Thứ hai, quy định về thành lập Hội đồng TTVV và sự hỗ trợ của Tòa
án trong việc thành lập Hội đồng TTVV. Khác với việc thành lập HĐTT tại
các trung tâm trọng tài thì việc thành lập Hội đồng TTVV có một số quy định
riêng được quy định cụ thể trong LTTTM (Điều 30, Điều 39, Điều 41). Sự hỗ
trợ của Tòa án trong việc thành lập Hội đồng TTVV có vai trò rất quan trọng.
Giải quyết tranh chấp bằng TTVV tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các
bên. Nhưng nếu các bên không đưa ra được thỏa thuận thích hợp về việc
thành lập HĐTT thì tố tụng trọng tài cũng không thể thực hiện được. Để khắc
phục tình trạng này, LTTTM quy định các công việc cụ thể mà Tòa án hỗ trợ
để thành lập HĐTT, đó là: sự hỗ trợ của Tòa án trong việc chỉ định trọng tài
viên và Chủ tịch HĐTT (Điều 41), sự hỗ trợ của Tòa án trong việc thay đổi
trọng tài viên (Điều 42).
Thứ ba, quy định về đăng ký phán quyết TTVV và thi hành phán quyết
TTVV. Quy định về đăng ký phán quyết TTVV là một quy định mới trong
LTTTM (2010) và là một quy định bắt buộc nhằm tăng thêm uy tín cho phán
quyết của TTVV thông qua con dấu của Tòa án (Điều 62). Phán quyết của
trọng tài là chung thẩm nên ở Việt Nam phán quyết của trọng tài được thi
hành như các bản án, quyết định của Tòa án (Điều 67). LTTTM (2010) quy

định cụ thể về việc thi hành phán quyết trọng tài đã tạo niềm tin cho các
doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài để giải quyết các tranh chấp.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về trọng tài vụ
việc ở Việt Nam
* Giai đoạn từ 1960 đến trước khi có PLTTTM năm 2003
Lịch sử phát triển của TTTM ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1960 cùng
với sự hình thành của cơ chế hợp đồng kinh tế. Ngay sau khi Nghị định số


17

04/NĐ-TTg ngày 4/1/1960 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm
thời về chế độ hợp đồng kinh tế thì ngày 14/1/1960, Thủ tướng ban hành Nghị
định số 20/NĐ-TTg về việc tổ chức ngành Trọng tài kinh tế. Theo Nghị định
này thì Trọng tài kinh tế được tổ chức ở Trung ương, Khu (Khu Việt Bắc,
Khu tự trị Tây Bắc), Bộ. Sau đó được cải tổ theo cơ cấu: Trọng tài kinh tế
Trung ương, Bộ, Tỉnh, rồi lại cải tổ theo địa giới hành chính là Trọng tài kinh
tế Trung ương, Tỉnh, Huyện (tương đương với cơ cấu tổ chức của Tòa án).
Chức năng của Trọng tài kinh tế nhà nước lúc bấy giờ là quản lý chế độ hợp
đồng kinh tế; thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thực hiện hợp đồng kinh
tế; xét xử các tổ chức kinh tế. Có thể nói Trọng tài kinh tế nhà nước lúc bấy
giờ mang bản chất lưỡng tính (lẫn lộn giữa Tòa án và Trọng tài) nên nó không
phải là hình thức TTTM theo đúng nghĩa (tổ chức phi chính phủ).
Phục vụ cho quan hệ với các nước trong khối XHCN, Uỷ ban Trọng tài
Ngoại thương và Uỷ ban Trọng tài Hàng hải đã được thành lập vào năm 1963
và 1964. Để giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp nhà nước với các
thực thể XHCN khác, một hệ thống “trọng tài kinh tế”, theo mô hình pháp
luật kinh tế của Liên Xô đã được thành lập từ quận, huyện, tỉnh, thành phố
đến trung ương. Tên gọi của loại hình này có thể gây nhầm lẫn vì trên thực tế
thì “trọng tài kinh tế” không thực sự là trọng tài. Đó là một loại cơ quan hành

chính nhà nước để giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các doanh nghiệp
nhà nước. Hệ thống “trọng tài kinh tế” được huỷ bỏ vào năm 1994 và một
nhánh mới trong hệ thống Toà án Nhân dân với tên gọi Toà Kinh tế được
thành lập ở cấp tỉnh và cấp trung ương để giải quyết các “tranh chấp kinh tế”
là tranh chấp giữa các doanh nhân nhằm phân biệt với các tranh chấp dân sự
giữa các cá nhân. Ngày 5/9/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số
116/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của các tổ chức trọng tài, cho phép thành
lập các “Trung tâm trọng tài kinh tế”. Đây là tín hiệu đầu tiên nhằm thừa nhận
loại hình trọng tài theo ý nghĩa đã được thừa nhận trong bản án của Toà án
Sài Gòn trước đây [6].


18

Đối với tổ chức trọng tài được thành lập theo Nghị định số 116/CP, cơ
chế thi hành quyết định trọng tài cũng không được đề cập đến. Thậm chí, một
số quy định của Nghị định đã để lại hậu quả xấu, trái hẳn với nguyên tắc giải
quyết của Trọng tài. Điều 31 của Nghị định số 116/CP quy định “Trong
trường hợp quyết định trọng tài không được một bên chấp hành thì bên kia có
quyền yêu cầu Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế”. Quy định này đã phá bỏ nguyên tắc giải quyết của Trọng
tài là quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm, làm cho pháp luật trọng tài
của Việt Nam hoàn toàn khác biệt với pháp luật trọng tài của các nước khác,
đồng thời làm triệt tiêu tính ưu việt của phương thức trọng tài là tính chung
thẩm [7]. Trọng tài vốn được các bên ưu tiên lựa chọn bởi thủ tục đơn giản,
linh hoạt, thời gian ngắn. Trong khi đó, Nghị định số 116/CP đã đi ngược lại
nguyên tắc này, gây tốn kém thêm chi phí về thời gian và tiền bạc của các
bên.
Thực tiễn pháp lý của hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận
TTVV như là một hình thức không thể thiếu bên cạnh trọng tài quy chế. Xuất

phát từ những ưu điểm như trên, hình thức trọng tài này được nhiều nhà kinh
doanh ưa chuộng. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong giai đoạn này các văn bản
pháp luật về trọng tài mới chỉ quy định cụ thể về trọng tài thường trực mà
chưa có quy định về việc áp dụng hình thức TTVV. Mặc dù có một số văn
bản pháp luật thừa nhận quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài do các bên thành lập như tại Điều 4, Điều 5 Bộ luật Hàng hải, Điều
122 Nghị định số 124/2000/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam … nhưng chưa có quy định cụ thể về việc áp dụng hình
thức trọng tài này như thế nào trên thực tế. Đây có thể coi là một hạn chế rất
lớn trong lĩnh vực pháp luật trọng tài ở nước ta giai đoạn này [11, tr.61].
* Giai đoạn từ khi có PLTTTM năm 2003 đến nay
Ngày 25/2/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại (có hiệu lực từ ngày 1/7/2003) khắc phục được những


19

hạn chế trên. Sự ra đời của PLTTTM (2003) đã đánh dấu một bước tiến mới
trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam, đáp
ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồng
doanh nghiệp. TTVV lần đầu tiên được quy định tại PLTTTM một cách cụ
thể, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị của
phán quyết và cơ chế bảo đảm thi hành quyết định của TTVV. Trước khi ban
hành PLTTTM, hình thức TTVV mới chỉ được ghi nhận là một phương thức
giải quyết tranh chấp mà chưa có bất kỳ quy định nào về cơ chế giải quyết
tranh chấp bằng TTVV. Bởi vậy, pháp luật về TTVV ở Việt Nam suốt thời
gian dài vẫn “dậm chân tại chỗ”, chỉ đến khi ban hành PLTTTM thì “diện
mạo” của TTVV ở Việt Nam mới được khắc họa rõ nét [5, tr. 448].
Cũng giống như quy định của các nước có hệ thống pháp luật trọng tài
hoàn thiện, Việt Nam thừa nhận hai hình thức trọng tài: trọng tài vụ việc

(adhoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế). Sự thừa nhận hai hình
thức trọng tài là điểm đổi mới đáng kể trong nội dung của pháp luật về trọng
tài. Trước ngày 01/7/2003, ở nước ta chỉ thừa nhận một hình thức trọng tài
duy nhất là trọng tài thường trực. Đây là lần đầu tiên hình thức TTVV được
thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp luật quan trọng áp dụng giải
quyết tranh chấp trong quan hệ kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế quốc tế.
Quy định tại Điều 19, PLTTTM tạo điều kiện cho các bên tranh chấp toàn
quyền tự do lựa chọn cho mình những người có hiểu biết pháp luật và chuyên
môn, có uy tín tham gia giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, PLTTTM về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ
quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài như: quy định
về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành trọng tài viên, về
TTVV, mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữa
Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể, như: hỗ trợ thi hành
thoả thuận trọng tài, chỉ định trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm
quyền của HĐTT, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu


×