Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.8 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN QUỲNH THƢƠNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:

60.58.0107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ TRANH CHẤP TRONG
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ........................................................................................................... 4
1.1. Tổng quan về thƣơng mại điện tử………………………………………...…………........4
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thương mại điện tử…………………………...……………...…4
1.1.2. Các loại giao dịch thương mại điện tử…………………..………………………………..7
1.2. Tổng quan về tranh chấp trong thƣơng mại điện tử………...……………………........11


1.2.1. Khái niệm, phân loại tranh chấp trong thương mại điện tử………...………………...….11
1.2.2. Vai trò của pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử……...………...19
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ Ở VIỆT NAM ........................................................................................................................ 21
2.1. Hệ thống quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam……………………………………………….......……………....…………………….....21
2.1.1. Các văn kiện quốc tế………………………………………...…………………………..21
2.1.2. Hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử…........22
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam……...……..23
2.2.1. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử………………..………...23
2.2.2. Thực trạng giải quyết các loại tranh chấp phổ biến trong thương mại điện tử……..……30
CHƢƠNG 3
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI VÀ
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ............................................................... 52
3.1. Giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử trên thế giới…………...………........52
3.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử của Hoa Kỳ……..………….….52
3.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của một số quốc gia Châu Á…………...…………………57
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại ở
Việt Nam…………………………………………………………………...……………….…62
3.2.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử ở Việt
Nam……………………………………………………………………..……………….…….62


3.2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong thương mại điện tử……………………………………...………………………….65
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 70
PHỤ LỤC ............................................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...85



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

BVNTD

: Bảo vệ người tiêu dùng

CNTT

: Công nghệ thông tin

ICANN

: Tổ chức quản lý tên miền quốc tế

OECD

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

SHCN


: Sở hữu công nghiệp

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TMĐT

: Thương mại điện tử

TTTM

: Trọng tài thương mại

UDRP

: Chính sách giải quyết tranh chấp tên miền cao cấp của ICANN

UETA

: Luật Thống nhất về giao dịch điện tử của Hoa Kỳ UETA

UNCITRAL : Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc
VIAC

: Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

VNNIC

: Trung tâm Internet Việt Nam


WIPO

: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thời đại của chúng ta là thời đại đặc trưng bởi sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin. Sự phát triển của mạng Internet đã kéo theo sự ra đời và phát triển của
hình thức thương mại mới - thương mại điện tử (TMĐT) với các giao dịch mua bán, các
hoạt động chuyển tiền v.v được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác cao. Sự
tiện dụng này đã khiến người tiêu dùng ngày càng có xu hướng mua hàng trực tuyến để
có thể mua được nhiều loại hàng hóa cùng lúc, lại vừa tiết kiệm được thời gian, chi phí.
TMĐT có nhiều điểm khác so với thương mại truyền thống. Do đó, trong TMĐT,
các tranh chấp thương mại xảy ra đa dạng và phức tạp hơn trong thương mại truyền
thống. Tranh chấp trong TMĐT không chỉ xảy ra trong quá trình giao kết và thực hiện
hợp đồng TMĐT mà còn có thể xuất hiện trong quá trình thanh toán bằng hệ thống
thanh toán điện tử, tranh chấp về tên miền - địa chỉ website của các công ty, doanh
nghiệp kinh doanh bằng hình thức TMĐT hay tranh chấp liên quan tới bảo vệ thông tin
người tiêu dùng khi mua hàng qua các phương tiện điện tử v.v. Thực tế giải quyết các
tranh chấp trên cho thấy, việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại thông
thường vào giải quyết tranh chấp TMĐT hiện nay gặp nhiều khó khăn, bất cập như
vấn đề thời gian giải quyết tranh chấp, xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết

v.v. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và doanh nghiệp, khuyến khích người
sử dụng Internet tham gia vào khi tham gia vào hình thức kinh doanh mới mẻ và
nhiều thuận lợi này, pháp luật Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại hiện nay để có thể áp dụng hiệu quả vào giải quyết tranh chấp phát sinh
trong TMĐT. Với lý do này, tôi đã chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là: “Giải
quyết tranh chấp trong thương mại điện tử ở Việt Nam” nhằm tìm hiểu một cách
toàn diện các cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong TMĐT ở Việt Nam
hiện nay, tìm ra những điểm còn hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Song song với sự phát triển mạnh mẽ và chiếu ưu thế của mô hình kinh doanh
TMĐT, các tranh chấp đang phát sinh ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Chính vì vậy,
nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp TMĐT luôn là yêu cầu đặt ra đối
với mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Cho đến nay, đã có một số đề án,
công trình, bài viết bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này. Dưới góc độ kinh tế, TS.Nguyễn
Văn Thoan đã có công trình nghiên cứu “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong


2

điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” năm 2010. Dưới góc độ pháp lý, nhiều
luận văn thạc sĩ đã đi vào tìm hiểu một số nội dung pháp lý về TMĐT như: Luận văn
thạc sĩ của Dương Thị Mai Ngọc về đề tài “Pháp luật về TMĐT ở Việt Nam” năm 2009;
luận văn thạc sĩ của Phí Mạnh Cường về đề tài “Một số vấn đề pháp lý về chữ ký điện tử
trong TMĐT” năm 2006; luận văn thạc sĩ của Phạm Vân Anh về đề tài “Hợp đồng
TMĐT” năm 2012 v.v. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một đề tài triển khai đi sâu vào tìm
hiểu thực trạng tranh chấp phát sinh trong TMĐT và pháp luật về giải quyết tranh chấp
trong TMĐT - một trong những nội dung pháp lý quan trọng của TMĐT nhằm tìm hiểu
những hạn chế khi áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại, dân sự truyền
thống vào giải quyết các tranh chấp phát sinh trong TMĐT.

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực trạng giải quyết tranh chấp TMĐT ở Việt Nam. Từ đó, trên cơ sở thực trạng pháp
luật hiện hành ở nước ta để đưa ra những giải pháp về mặt pháp lý nhằm nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn
là:
Một là, xác định vấn đề lý luận cơ bản về TMĐT và tranh chấp trong TMĐT
như: khái niệm, đặc điểm TMĐT; khái niệm tranh chấp trong TMĐT, phân loại các
tranh chấp trong TMĐT.
Hai là, phân tích các nội dung cơ bản của thực trạng giải quyết tranh chấp trong
TMĐT ở Việt Nam như: tranh chấp trong giao kết và thực hiện hợp đồng TMĐT; tranh
chấp về tên miền; tranh chấp về SHTT trong TMĐT; tranh chấp liên quan đến bảo vệ
thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong TMĐT.
Ba là, trên cơ sở thực trạng pháp luật, xác định các yêu cầu và phương hướng
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
TMĐT và giải quyết tranh chấp phát sinh trong TMĐT là vấn đề nghiên cứu mới
tại Việt Nam. Với đề tài “Giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam”, phạm vi
nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào những tranh chấp chủ yếu phát sinh trong
hoạt động TMĐT ở Việt Nam hiện nay bao gồm: tranh chấp phát sinh trong quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng TMĐT, tranh chấp về tên miền, tranh chấp về SHTT và
tranh chấp liên quan tới bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong TMĐT; vấn
đề giải quyết những tranh chấp này dưới góc độ quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Trên cơ sở đó, luận văn đánh giá ưu điểm, hạn chế trong quy định pháp luật và đưa ra


3

phương hướng đề hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt
Nam hiện nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả
đã sử dụng các phương pháp: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp cơ bản
khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu v.v.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã trình bày khoa học và có hệ thống những vấn đề lý luận về
TMĐT và tranh chấp trong TMĐT. Trong đó, luận văn đã trình bày rõ ràng khái niệm,
đặc điểm của TMĐT từ nhiều góc độ quan niệm của các tổ chức trên thế giới như: khái
niệm theo Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT, Ủy ban Châu Âu, Tổ chức thương mại
thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời,
giới thiệu tổng quan về tranh chấp TMĐT bao gồm khái niệm, phân loại tranh chấp, vai
trò của pháp luật giải quyết tranh chấp trong TMĐT.
Thứ hai, luận văn là công trình đầu tiên phân tích, đánh giá tổng quan và toàn
diện thực trạng về giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam thông qua việc trình
bày, đánh giá hệ thống quy định pháp luật và thực tiễn tranh chấp TMĐT.
Thứ ba, luận văn trình bày cơ chế giải quyết tranh chấp trong TMĐT của một số
tổ chức và quốc gia tiên tiến trên thế giới; trên cơ sở đó, xác định được các yêu cầu khoa
học cho việc hoàn thiện pháp luật và đề xuất phương hướng cho việc hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về TMĐT và tranh chấp trong TMĐT.
Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp trong
TMĐT ở Việt Nam.



4

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ TRANH CHẤP
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Tổng quan về thƣơng mại điện tử
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thương mại điện tử
1.1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
TMĐT được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, như “thương mại điện tử”
(electronic commerce), “thương mại trực tuyến” (online trade), “thương mại không giấy
tờ” (paperless commerce) hoặc “kinh doanh điện tử” (electronic business). Tuy nhiên
TMĐT vẫn là tên gọi phổ biến nhất và được dùng thống nhất trong các văn bản hay
công trình nghiên cứu của các tổ chức hay các nhà nghiên cứu.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về TMĐT.
Theo Luật mẫu của Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc (tên
viết tắt tiếng anh là UNCITRAL) về TMĐT năm 1996, TMĐT được hiểu là việc sử
dụng “thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động
thương mại” (Điều 1) còn “Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi tiếp nhận
hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự, bao gồm,
nhưng không hạn chế ở, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo
hoặc fax.”[8]
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT như sau: TMĐT được hiểu là việc
thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và
truyền số liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi
trong đó có hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận
các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận
đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng,
tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng [53].
Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT và Ủy ban Châu Âu đưa ra khái niệm

TMĐT theo nghĩa rộng, theo đó, TMĐT có thể được hiểu là toàn bộ các giao dịch mang
tính thương mại được các bên tham gia thực hiện thông qua các phương tiện điện tử từ
điện thoại, telex, facimile, hệ thống thanh toán và chuyển tiền điện tử v.v tới các máy
tính kết nối với nhau trong một mạng lưới kín hay một mạng lưới mở như Internet.
Còn theo nghĩa hẹp TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực
hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện


5

thoại, fax, telex v.v. Đưa ra khái niệm theo xu hướng này có một số tổ chức quốc tế như:
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
[36].
Theo WTO, TMĐT bao gồm việc sản xuất, phân phối, marketing, mua bán và
thanh toán trên mạng Intenet nhưng được giao nhận một cách hữu hình như truyền
thống hoặc giao nhận dưới dạng số hóa thông qua mạng Internet.
Theo OECD, “TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa
trên việc xử lý và truyền đi các dữ liệu đã được số hóa thông qua các mạng mở (như
Internet) hoặc các mạng đóng có cổng thông với mạng mở như AOL)”.
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì TMĐT gồm tất cả các hoạt động mang
tính thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc điện tử từ
điện thoại, telex, fax, hệ thống thanh toán và chuyển tiền điện tử, Internet v.v. Còn hiểu
theo nghĩa hẹp nhất thì TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên
mạng máy tính mở như Internet. Tuy nhiên, ngày nay do Internet được sử dụng phổ biến
trong TMĐT nên nói đến TMĐT người ta thường nói đến hoạt động thương mại qua
mạng Internet. Trên thực tế cũng chính các hoạt động thương mại thông qua Internet đã
làm phát sinh thuật ngữ “thương mại điện tử”.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm về TMĐT. Luật Giao dịch điện tử
năm 2005 chỉ đưa ra khái niệm về giao dịch điện tử, theo đó, giao dịch điện tử là “giao
dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử” (khoản 4 Điều 6), phương tiện điện tử ở

đây là phương tiện hoạt động trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền
dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự (khoản 4 Điều 10). Qua
khái niệm này có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Luật Giao dịch điện tử rất rộng, bao
gồm nhiều lĩnh vực, không chỉ trong thương mại mà còn cả trong lĩnh vực dân sự, hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử
So với các hoạt động thương mại truyền thống, TMĐT có một số đặc điểm khác
biệt cơ bản sau:
Thứ nhất, về hình thức: TMĐT được thực hiện qua các phương tiện điện tử có
kết nối mạng viễn thông. Nếu như trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp
gỡ nhau trực tiếp để tiến hành đàm phán, giao dịch và đi đến ký kết hợp đồng; các
phương tiện điện tử như fax, telex, v.v chỉ được sử dụng để chuyển tải thông tin một
cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch như trao đổi số liệu kinh doanh
v.v. Còn trong TMĐT, nhờ việc sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối mạng viễn


6

thông, chủ yếu là Internet, các bên tiến hành giao dịch mà không cần tiếp xúc trực tiếp
với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Các giao dịch đều được thực hiện
trong “môi trường điện tử” như ký hợp đồng điện tử, chuyển tiền, hóa đơn, gửi báo cáo
và vận đơn v.v.
Thứ hai, về phạm vi hoạt động: Thị trường trong TMĐT là thị trường phi biên
giới. Trong TMĐT, các cá nhân từ tất cả các quốc gia trên khắp toàn cầu không cần di
chuyển đến bất kỳ địa điểm nào mà có thể thực hiện việc trao đổi thông tin thông qua
mạng máy tính toàn cầu. Do vậy, khái niệm biên giới không còn trong TMĐT.
Thứ ba, về chủ thể tham gia: Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham
gia của ít nhất ba chủ thể, bên cạnh các bên của giao dịch còn vai trò không thể thiếu của
bên thứ ba là các cơ quan chứng thực, các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Các chủ thể này
không phải chủ thể của hợp đồng TMĐT, họ không tham gia vào quá trình đàm phán,

giao kết hay thực hiện hợp đồng mà là những người hỗ trợ, tạo môi trường cho các giao
dịch TMĐT được thực hiện thông qua việc chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên
tham gia giao dịch, đồng thời xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch
TMĐT.
Thứ tư, về thời gian giao dịch: Các bên tham gia hoạt động TMĐT có thể tiến
hành các giao dịch suốt 24 giờ 7 ngày trong vòng 365 ngày liên tục ở bất cứ nơi nào có
mạng viễn thông và có các phương tiện điện tử kết nối với các mạng này.
Thứ năm, trong TMĐT, hệ thống thông tin chính là thị trường: Trong TMĐT, các
bên không phải gặp gỡ nhau trực tiếp mà vẫn có thể tiến hành đàm phán, ký kết hợp
đồng. Các bên có thể truy cập vào hệ thống thông tin và từ đó tiến hành đàm phán ký kết
hợp đồng.
Thứ sáu, TMĐT có tốc độ nhanh. Nhờ áp dụng các phương tiện điện tử như máy
tính xử lý dữ liệu nhanh hơn, tốc độ đường truyền ngày càng nhanh cho phép truyền,
gửi, nhận các thông điệp dữ liệu nhanh chóng trong một thời gian rất ngắn nên các bước
trong quá trình giao dịch đều được tiến hành nhanh hơn. TMĐT đã đạt tốc độ nhanh
nhất trong các phương thức giao dịch thương mại.
Thứ bảy, về tính rủi ro: TMĐT mang tính rủi ro cao hơn so với thương mại
truyền thống bởi trong môi trường ảo của TMĐT, việc xác định các yếu tố liên quan đến
hợp đồng như địa điểm giao kết hợp đồng, xác định chất lượng hàng hóa, vấn đề thanh
toán và giao nhận hàng hóa sẽ rất khó khăn.
Thứ tám, TMĐT yêu cầu trình độ nhất định về ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lý và kinh doanh. Để triển khai TMĐT, cần có hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin
phát triển đến một trình độ nhất định có khả năng liên kết, chia sẻ thông tin giữa doanh


7

nghiệp, nhà cung cấp, nhà phân phối, khách hàng để có thể cho phép các chủ thể tham
gia tương tác, giao dịch với nhau qua các hệ thống thông tin. Ngoài ra, TMĐT cũng đặt
ra yêu cầu cần phải có một đội ngũ cán bộ, chuyên gia thành thạo về công nghệ, có kiến

thức, kỹ năng về thương mại, ngoại ngữ và pháp lý.
1.1.2. Các loại giao dịch thương mại điện tử
1.1.2.1. Hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng được hiểu là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng điện tử cũng là một dạng của hợp đồng
nhưng có yếu tố điện tử. Hợp đồng điện tử (electronic contracts) là một loại giao dịch
điện tử.
Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL năm 1996 không định nghĩa thế nào là hợp
đồng điện tử mà quy định rằng một hợp đồng có thể được hình thành bằng cách trao đổi
thông điệp dữ liệu và khi một thông điệp dữ liệu được sử dụng để hình thành hợp đồng
thì giá trị pháp lý của hợp đồng đó không thể bị phủ nhận. Khoản 1 Điều 11 Luật mẫu
về TMĐT năm 1996 quy định: “Trong khuôn khổ hình thành hợp đồng, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác, một chào hàng và chấp nhận một chào hàng được phép thể
hiện bằng phương tiện các thông điệp dữ liệu. Khi một thông điệp dữ liệu được sử dụng
trong việc hình thành một hợp đồng thì giá trị và hiệu lực thi hành của hợp đồng đó
không thể bị phủ nhận chỉ với lý do rằng một thông điệp dữ liệu đã được dùng vào mục
đích ấy.”[8] Như vậy, theo quy định của Luật mẫu về TMĐT, hợp đồng điện tử được
hiểu là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng những phương tiện truyền các
thông điệp dữ liệu.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, hầu hết các nước cũng không đưa ra định
nghĩa về hợp đồng điện tử mà chỉ thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử. Ví dụ
như Luật Thống nhất về giao dịch điện tử của Hoa Kỳ (UETA) không đưa ra định nghĩa
về hợp đồng điện tử mà chỉ đề cập đến cách thức hình thành một hợp đồng có hiệu lực:
“Một hợp đồng không mất đi hiệu lực pháp lý chỉ vì nó được hình thành bằng một bản
ghi điện tử”, trong đó, “bản ghi điện tử” được hiểu là nơi thông tin được tạo ra, được gửi
đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử (Điều 7 của UETA). Đồng thời,
Điều 14 của UETA quy định rõ thêm về việc ký kết hợp đồng điện tử, theo đó, “một hợp
đồng điện tử có thể được hình thành giữa các bên và hệ thống thông tin của đối tác,
không cần có sự can thiệp của con người vào các giao dịch tự động đó” [36].
Như vậy, yếu tố điện tử của hợp đồng điện tử được thể hiện ở chỗ hợp đồng được

thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử mà không phải


8

dưới các hình thức thông thường như văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể. Phương tiện
điện tử là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa hợp đồng điện tử với hợp đồng thông
thường.
Luật mẫu về TMĐT cũng như pháp luật TMĐT của hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều không phân biệt giữa hợp đồng điện tử có tính thương mại với hợp đồng điện tử
không có tính thương mại.Tuy nhiên có thể hiểu hợp đồng TMĐT là một dạng hợp đồng
điện tử được ứng dụng trong lĩnh vực thương mại. Hay nói cách khác, hợp đồng TMĐT
là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện
tử nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Là một dạng của hợp đồng, hợp đồng TMĐT cũng mang những đặc điểm như
mọi hợp đồng truyền thống khác như: tham gia vào hợp đồng điện tử có ít nhất hai bên
có nhu cầu giao kết hợp đồng; nội dung hợp đồng điện tử rất đa dạng (có thể là hợp
đồng mua bán, hợp đồng vay mượn, hợp đồng vận chuyển v.v); khi ký kết hợp đồng
điện tử, các bên không được vi phạm các điều cấm của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh
những đặc điểm chung, hợp đồng TMĐT có những nét đặc trưng riêng sau đây so với
hợp đồng thông thường và hợp đồng điện tử không mang tính thương mại:
* Về cách thức ký kết và công cụ để thực hiện hợp đồng điện tử: Đặc điểm nổi
bật nhất của hợp đồng điện tử là cách thức ký kết và công cụ để thực hiện. Khác với việc
giao kết hợp đồng truyền thống, hợp đồng điện tử được giao kết gián tiếp thông qua
phương tiện điện tử. Hợp đồng điện tử, được ký kết và được tạo lập bởi các thông điệp
dữ liệu trên một môi trường “ảo”. Để hiển thị các nội dung của hợp đồng điện tử cần có
các thiết bị điện và điện tử ví dụ như máy tính, điện thoại di động, hệ thống mạng, hệ
thống điện ổn định.
* Về hình thức hợp đồng TMĐT: Hợp đồng điện tử được thiết lập dưới dạng các
thông điệp dữ liệu, được coi là là một dạng đặc thù của hình thức văn bản do các bên

soạn thảo, gửi cho nhau để thể hiện nội dung của các giao dịch thương mại.
* Về nội dung của hợp đồng TMĐT: Giống như hợp đồng thương mại truyền
thống, nội dung của hợp đồng TMĐT bao gồm các điều khoản thỏa thuận giữa các chủ
thể, thường bao gồm các nội dung chủ yếu như: đối tượng của hợp đồng, số lượng, chất
lượng, giá, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm thực hiện hợp đồng v.v. Tuy
nhiên, do được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu điện tử và trên môi trường mạng
nên nội dung của hợp đồng TMĐT thường phức tạp hơn hợp đồng truyền thống:
- Ngoài địa chỉ pháp lý thông thường, hợp đồng TMĐT còn có địa chỉ e-mail, địa
chỉ website, địa chỉ xác đinh nơi, ngày, giờ gửi v.v, những nội dung này có ý nghĩa quan
trọng để xác định tính hiện hữu, sự tồn tại của các bên giao kết hợp đồng.


9

- Hợp đồng TMĐT còn có các quy định về quyền truy cập, cải chính thông tin
điện tử như: việc thu hồi hay hủy một đề nghị giao kết hợp đồng trên mạng v.v.
- Chữ ký trong hợp đồng TMĐT là chữ ký điện tử. Trong hợp đồng, chữ ký là
phương tiện được sử dụng trong hợp đồng nhằm xác nhận người đã tham gia ký kết hợp
đồng cũng như thể hiện ý chí chấp thuận của chủ thế ký kết với những thỏa thuận, cam
kết đã được đưa ra trong hợp đồng đó. Chữ ký được sử dụng trong TMĐT là chữ ký
điện tử. Đây là thuật ngữ kỹ thuật được sử dụng để chỉ các phương thức khác nhau mà
một cá nhân, đơn vị có thể sử dụng để “ký tên” vào một thông điệp dữ liệu điện tử nhằm
thể hiện sự chấp thuận và xác nhận tính nguyên bản của nội dung dữ liệu đó. Chữ ký
điện tử được tạo lập dưới các dạng như từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức
khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ
liệu.
- Thanh toán hợp đồng TMĐT thường được thông qua các phương tiện điện tử.
Hợp đồng TMĐT có thể đƣợc phân chia thành bốn loại sau:
* Hợp đồng truyền thống được đưa lên web: một số hợp đồng truyền thống đã
được sử dụng thường xuyên và chuẩn hóa về nội dung, do một bên soạn thảo và đưa lên

website để các bên tham gia ký kết. Các hợp đồng được đưa toàn bộ nội dung lên web
và phía dưới thường có nút “Đồng ý” hoặc “Không đồng ý” để các bên tham gia lựa
chọn và xác nhận sự đồng ý với các điều khoản của hợp đồng.
* Hợp đồng hình thành qua giao dịch tự động: đây là hình thức hợp đồng điện tử
được sử dụng phổ biến trên các website TMĐT bán lẻ. Trong hình thức này, người mua
tiến hành các bước đặt hàng tuần tự trên website của người bán theo quy trình đã được
tự động hóa. Quá trình này thông thường gồm các bước từ tìm kiếm sản phẩm, lựa chọn,
đặt hàng, tính giá, chọn hình thức giao hàng, thanh toán, xác nhận hợp đồng v.v. Khác
với hợp đồng truyền thống, nội dung hợp đồng ở hình thức này không được soạn sẵn mà
được hình thành trong giao dịch tự động. Máy tính tự tổng hợp nội dung và xử lý trong
quá trình giao dịch dựa trên các thông tin do người mua nhập vào. Cuối quá trình giao
dịch, hợp đồng điện tử được tổng hợp và hiển thị để người mua xác nhận sự đồng ý với
các nội dung của hợp đồng. Sau đó, người bán sẽ được thông báo về hợp đồng và gửi
xác nhận đối với hợp đồng đến người mua qua nhiều hình thức, có thể bằng e-mail hoặc
các phương thức khác như điện thoại, fax v.v.
* Hợp đồng điện tử hình thành qua thư điện tử: đây là hình thức hợp đồng
điện tử được sử dụng phổ biến trong các giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, đặc biệt trong các giao dịch TMĐT quốc tế. Trong hình thức này, các bên


10

sử dụng thư điện tử để tiến hành các giao dịch. Quá trình giao dịch thường bao gồm
các bước: chào hàng, hỏi hàng, đàm phán về các điều khoản của hợp đồng như quy
cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện, cơ sở giao hàng v.v. Quy trình giao
dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng tương tự một quy trình giao dịch
truyền thống, điểm khác biệt là phương tiện sử dụng để thực hiện giao kết hợp đồng
là máy tính, mạng Internet và e-mail.
* Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số: Ở hình thức hợp đồng này, trong mỗi
bước giao dịch, các bên phải có chữ ký số để ký vào các thông điệp dữ liệu để bảo mật

nội dung và xác thực người gửi hợp đồng. Do đó, hợp đồng có độ bảo mật và ràng buộc
trách nhiệm của các bên cao hơn các hình thức trên.
1.1.2.2. Thanh toán điện tử
Khi kinh doanh trên mạng Internet, doanh nghiệp và cá nhân có thể tiến hành
quản lý mọi giao dịch thông qua một hệ thống thanh toán mà chỉ cần một chiếc máy tính
với một trình duyệt và kết nối mạng. Đó chính là hình thức thanh toán điện tử [34].
Theo nghĩa rộng, thanh toán điện tử được hiểu là việc thanh toán tiền thông qua
các thông điệp điện tử thay cho việc trao tay tiền mặt. Còn theo nghĩa hẹp, thanh toán
điện tử có thể hiểu là việc trả tiền và nhận tiền hàng cho các hàng hóa, dịch vụ được mua
bán trên mạng Internet, là một trong các phương thức thanh toán hợp đồng TMĐT.
Thanh toán điện tử là một trong những điều kiện cốt lõi để phát triển TMĐT vì nó cho
phép hoàn thành khâu cuối của một quy trình giao dịch thương mại.
Thanh toán điện tử có các đặc trƣng sau:
Thứ nhất, mọi giao dịch thanh toán được thực hiện thông qua các phương tiện
điện tử được kết nối với nhau tự động. Đây là một hình thức thanh toán không “tiếp
xúc”, nghĩa là trong giao dịch thanh toán không hề có sự tiếp xúc giữa các bên sử dụng
dịch vụ thanh toán với nhau và giữa các bên sử dụng dịch vụ với tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
Thứ hai, các phương tiện sử dụng trong thanh toán điện tử là tiền điện tử, séc
điện tử, thẻ thanh toán điện tử v.v thực chất là phiên bản điện tử của các phương tiện
được sử dụng trong thanh toán truyền thống.
Thứ ba, thanh toán điện tử có tính xuyên quốc gia. Chỉ bằng việc có một tài
khoản tại ngân hàng hay tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán mà tổ chức đó cung cấp
dịch vụ thanh toán điện tử thì người mua hàng có thể mua hàng tại bất kỳ siêu thị trực
tuyến nào trên thế giới nếu có kết nối thanh toán với ngân hàng đó.


11

Thứ tư, hoạt động thanh toán điện tử có sự tham gia của bên thứ ba đó là nhà

cung cấp dịch vụ thanh toán, nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực chữ ký
điện tử. Đây là những người tạo môi trường cho thanh toán điện tử, là cầu nối trung gian
cho việc thanh toán.
Thanh toán điện tử có nội dung rất rộng, trong phạm vi luận văn, tác giả đề cập
tới tranh chấp thanh toán điện tử là một dạng tranh chấp về thanh toán khi thực hiện hợp
đồng TMĐT với cách hiểu về hoạt động này theo nghĩa hẹp.
Các phương thức thanh toán điện tử hiện nay gồm: Thẻ thanh toán, thẻ thông
minh, ví điện tử, tiền điện tử, thanh toán qua điện thoại di động, thanh toán điện tử tại
các ki ốt bán hàng, séc điện tử, thẻ mua hàng, thư tín dụng điện tử, chuyển tiền điện tử.
Trong các phương tiện thanh toán điện tử này, thẻ thanh toán được coi là phương tiện
phổ biến nhất do tính tiện lợi của nó. Thẻ thanh toán gồm ba loại phổ biến: thẻ tín dụng,
thẻ ghi nợ và thẻ mua hàng.
1.2. Tổng quan về tranh chấp trong thƣơng mại điện tử
1.2.1. Khái niệm, phân loại tranh chấp trong thương mại điện tử
1.2.1.1. Khái niệm tranh chấp trong thương mại điện tử
Trên thế giới hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “tranh chấp
thương mại”. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm đều nhìn nhận những xung đột về lợi
ích kinh tế trong quan hệ kinh doanh thương mại là tranh chấp kinh doanh thương mại.
Theo đó, tranh chấp kinh doanh thương mại được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung
đột về quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá
trình hoạt động kinh doanh thương mại.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tranh chấp thương mại, tranh chấp trong TMĐT
được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia hoạt động TMĐT. Giải quyết tranh chấp trong TMĐT là hoạt động được tiến
hành khi phát sinh những bất đồng hoặc mâu thuẫn giữa hai hay nhiều chủ thể tham gia
hoạt động TMĐT. Trong đó, các bên tranh chấp tham gia vào hình thức thủ tục thích
hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ mâu thuẫn xung đột bất đồng về lợi ích khi
tham gia hoạt động TMĐT nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Giống như giải quyết tranh chấp thương mại thông thường, để giải quyết tranh
chấp thương mại có thể lựa chọn giải pháp bằng thủ tục tố tụng tư pháp (giải quyết

thông qua tòa án) hoặc ngoài tố tụng tư pháp (giải quyết bằng thương lượng, hòa giải,
trọng tài thương mại).
1.2.1.2. Phân loại tranh chấp trong thương mại điện tử


12

a) Căn cứ chủ thể của tranh chấp:
Có bốn chủ thể tham gia phần lớn vào các giao dịch TMĐT: Chính phủ
(Government-G); doanh nghiệp (Business-B); người tiêu dùng (Custumer-C); người lao
động (Employer-E)[34]. Theo đó, các tranh chấp trong TMĐT phổ biến nhất hiện nay
bao gồm: (i) Tranh chấp giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp; (ii) Tranh chấp giữa doanh
nghiệp với người tiêu dùng; (iii) Tranh chấp giữa doanh nghiệp với chính phủ; (iv)
Tranh chấp giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng; (v) Tranh chấp giữa người tiêu
dùng và chính phủ .
* Tranh chấp giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp: tranh chấp này thường xảy ra
khi doanh nghiệp tham gia hình thức giao dịch TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp - B2B (Business-To-Business). B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện
điện tử chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng dụng TMĐT như mạng giá trị gia
tăng, các sàn giao dịch TMĐT v.v. Qua các hệ thống này, doanh nghiệp có thể chào
hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán. Ngoài ra, tranh chấp
giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong TMĐT còn có thể xảy ra trong trường hợp
các doanh nghiệp tranh chấp với nhau về tên miền website sử dụng để quảng cáo, thực
hiện giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ v.v.
* Tranh chấp giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng: tranh chấp giữa doanh
nghiệp với người tiêu dùng trong TMĐT là tranh chấp thương mại xảy ra trong hình
thức TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng - B2C (Business-To-Custumer)..
Loại tranh chấp này xảy ra chủ yếu trong mô hình bán lẻ qua mạng của doanh nghiệp
hay đặt hàng theo nhóm và thường liên quan tới chất lượng, giá thành của hàng hóa,
dịch vụ, thời điểm giao hàng v.v.

* Tranh chấp giữa doanh nghiệp với chính phủ: đây là tranh chấp thương mại
giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước xảy ra trong lĩnh vực TMĐT, thường
xảy ra trong hình thức TMĐT giữa doanh nghiệp và chính phủ - B2G (Business-ToGovernment). Trong mô hình B2G, cơ quan nhà nước đóng vai trò như khách hàng của
doanh nghiệp và quá trình trao đổi thông tin được tiến hành qua các phương tiện điện tử.
Ví dụ: Cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ (mua sắm công)
thông qua website bán hàng của doanh nghiệp.
* Tranh chấp giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng: là tranh chấp TMĐT
giữa các cá nhân với nhau. Tranh chấp này thường diễn ra trong hình thức TMĐT giữa
người tiêu dùng với người tiêu dùng - C2C (Consumer-To-Consumer). Trong mô hình
này, cá nhân có thể tham gia hoạt động thương mại với tư cách là người bán hoặc người


13

mua. Ví dụ như một cá nhân có thể tự thiết lập website để kinh doanh những mặt hàng
do mình làm ra hoặc sử dụng một website có sẵn để kinh doanh món hàng mà mình có.
* Tranh chấp giữa người tiêu dùng và chính phủ: Đây là tranh chấp thương mại
xảy ra giữa cá nhân với chính phủ trong lĩnh vực TMĐT. Ví dụ: tranh chấp xảy ra khi cơ
quan nhà nước thực hiện hoạt động mua sắm công mà đối tượng là hàng hóa, dịch vụ do
cá nhân cung cấp thông qua phương tiện điện tử theo mô hình C2G (Consumer-ToGovernment).
b) Căn cứ vào đối tượng của tranh chấp:
Tranh chấp trong TMĐT thường xảy ra bao gồm tranh chấp về hợp đồng TMĐT
và các tranh chấp về các đối tượng liên quan đến TMĐT như tranh chấp tên miền, quyền
sở hữu trí tuệ, tranh chấp về bảo vệ dữ liệu cá nhân của người tiêu dùng trong TMĐT.
* Tranh chấp về hợp đồng TMĐT
Tranh chấp về hợp đồng TMĐT thường là những tranh chấp xảy ra trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng TMĐT.
(i) Tranh chấp trong giao kết hợp đồng TMĐT
Có hai hình thức phổ biến để giao kết hợp đồng qua website. Hình thức thứ nhất
là “kích chuột” (click wrap). Theo hình thức này, để thể hiện sự đồng ý với các điều

khoản hợp đồng, các bên tham gia phải kích chuột vào một nút “Tôi đồng ý - I agree”
hoặc kích chuột đánh dấu mũi tên đồng ý vào một hộp nhỏ bên cạnh tuyên bố “Tôi
đồng ý với các Điều khoản và Điều kiện – I agree to the Terms and Conditions” để thể
hiện sự đồng ý của mình. Hình thức thứ hai là “xem và đồng ý” (browse wrap), theo
đó để thể hiện sự đồng ý, các bên tham gia không cần phải có hành vi cụ thể như trên
mà chỉ cần sử dụng hoặc xem tiếp các trang web trên đó có chứa các điều khoản của
hợp đồng. Đối với hợp đồng hình thành trong quá trình duyệt các trang web (browse
wrap), trên website của nhà cung cấp thường có đường liên kết đến các Điều khoản và
Điều kiện (Terms of Use hoặc Conditions of Use), hoặc quy định cụ thể: “Bằng việc
tiếp tục xem trang web này hoặc chuyển sang trang web tiếp theo trong website này,
bạn đã đồng ý với các Điều khoản và điều kiện nêu trong website này”. Những quy
định này được Tòa án và luật các nước thừa nhận là có giá trị pháp lý. Tuy nhiên,
trong thực tế không phải ai cũng biết điều này, do đó mà các tranh chấp xảy ra, Ví dụ:
Tranh chấp giữa Hãng hàng không Northewest Airline với một khách hàng vào năm
2004 về sử dụng dịch vụ du lịch của hàng hàng không này. 1
Tranh chấp trong giao kết hợp đồng TMĐT còn có thể là tranh chấp liên quan
đến chữ ký điện tử, thường là những tranh chấp về xác định chữ ký điện tử và khả năng
1

Xem thêm Phụ lục 1


14

xác nhận chủ thể ký kết hợp đồng thông qua việc sử dụng chữ ký điện tử để xác định giá
trị pháp lý của hợp đồng TMĐT. Ví dụ [50]: Tình huống tranh chấp giữa công ty CSX
Transportation và Recovery Express về việc mua bán sản phẩm xe chạy đường ray.2
(ii) Tranh chấp về thực hiện hợp đồng TMĐT: là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến
giữa các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng TMĐT liên quan đến việc thực hiện
(hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Các tranh chấp về thực

hiện hợp đồng chủ yếu thường biểu hiện ở các loại hình sau đây:
- Tranh chấp về thông tin được niêm yết xuất phát từ lỗi nhập dữ liệu trong giao
dịch điện tử: Một trong những vấn đề khó khăn nhất liên quan đến hợp đồng điện tử là
xử lý những lỗi nhập dữ liệu trong quá trình giao dịch. Các thông điệp dữ liệu thường
được hình thành bởi các thiết bị điện tử được lập trình trước và các giao dịch được tiến
hành với tốc độ nhanh, khoảng cách thường xa và số lượng giao dịch lớn nên lỗi trong
quá trình giao dịch thường xảy ra rất nhiều, tuy nhiên lại rất khó nhận thấy và rất khó
khắc phục kịp thời. Ví dụ: Tranh chấp giữa Digiland và một số khách hàng tại
Singapore về lỗi do niêm yết giá sai ngày 8/01/2003.3
- Tranh chấp về chất lượng hàng hóa, dịch vụ; tranh chấp về sửa đổi, bổ sung hợp
đồng; tranh chấp về giao nhận hàng hóa, tranh chấp về thanh toán hợp đồng v.v. Ví dụ
[32]: Tranh chấp liên quan đến việc đặt phòng khách sạn của ông Oliver Heller và khách
sạn Alpenhof, Wego, Úc4; tranh chấp giữa một khách hàng là ông E.J. Rogers và công
ty vận chuyển United Parcel Service, Inc (UPS) về dịch vụ vận chuyển “I-Ship Online
Shipping” vào năm 20045; tranh chấp giữa ông Joe Douglas (quốc tịch Anh) và Tập
đoàn TALK AMERICA INC (Mỹ) về thay đổi nội dung hợp đồng dịch vụ điện thoại6;
tranh chấp giữa công ty Belly Household (Mỹ) và công ty Bạch Mã của Trung Quốc về
thời gian giao hàng7.
* Tranh chấp về tên miền:
Tên miền là tên dùng để nhận dạng một trang web, hay một nhóm các trang web
trên mạng Internet. Một tên miền là một địa chỉ Internet xác định vị trí một máy tính kết
nối với Internet giống như cách một số điện thoại nhận dạng duy nhất một điện thoại kết
nối với mạng lưới điện thoại nào, ở vùng địa lý nào và của nhà cung cấp nào. Ví dụ:
Google.com, Yahoo.com, Ebay.com, BBC.com v.v.
2

Xem thêm Phụ lục 3
Xem thêm Phụ lục 2
4
Xem thêm phụ lục 4

5
Xem thêm phụ lục 5
6
Xem thêm phụ lục 6
7
Xem thêm phụ lục 7
3


15

Hệ thống tên miền là một hệ thống có thứ bậc, bao gồm nhiều cấp bậc khác nhau.
- Tên miền cao cấp nhất: Gồm 2 loại: tên miền cao cấp nhất dùng chung và tên
miền cao cấp nhất theo mã quốc gia [57].
+ Tên miền cấp cao dùng chung (gTLD): Tên miền này đại diện cho 14 lĩnh vực
dùng chung như: “.com” dành cho các tổ chức thương mại; “.org” dành cho các tổ chức
khác; “.edu” dành cho các tổ chức giáo dục; “.mil” dành cho quân đội; v.v. Loại tên
miền cao cấp nhất dùng chung được sử dụng tự do và do các công ty Hoa Kỳ sở hữu và
bán cho đối tượng muốn sử dụng mà không chịu sự kiểm soát của bất kỳ quốc gia nào.
+ Tên miền cấp cao mã quốc gia (ccTLD): Có 234 tên miền cấp cao mã quốc gia.
Những tên miền này gồm hai chữ cái, có phần kết thúc bằng mã quốc gia được quốc tế
công nhận theo chuẩn ISO 3166. Ví dụ: Việt Nam là .VN, Hàn Quốc là .KR, Trung
quốc là .CN, v.v. Loại tên miền này thể hiện chủ quyền tên miền của các quốc gia và
được coi là tài nguyên quốc gia, muốn sử dụng cần phải đăng ký với cơ quan quản lý
theo sự cho phép của Chính phủ quốc gia đó.
- Tên miền cấp 2: đứng phía bên trái của tên miền cao cấp nhất. Ví dụ: trong tên
miền www.wiki.org thì wiki là tên miền cấp 2. Tên miền cấp 2 do những người đăng ký
lựa chọn. Thông thường, tên miền cấp 2 là tên công ty hay tên được sử dụng trên
Internet.
- Tên miền cấp 3: đứng bên trái tên miền cấp 2 là tên miền cấp 3. Tên miền cấp 3

thường do người mua tên miền lụa chọn. Sau tên miền cấp ba có thể còn có tên miền cấp
4 và tên miền cấp 5 và hầu như không có sự giới hạn nào cho các cấp bậc tên miền.
Nhưng trên thực tế, các công ty hay tổ chức, cá nhân thường muốn đăng ký các tên miền
ngắn nhằm giúp người sử dụng có thể nhớ tên miền đó một cách dễ dàng.
Có nhiều dạng tranh chấp tên miền: tranh chấp do xung đột giữa các tên miền với
nhau; tranh chấp do xung đột giữa tên miền và nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, tên công ty
hay chỉ dẫn địa lý; tranh chấp do xung đột giữa tên miền và tên cá nhân.
Trong TMĐT, tranh chấp về tên miền phổ biến nhất là những vụ tranh chấp xảy
ra khi một tên miền tương tự như một nhãn hiệu đăng ký được đăng ký bởi một cá nhân
hay tổ chức không đồng thời là chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá do tên miền và tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đối với
doanh nghiệp, ngoài vai trò là phương tiện nhận biết chủ thể kinh doanh, hàng hóa, dịch
vụ trên môi trường Internet, tên miền còn có vai trò bảo vệ thương hiệu do tên miền
thường chứa tên thương mại, nhãn hiệu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tên miền góp
phần quảng bá về tổ chức, sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp bởi thông qua tên miền,


16

khách hàng có thể dễ dàng tìm đến website của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những
tranh chấp tên miền này thường phát sinh từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do tính duy nhất của tên miền: Trong khi pháp luật của các nước công
nhân sự cùng tồn tại của nhiều nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ ở các quốc gia khác nhau thì
hệ thống tên miền trên thế giới cũng như tại mỗi quốc gia cụ thể chỉ cho phép duy nhất
của một tên miền cụ thể. Do đó, có nhiều khả năng nhiều chủ thể cùng xin đăng ký cùng
một tên miền có chứa đựng nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ hay tên thương mại mà họ đã
đăng ký ở những thời điểm khác nhau, nhưng chỉ có một chủ thể duy nhất đăng ký đầu
tiên được cấp.
Thứ hai, do các hoạt động đầu cơ, chiếm dụng tên miền: Do mối liên quan chặt
chẽ giữa tên miền với nhãn hiệu, tên thương mại nên tên miền có vai trò và giá trị trong

hoạt động kinh doanh nên nhiều chủ thể kinh doanh đã tiến hành đăng ký trước những
tên miền mà theo tính toán của họ, trong tương lai sẽ có nhiều chủ thể đăng ký. Khi có
đối tượng cần đăng ký, chủ thể kinh doanh này sẽ bán lại để thu lợi, hành vi này được
gọi là “đầu cơ tên miền”. Ngoài ra, do tính cạnh tranh cao của môi trường thương mại,
cũng có những trường hợp các chủ thể kinh doanh đăng ký trước tên miền của các đối
thủ cạnh tranh trên thương trường nhằm gây khó khăn cho công việc kinh doanh, tiếp thị
của họ, đây được gọi là hành vi “chiếm dụng tên miền”.
Thứ ba, do thiếu hệ thống phản đối.Hệ thống phản đối là hệ thống đăng các tên
miền xin đăng ký trên mạng để xem xét có tranh chấp, phản đối gì không trong một thời
gian nhất định trước khi tên miền được cấp chính thức. Trên thực tế việc sử dụng hệ
thống này trong quá trình cấp tên miền rất ít, các nhà đăng ký tên miền chỉ quan tâm đến
việc đảm bảo tên miền đăng đăng ký là duy nhất trên cơ sở yêu cầu về mặt kỹ thuật đối
với Internet, trong khi đó lại thiếu kiểm tra tên miền có liên quan tới nhãn hiệu hàng
hóa, dịch vụ hay tên thương mại của chủ thể khác hay không.
Ví dụ: Tranh chấp về quyền sở hữu tên miền “ATT2000.com” giữa AT&T Corp
và ông Alamuddin8 [54]. Tranh chấp tên miền nokiabooks.com của Nokia Corporatio
và công ty sở hữu website AudioBooksForFree.Com Limited9 [46].
* Các tranh chấp về quyền SHTT trong TMĐT:
Quyền SHTT là các quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ - những sản
phẩm sáng tạo của bộ óc con người như tác phẩm văn học, âm nhạc, phần mềm máy
tính, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp v.v. Việc bảo hộ
8
9

Xem thêm Phụ lục 8.
Xem thêm Phụ lục 8.


17


quyền SHTT trong TMĐT là nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị
kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo trên môi
trường điện tử.
Tranh chấp về quyền SHTT trong TMĐT chủ yếu liên quan đến các đối tượng
SHTT sau: quyền tác giả và quyền liên quan; quyền SHCN, chủ yếu liên quan đến sáng
chế, nhãn hiệu, tên thương mại.

(i) Tranh chấp về quyền tác giả và quyền liên quan
Quyền tác giả là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng
tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và
trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Quyền tác giả chủ yếu
nhằm bảo vệ tác phẩm âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm
nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sỹ và người sáng tác đưa ra những hình
thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được bao gồm trong trong
những công trình được bảo hộ bản quyền.
Tranh chấp về quyền tác giả trong TMĐT là những tranh chấp liên quan tới bảo
vệ tác phẩm văn học, nghệ thuật của người sáng tác trong môi trường kinh doanh
TMĐT. Ví dụ: Khi thực hiện Dự án Thư viện Google với mục đích cung cấp Ebook đến
khách hàng, năm 2005 Google đã bị Hiệp hội các Nhà xuất bản Hoa Kỳ đệ đơn kiện về
vi phạm bản quyền khi đưa các tác phẩm, công trình của của các thành viên Hiệp hội
vào danh mục sách kỹ thuật số trong Dự án Thư viện Google [62].
(ii) Tranh chấp về quyền SHCN (sáng chế, nhãn hiệu, tên thương mại)
Trong lĩnh vực SHCN, sáng chế được hiểu là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản
phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy
luật tự nhiên; nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân khác nhau; tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Trong TMĐT, khi các hoạt động từ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, đặt hàng,
bán hàng, thanh toán đều được thực hiện thông qua mạng Internet bằng các phương tiện

điện tử thì việc ứng dụng các sáng chế, các giải pháp hữu ích trong phương pháp kinh
doanh, phần mềm, viễn thông v.v. đóng vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, cá nhân tham gia TMĐT. Những ứng dụng mới về mặt công


18

nghệ vào TMĐT sẽ giúp các hoạt động giao dịch điện tử được thực hiện thuận tiện,
nhanh chóng, đảm bảo độ chính xác cao cho cả người mua và người bán, hạn chế đến
mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra trong giao dịch điện tử vốn luôn có ưu thế về tốc
độ và thời gian giao dịch so với các hình thức thương mại truyền thống. Ngoài ra, ứng
dụng sáng chế mới trong thiết kế giao diện website, phương pháp kinh doanh, v.v còn
khiến trang quảng cáo, chào hàng của cá nhân, doanh nghiệp phong phú, hấp dẫn, thu
hút được khách hàng. Các tranh chấp về SHCN trong TMĐT chủ yếu liên quan đến
sáng chế và phần lớn là những tranh chấp về việc ứng dụng trái phép những sáng chế đã
được đăng ký bản quyền hay sử dụng những sáng chế tương tự những sáng chế đã được
đăng ký trong các giao dịch điện tử. Ví dụ: Tháng 10 năm 2006, hãng máy tính hàng đầu
thế giới IBM đã kiện nhà bán lẻ Amazon lên Tòa án liên bang Mỹ, buộc tội Amazon vi
phạm bốn bằng SHCN của IBM trên website bán lẻ Amazone.com [58].10
Tranh chấp về nhãn hiệu, tên thương mại trong TMĐT về cơ bản cũng giống như
tranh chấp về các đối tượng này trong thương mại truyền thống, chỉ khác là nó được
thực hiện trên môi trường Internet. Ngoài ra, trong TMĐT, tranh chấp liên quan đến
nhãn hiệu, tên thương mại còn có thể xảy ra khi một doanh nghiệp, cá nhân sử dụng tên
miền trùng với tên nhãn hiệu, tên thương mại đã được bảo hộ hoặc ngược lại (sử dụng
tên nhãn hiệu, tên thương mại trùng với tên miền đã được đăng ký) nhưng tranh chấp
này thường được xếp vào tranh chấp về tên miền và giải quyết theo cơ chế giải quyết
tranh chấp tên miền.
* Tranh chấp liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân của ngƣời tiêu dùng
trong TMĐT
Trong TMĐT, các giao dịch điện tử được thiết lập từ xa thông qua quá trình

truyền tải dữ liệu nhờ các phương tiện điện tử. Chính phương thức giao dịch bằng cách
sử dụng các biện pháp liên lạc từ xa (qua website, e-mail hay chat room v.v) cho nên, để
xây dựng niềm tin giữa những người tham gia giao dịch và để thực hiện được các giao
dịch này, các bên phải trao đổi thông tin cá nhân cho nhau như tên, địa chỉ liên lạc, điện
thoại, địa chỉ e-mail, số tài khoản ngân hàng, số thẻ tín dụng v.v. Trong mối quan hệ
này, các chủ thể tham gia, đặc biệt là khách hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ rò rỉ
thông tin cá nhân. Những thông tin cá nhân khi bị tiết lộ ra ngoài không chỉ có thể ảnh
hưởng đến đời sống riêng tư của cá nhân mà còn có nguy cơ dẫn tới những thiệt hại tài
sản trong trường hợp những thông tin này rơi vào tay đối tượng chiếm đoạt tài sản. Các
tranh chấp liên quan đến thông tin người tiêu dùng là một dạng tranh chấp khá phổ biến
10

Xem thêm Phụ lục 9


19

trong TMĐT. Các tranh chấp liên quan đến dữ liệu cá nhân của người tiêu dùng trong
TMĐT thường xuất phát từ những hành vi thu thập, sử dụng bất hợp pháp địa chỉ thư
điện tử để phục vụ cho mục đích quảng cáo trực tuyến hay bán danh sách các địa chỉ này
cho cá nhân, tổ chức có nhu cầu v.v hoặc ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản cá nhân
để rút tiền hoặc mua bán hàng hóa kiếm lợi bất hợp pháp. Ví dụ: Vụ tranh chấp giữa
công ty Viễn Thông Pháp France Télécom và khách hàng sử dụng dịch vụ năm 2005 về
vụ rò rỉ thông tin của khách hàng; tranh chấp về rò rỉ thông tin cá nhân khách hàng của
Công ty Sony.11
1.2.2. Vai trò của pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử
Trong thời đại toàn cầu hóa, mạng lưới Internet phát triển và phổ cập rộng rãi tạo
điều kiện cho hoạt động kinh doanh trực tuyến phát triển mạnh và mang lại cho chủ thể
kinh doanh những giá trị và lợi ích to lớn. Tuy nhiên, trong môi trường “ảo” các tranh
chấp trong TMĐT không chỉ phức tạp hơn mà còn rất dễ phát sinh và gây ra những thiệt

hại đáng kể cho các bên. Để điều chỉnh có hiệu quả việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực này, mỗi quốc gia đều nỗ lực tập trung xây dựng và không ngừng hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực TMĐT. Điều này khẳng định vai trò quan
trọng của pháp luật giải quyết tranh chấp đối với các bên chủ thể trong quan hệ tranh
chấp, với sự phát triển của hoạt động TMĐT.
Thứ nhất, pháp luật giải quyết tranh chấp trong TMĐT có vai trò quan trọng đối với
các bên chủ thể trong quan hệ tranh chấp. Pháp luật về giải quyết tranh chấp được xem
là cơ cở pháp lý nền tảng tạo điều kiện cho các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trên cơ sở quy định pháp luật, các chủ thể có quyền lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình. Đồng
thời, họ cũng phải tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ. Có thể
thấy rằng, pháp luật giải quyết tranh chấp TMĐT là công cụ pháp lý bảo vệ, định hướng
chủ thể kinh doanh trong tranh chấp TMĐT.
Thứ hai, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong TMĐT được xây dựng nhằm đảm
bảo nội dung quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do định đoạt giải quyết
tranh chấp là một nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh. Về mặt lý luận, các bên
có quyền tự định đoạt việc giải quyết tranh chấp, tự lựa chọn hình thức, phương thức
giải quyết tranh chấp để bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo các quyền này
cho chủ thể kinh doanh, pháp luật phải tạo ra sự đảm bảo cho việc giải quyết các tranh
chấp của các bên để tạo nên môi trường kinh doanh an toàn; đồng thời phải tạo ra nhiều
11

Xem thêm Phụ lục 10


20

mô hình giải quyết tranh chấp chấp để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về hình thức,
cách thức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, pháp luật giải quyết tranh chấp trong TMĐT là công cụ để cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật giải quyết hợp lý, đạt hiệu quả cao trong các
tranh chấp TMĐT. Từ đó, đảm bảo sự hoạt động, phát triển lành mạnh, an toàn của mô
hình TMĐT. Pháp luật sẽ xây dựng cơ chế, trình tự thủ tục cụ thể, rõ ràng để cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động giải quyết tranh chấp.
Việc áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp TMĐT có hiệu quả, phù hợp lợi ích
của các chủ thể sẽ là điều kiện đảm bảo môi trường kinh doanh TMĐT an toàn, tránh rủi
ro tiềm ẩn phát sinh gây ảnh hướng xấu tới quyền lợi của các chủ thể kinh doanh, tới sự
phát triển của nền kinh tế nói chung.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 của Luận văn đã đi vào khái quát và hệ thống các vấn đề lý luận cơ
bản về TMĐT và tranh chấp trong TMĐT.
Với các vấn đề lý luận cơ bản về TMĐT, luận văn tập trung giới thiệu khái niệm
và các đặc điểm của TMĐT; khái niệm và đặc điểm của các loại giao dịch TMĐT. Hiện
nay, trên thế giới TMĐT có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp, còn ở
nước ta, pháp luật mới chỉ đưa ra khái niệm “giao dịch điện tử” còn khái niệm về TMĐT
chưa chính thức được ghi nhận trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Đồng thời, Chương 1 luận văn cũng trình bày pháp luật về tranh chấp trong
TMĐT với hai nội dụng cơ bản. Thứ nhất, đưa ra khái niệm và phân loại các tranh chấp
trong TMĐT. Thứ hai, đánh giá vai trò của pháp luật giải quyết tranh chấp trong TMĐT.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản của Chương 1, luận văn sẽ tiếp tục đi vào tìm
hiểu thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp trong TMĐT ở Việt Nam tại Chương
2.


21

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG TRONG THƢƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
2.1. Hệ thống quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện

tử ở Việt Nam
2.1.1. Các văn kiện quốc tế
2.1.1.1. Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL (UNCITRAL Model Law
on Electronic Commerce)
Luật mẫu về TMĐT được UNCITRAL thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1996.
Đạo luật này có hiệu lực áp dụng đối với mọi loại thông tin dưới dạng một thông điệp
dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động TMĐT [8].
Luật mẫu về TMĐT có kết cấu gồm hai phần: Phần thứ nhất quy định các
điều kiện luật định đối với thông điệp dữ liệu, công nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu; khẳng định giá trị pháp lý tương đương của chữ ký điện tử so
với chữ ký truyền thống khi chữ ký điện tử đáp ứng được các điều kiện luật định,
quy định về bản gốc và thông điệp điện tử khi đáp ứng các yêu cầu của một bản gốc
hợp đồng thì có giá trị làm bằng chứng trong bất kỳ thủ tục pháp lý nào. Phần thứ
hai quy định về các giao dịch trong các lĩnh vực cụ thể và các hành vi liên quan đến
một số loại hợp đồng khác nhau.
Việc UNCITRAL thông qua Luật mẫu về TMĐT đã tạo điều kiện cho tất cả các
quốc gia trên thế giới mà trước hết là các nước thành viên của Liên Hợp Quốc có cơ sở
tham khảo để hoàn thiện pháp luật nước mình về sử dụng các phương tiện lưu giữ thông
tin trong hoạt động kinh doanh.
2.1.1.2. Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử (UNCITRAL Model Law on Electronic
Signature)
Luật mẫu về chữ ký điện tử chính thức được thông qua vào kỳ họp thứ 37 của Ủy
ban Liên hợp quốc tại Viên ngày 29 tháng 9 năm 2000 [9]. Luật gồm hai phần: Phần thứ
nhất là Luật mẫu về chữ ký điện tử và Phần thứ hai là hướng dẫn thi hành Luật mẫu về
chữ ký điện tử. Luật mẫu về chữ ký điện tử có các nội dung cơ bản: (i) Công nhận giá trị
pháp lý của chữ ký điện tử; (ii) Nêu ra những điều kiện để một chữ ký điện tử được coi
là có đủ tính an toàn và độ tin cậy; (iii) Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử dù
công nghệ được sử dụng là công nghệ nào; (iv) Quy định trách nhiệm của các bên liên



×