Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.51 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN CHÍ HIẾU

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội,
Khoa Sau đại học trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho tôi kiến thức và
tạo điều kiện cho tôi rèn luyện và phấn đấu trong thời gian học tập tại trường
và đặc biệt tới thầy, TS. Phan Chí Hiếu đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Tiếp đến, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng Văn Phòng Luật sư Tư vấn Độc lập, anh Vũ Ánh Dương - Tổng Thư ký
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Luật sư Đặng Xuân Hợp - Công ty
Luật Allens Arthur Robinson và các anh, chị công tác tại Tòa kinh tế Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành luận
văn này.


Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Phượng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY PHÁN

7

QUYẾT TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

1.1.

Khái quát chung về hủy phán quyết trọng tài

7

1.1.1.

Phán quyết trọng tài và hủy phán quyết trọng tài

7


1.1.2.

Ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài

13

1.2.

Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài

14

1.2.1.

Khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài

14

1.2.2.

Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài

15

1.3.

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về

23


hủy phán quyết trọng tài
1.3.1.

Giai đoạn 1: Trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại

24

1.3.2.

Giai đoạn 2: Từ khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại đến

25

trước khi có Luật Trọng tài thương mại
1.3.3.

Giai đoạn 3: Từ khi có Luật Trọng tài thương mại đến nay
Chương 2:

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT

26
29

NAM VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

2.1.

Quy định về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài


29

2.2.

Quy định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài

34

2.2.1.

Căn cứ “Thỏa thuận trọng tài vô hiệu”

35

2.2.2.

Căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản

39

của pháp luật Việt Nam”
2.3.

Quy định về thủ tục hủy phán quyết trọng tài

42

2.3.1.

Sự vắng mặt của bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài


43

2.3.2.

Thời hạn chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát nhân dân

44


2.3.3.

Tài liệu kèm theo đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

46

2.3.4.

Xem xét lại quyết định của tòa án về hủy phán quyết trọng tài

47

2.4.

Quy định về hậu quả hủy phán quyết trọng tài

50

Chương 3:


54

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỦY PHÁN
QUYẾT TRỌNG TÀI

3.1.

Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về

54

hủy phán quyết trọng tài
3.1.1.

Hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải được

54

thực hiện đồng bộ với việc hoàn thiện các quy định pháp luật
khác có liên quan
3.1.2.

Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải bảo đảm nguyên

55

tắc quyền tự định đoạt của các bên
3.1.3.


Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải đảm bảo mức độ

55

tương thích với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia
3.1.4.

Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài phải đảm bảo tính

56

minh bạch và ổn định
3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật Việt

57

Nam về hủy phán quyết trọng tài
3.2.1.

Về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

57

3.2.2.

Về một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài


58

3.2.3.

Về thủ tục hủy phán quyết trọng tài

61

3.2.4.

Về hậu quả hủy phán quyết trọng tài

62

KẾT LUẬN

64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

66

PHỤ LỤC

72


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Công ước New York


Công ước về công nhận và thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài năm 1958.

Luật Mẫu UNCITRAL

Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của
Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại
Quốc tế ban hành ngày 21/6/1985 (sửa đổi, bổ
sung ngày 07/7/2006).


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: thương lượng, trung gian hòa giải,
trọng tài và tòa án. Phương thức trọng tài có nhiều ưu điểm nổi bật như giải
quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả, đảm bảo bí mật cho các
bên tranh chấp… Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài ngày càng trở nên
phổ biến ở các nước, nhất là trong các tranh chấp thương mại quốc tế [14, tr.
37]. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên thế giới cho thấy trọng tài ngày càng
“đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các thương
nhân” [45, tr. 9].
Ở Việt Nam, trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp thường phát
sinh tranh chấp và số lượng tranh chấp ngày càng tăng. Theo thống kê của các
cơ quan Tư pháp, tại Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm
2005 đến nay năm nào số lượng vụ việc năm sau cũng tăng gấp đôi năm trước
[21]. Theo Tổng cục Thống kê, tại thời điểm ngày 01/01/2012 cả nước

có 448.393 doanh nghiệp [44]. Trong bối cảnh kinh doanh cạnh tranh và
nhiều doanh nghiệp như trên, số vụ tranh chấp ở nước ta ngày càng nhiều.
Đồng thời, khi hội nhập kinh tế quốc tế thì các tranh chấp thương mại có yếu
tố nước ngoài ngày càng nhiều và phức tạp.
Việc phát huy hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong những năm gần đây. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 chỉ đạo: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh
chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài”. Nhằm khắc phục những
hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại và khuyến khích giải quyết tranh


2

chấp thông qua trọng tài, ngày 17/6/2010 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Trọng tài thương mại.
Mặc dù số lượng tranh chấp tăng nhanh, phương thức trọng tài có nhiều
ưu việt và được chính sách của Đảng và Nhà nước rất quan tâm trong những
năm gần đây nhưng hiện nay vẫn rất ít tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng
trọng tài. Số doanh nghiệp đã từng lựa chọn trọng tài làm phương thức giải
quyết tranh chấp chỉ chiếm 16% số doanh nghiệp được khảo sát [20, tr. 1314]. Từ năm 1993 đến năm 2012, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam chỉ
thụ lý bình quân khoảng 31 vụ/năm (xem Phụ lục 1). Thực tế này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, trong đó có việc hủy phán quyết trọng tài.
Luật Trọng tài thương mại đã quy định cụ thể về vấn đề hủy phán quyết
trọng tài nhưng thực tế áp dụng Luật Trọng tài thương mại thời gian qua có
nhiều vướng mắc. Nhiều phán quyết trọng tài bị hủy không có căn cứ, gây
ảnh hưởng đến hoạt động trọng tài, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, trong số 457 vụ
tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2012 thì có 33 phán quyết trọng tài bị yêu cầu tòa án hủy

(chiếm 7,22%). Trong số 33 phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy thì 11 phán
quyết trọng tài đã bị tòa án hủy (chiếm 33,33%). Tại phiên họp tiến hành chất
vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 22/3/2013, đại biểu Trương Trọng
Nghĩa (Thành phố Hồ Chí Minh) đã chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao về việc gần đây tòa án hủy phán quyết trọng tài không có căn cứ pháp lý
đầy đủ, không thỏa đáng, gây lo ngại cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng bất lợi
đối với môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt Nam. Tình trạng trên đòi
hỏi cần nghiên cứu làm rõ nguyên nhân để hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp


3

luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn với mong muốn đóng góp
phần nào vào việc đáp ứng đòi hỏi của thực tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua có một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí, một
số công trình nghiên cứu liên quan đến những tồn tại, hạn chế trong pháp luật
về hủy phán quyết trọng tài thương mại. Có thể kể đến những công trình
nghiên cứu như Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng
tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại (Luận văn thạc sĩ luật học của
tác giả Phan Chân Nhân năm 2012); Tác động của những quy định mới trong
Luật Trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại
trọng tài ở Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh Huyền
năm 2012); Luật Trọng tài thương mại năm 2010 - Bước phát triển mới của
pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Thị Hồng Hạnh năm 2011); Giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (Luận
án tiến sĩ luật học của Trần Minh Ngọc năm 2009); Hoàn thiện pháp luật về
trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế (Luận án

tiến sĩ luật học của Nguyễn Đình Thơ); Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với
hoạt động của trọng tài thương mại (Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Thị Yến năm 2005); Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình
thức trọng tài (Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy năm
2004). Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết như Huỷ quyết định trọng tài: Chế
định còn nhiều bất cập trong pháp luật Việt Nam của Thạc sĩ Đặng Hoàng
Oanh trên trang web của Bộ Tư pháp; Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên
quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam của Tiến sĩ Phan Chí Hiếu
trên Tạp chí Luật học năm 2005, Số đặc san về Bộ luật Tố tụng dân sự; Sự hỗ
trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo


4

Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 của Nguyễn Thị Yến trên Tạp chí
Luật học số 2/2005…
Đánh giá một cách tổng quát thì có thể nhận định rằng các công trình
nghiên cứu và bài viết nêu trên chỉ đề cập đến những hạn chế, tồn tại của
Pháp lệnh Trọng tài thương mại về hủy phán quyết trọng tài; hoặc chỉ xem xét
một vài vấn đề cụ thể, chưa đề cập một cách toàn diện đến hủy phán quyết
trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại. Vì vậy, đến nay đề tài
nghiên cứu này vẫn là vấn đề mới trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần phải
được quan tâm và tiếp tục giải quyết.
Trên cơ sở kế thừa những đóng góp khoa học của các công trình nghiên
cứu trước, luận văn tiếp tục giải quyết những vấn đề còn thiếu sót về lý luận,
phân tích những mặt hạn chế của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
về hủy phán quyết trọng tài và đề ra một số giải pháp hoàn thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tiếp tục làm rõ các vấn đề lý luận về hủy phán
quyết trọng tài, tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về

hủy phán quyết trọng tài; chỉ ra những hạn chế trong những quy định pháp
luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài; góp phần hoàn thiện
pháp luật hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài; khái
quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài.
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học các quy định pháp luật hiện
hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài.
- Chỉ ra những điểm hạn chế, chưa phù hợp của các quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài.


5

- Đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam về hủy phán quyết trọng tài.
4. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài có nội dung rất rộng. Trong khuôn
khổ luận văn thạc sĩ luật học, đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tập trung chủ yếu vào Luật Trọng
thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành, về hủy phán quyết của trọng
tài Việt Nam được tuyên tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn sử dụng
phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, mô tả.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có các đóng góp mới như sau:
- Tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài.

- Chỉ ra những điểm hạn chế, chưa phù hợp của các quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về hủy phán quyết trọng tài trong mối tương quan với
thực tiễn áp dụng, sự liên hệ với pháp luật trọng tài của một số nước và thông
lệ quốc tế.
- Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về hủy phán quyết trọng tài, cụ thể là những quy định về thời hạn yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài, một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài, thủ tục
hủy phán quyết trọng tài và hậu quả hủy phán quyết trọng tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các chữ viết tắt và phụ lục, luận văn gồm ba chương như sau:


6

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hủy phán quyết trọng tài và
pháp luật về hủy phán quyết trọng tài.
Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về hủy phán
quyết trọng tài.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam
về hủy phán quyết trọng tài.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát chung về hủy phán quyết trọng tài
1.1.1. Phán quyết trọng tài và hủy phán quyết trọng tài

Trong quá trình tố tụng trọng tài, hội đồng trọng tài có quyền ban hành
nhiều quyết định khác nhau như các quyết định về tố tụng, quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh
chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài… Các quyết định nêu trên được gọi chung
là quyết định trọng tài và được thi hành.
Các quyết định trọng tài có thể được phân thành ba loại đó là: quyết định
cuối cùng, quyết định từng phần và tạm thời, và quyết định dựa trên cơ sở sự
thỏa thuận của các bên. Quyết định cuối cùng là quyết định do hội đồng trọng
tài ban hành, giải quyết mọi vấn đề (hoặc vấn đề còn lại) đã được đưa ra trọng
tài. Quyết định từng phần và tạm thời là quyết định do hội đồng trọng tài ban
hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề riêng rẽ trong quá trình trọng tài
trước khi ban hành quyết định cuối cùng. Quyết định trên cơ sở thỏa thuận là
quyết định do hội đồng trọng tài đưa ra trên cơ sở thỏa thuận hòa giải của các
bên tranh chấp đạt được trong khi đang tiến hành tố tụng trọng tài.
Có thể phân biệt quyết định trọng tài cuối cùng với các loại quyết định
trọng tài khác ở những điểm như sau: “Quyết định trọng tài cuối cùng sẽ giải
quyết tất cả các vấn đề (hoặc tất cả các vấn đề còn lại) mà đã được đưa ra
trong trọng tài”; quyết định trọng tài cuối cùng là quyết định trọng tài được
đưa ra “sau cùng”; “quyết định trọng tài cuối cùng thường là kết quả của quá
trình tố tụng trọng tài được tiến hành từ đầu tới cuối”; quyết định trọng tài
cuối cùng “chấm dứt thẩm quyền của hội đồng trọng tài” [35, tr. 423]. Một


8

khi quyết định cuối cùng được ban hành, hội đồng trọng tài sẽ hết trách nhiệm
vì đã hoàn thành nhiệm vụ của mình [41, tr. 142]. Luật Mẫu UNCITRAL và
pháp luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới đều có sự phân biệt các quyết
định của hội đồng trọng tài. Theo đó, “quyết định của hội đồng trọng tài giải
quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi

là phán quyết trọng tài” [46].
Vậy “phán quyết trọng tài” là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, phán quyết
được hiểu là “quyết định để mọi người phải tuân theo” [28, tr. 983]. Theo Đại
từ điển kinh tế thị trường, “phán quyết trọng tài là quyết định mà trọng tài
viên hoặc cơ quan trọng tài, theo trình tự luật định, sau khi xét xử, đưa ra đối
với vụ việc đôi bên đương sự tranh chấp” [29, tr. 1995].
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa chung về thuật ngữ “phán
quyết trọng tài”. Tại các công ước quốc tế về trọng tài như Công ước New
York hay Luật Mẫu UNCITRAL cũng không có định nghĩa chung về thuật
ngữ này. Công ước New York, là công ước điều chỉnh việc công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài, chỉ đưa ra định nghĩa về phán quyết trọng tài như
sau: Thuật ngữ “các phán quyết trọng tài” bao gồm không chỉ những phán
quyết đưa ra bởi các trọng tài viên được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm
các phán quyết đưa ra bởi các tổ chức trọng tài thường trực được các bên đưa
vụ việc ra giải quyết. Ở Việt Nam, phán quyết trọng tài được định nghĩa là
quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài (khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại).
Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm khái quát về phán quyết trọng tài
thương mại như sau: Phán quyết trọng tài thương mại là quyết định của hội
đồng trọng tài thương mại giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp giữa các
bên tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài, ràng buộc các bên tranh chấp
phải thực hiện.


9

Phán quyết trọng tài thương mại (dưới đây gọi là phán quyết trọng tài) có
một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, phán quyết trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh
chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài của hội đồng trọng tài:

Quá trình giải quyết vụ tranh chấp tại trọng tài thường được tính từ thời
điểm trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với
trường hợp tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài hoặc tính từ khi
bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với trường hợp tranh
chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc đến khi trọng tài họp phiên cuối
cùng đưa ra quyết định về giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình đó, một
phán quyết trọng tài giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp sẽ được đưa ra. Phán
quyết trọng tài thông thường sẽ là “kết quả của một quá trình tranh luận thấu
đáo” của hội đồng trọng tài…, “nghĩa là nó giải quyết tận gốc mọi vấn đề và
nó có tính ràng buộc đối với các bên” [26, tr. 47-53].
Khi phán quyết trọng tài được đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp
được giải quyết toàn bộ và thủ tục trọng tài chấm dứt. Phán quyết trọng tài là
sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài, kết thúc quá trình tố tụng.
Về hình thức, phán quyết trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó
tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán quyết trọng tài đưa ra các kết luận về
tranh chấp, quy định quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia tranh chấp phải
thực hiện.
Cách trình bày phán quyết trọng tài tuân theo một quy định chung về
hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy định của pháp luật. Pháp luật
trọng tài của nhiều nước như Nga, Singapore, Việt Nam… quy định phán
quyết phải được lập thành văn bản. Trên cơ sở quy định chung về nội dung và
hình thức phán quyết trọng tài, mỗi trung tâm trọng tài hay mỗi hội đồng


10

trọng tài vụ việc có thể có những luận giải, trình bày khác nhau nhưng bắt
buộc phải tuân theo quy định chung đó.
Thứ hai, phán quyết trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện:
Phán quyết trọng tài là chung thẩm. Đây là một trong những nguyên tắc

cơ bản của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này có nghĩa phán quyết
trọng tài không bị các bên tranh chấp kháng cáo trước bất kỳ một tòa án hay
tổ chức nào. Phán quyết trọng tài cũng không bị cơ quan nào kháng nghị. Tuy
nhiên, nếu có đủ bằng chứng cho rằng phán quyết đó thuộc một trong các
trường hợp hủy phán quyết trọng tài được pháp luật quy định thì có thể yêu
cầu tòa án có thẩm quyền hủy.
Tại Điều 34 Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL ngày 15/12/1976 (sửa
đổi, bổ sung ngày 06/12/2010) của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương
mại Quốc tế quy định: “Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và là
chung thẩm và ràng buộc các bên, các bên cam kết thi hành phán quyết không
chậm trễ”.
Ở Việt Nam, khoản 5 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Phán
quyết trọng tài là chung thẩm”. Các trung tâm trọng tài của Việt Nam khi xây
dựng bản quy tắc tố tụng trọng tài của mình cũng khẳng định giá trị chung
thẩm của phán quyết. Tại Điều 31 Bản quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam quy định “Quyết định trọng tài là chung thẩm, có
hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên phải thi hành quyết định trọng tài theo
quy định của pháp luật”.
Việc phán quyết của trọng tài là chung thẩm tạo điều kiện cho tranh chấp
được giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các
bên đương sự. Các trường hợp hủy phán quyết trọng tài do có sai sót liên
quan đến thủ tục tố tụng ít khi xảy ra. Để một phán quyết trọng tài đạt được


11

tính hiệu lực chung thẩm như trên, phán quyết trọng tài phải là kết quả của
một quá trình giải quyết khách quan và tuân theo các quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì có hai loại phán quyết trọng
tài là phán quyết của trọng tài trong nước (hay trọng tài Việt Nam) và phán

quyết của trọng tài nước ngoài. Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán
quyết do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong
lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Phán quyết trọng tài có thể bị tòa án có thẩm quyền hủy. Vậy “hủy phán
quyết trọng tài” là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt, “hủy” có nghĩa là “làm cho
không còn tồn tại hoặc không còn có giá trị nữa” [28, tr. 608].
Hủy một phán quyết trọng tài là việc tòa án có thẩm quyền tuyên bố
phán quyết đó không có giá trị toàn bộ hoặc một phần. Nếu một phán quyết bị
tòa án có thẩm quyền hủy thì thông thường phán quyết đó bị coi là không có
hiệu lực và do đó không thể thi hành không chỉ bởi tòa án nơi tiến hành trọng
tài mà cả tòa án quốc gia ở nơi khác [35, tr. 489].
Thủ tục hủy phán quyết trọng tài của tòa án không phải là thủ tục xét xử
lại vụ kiện. Trong quá trình xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, tòa án
không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp, mà chỉ đối chiếu với các trường hợp
hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật để ra quyết định. Tòa án
sẽ ra quyết định hủy phán quyết trọng tài trong trường hợp pháp luật quy định
phán quyết trọng tài bị hủy. Ngược lại, tòa án sẽ ra quyết định không hủy
phán quyết trọng tài nếu lý do bên yêu cầu đưa ra không rơi vào trường hợp
pháp luật quy định hủy phán quyết trọng tài.
Tòa án ở nhiều quốc gia đã làm rõ rằng thủ tục hủy phán quyết
trọng tài không phải là thủ tục phúc thẩm trong đó các bằng chứng
được đánh giá lại và sự đúng đắn của quyết định về nội dung tranh


12

chấp của hội đồng trọng tài được xem xét... Tòa án không xem lại
nội dung vụ tranh chấp [64].
Xung quanh việc quy định hủy phán quyết trọng tài của tòa án cũng có
những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, xuất phát từ nguyên tắc

phán quyết trọng tài là chung thẩm nên khi hội đồng trọng tài đưa ra phán
quyết cuối cùng thì phán quyết này sẽ có hiệu lực thi hành ngay, các bên
không được yêu cầu tòa án xem xét lại phán quyết. Hơn nữa, hội đồng trọng
tài là những người do chính các bên tranh chấp lựa chọn nên các bên phải có
nghĩa vụ tôn trọng và thi hành phán quyết của họ. Việc các bên có quyền yêu
cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài nghĩa là phán quyết của trọng tài dù là
chung thẩm, vẫn bị hủy bỏ bởi tòa án và tranh chấp dù các bên có thỏa thuận
giải quyết tại trọng tài, thì sau đó họ vẫn có thể đưa ra tòa án. Điều này đi
ngược lại với nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là chung thẩm
và ngược lại với thỏa thuận của các bên là lựa chọn trọng tài chứ không phải
tòa án.
Ngược lại với quan điểm trên, có quan điểm lại ủng hộ việc đưa ra cơ
chế tòa án có quyền hủy phán quyết của trọng tài. Cơ chế này làm yên lòng
các bên tranh chấp vì nếu họ bị "phản bội" thì họ đã có tòa án ra tay giúp họ
[19]. Hơn nữa, khi xem xét hủy phán quyết trọng tài, tòa án chỉ xem xét vụ
việc về mặt thủ tục, nghĩa là chỉ kiểm tra và đối chiếu các giấy tờ với quy
định của pháp luật chứ không xét xử lại về nội dung vụ việc nên không hề vi
phạm nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm. Cơ chế này “đã góp
phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của trọng tài viên, làm cho họ
phải khách quan, vô tư trong khi hành nghề và việc lựa chọn phương thức giải
quyết bằng trọng tài sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh doanh” [19].
Cơ chế hủy phán quyết trọng tài được các quốc gia áp dụng đối với các
phán quyết trọng tài trong nước. Đối với phán quyết trọng tài nước ngoài, các


13

quốc gia sẽ không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét trên góc
độ công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài tại nước họ. Ví dụ, ở Pháp,
tòa án chỉ can thiệp để hủy nếu phán quyết trọng tài được tuyên trên lãnh thổ

của Pháp [11, tr. 39].
Pháp luật Việt Nam có cơ chế điều chỉnh khác nhau đối với phán quyết
của trọng tài nước ngoài và phán quyết của trọng tài Việt Nam. Đối với phán
quyết của trọng tài nước ngoài, chúng ta quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự và Công ước New York (lúc này tòa án có thẩm quyền công nhận hay
không công nhận phán quyết trọng tài). Đối với phán quyết trọng tài trong
Luật Trọng tài thương mại, chúng ta có quy định về thi hành phán quyết trọng
tài mà không có thủ tục công nhận và cho thi hành nhưng phán quyết trọng tài
có thể bị yêu cầu hủy tại tòa án (lúc này tòa án có thẩm quyền để quyết định
hủy hay không hủy phán quyết trọng tài) [10]. Điều đó có nghĩa, Việt Nam
không áp dụng thủ tục công nhận và cho thi hành mà áp dụng cơ chế hủy đối
với phán quyết của trọng tài Việt Nam. Nếu phán quyết của trọng tài Việt
Nam không bị tòa án tuyên hủy theo yêu cầu của một trong các bên tranh
chấp, hoặc không bị một trong các bên tranh chấp yêu cầu tòa án hủy trong
thời hạn quy định thì phải được thi hành. Đối với phán quyết trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam, cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam sẽ được áp dụng, chứ không theo cơ chế hủy phán
quyết trọng tài như đối với trọng tài Việt Nam.
1.1.2. Ý nghĩa của việc hủy phán quyết trọng tài
Khi chọn phương thức trọng tài, các bên tranh chấp mong muốn có kết
quả giải quyết là một quyết định chung thẩm và ràng buộc các bên. Tố tụng
trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. Nguyên tắc xét xử của trọng tài là độc lập, phán quyết
trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng


14

với những phán quyết hợp pháp, tức là phán quyết đó được hình thành dựa
trên những căn cứ pháp luật. Không ai có thể đảm bảo rằng phán quyết trọng

tài luôn luôn đúng về mọi phương diện.
Trọng tài là một chế định tài phán tư, trong đó trọng tài viên là người do
các bên lựa chọn để giải quyết vụ tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tranh
chấp tại trọng tài, trọng tài viên một mặt phải tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên, mặt khác phải tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan, bảo đảm
công bằng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Trọng tài viên có
thể có những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, giải quyết
tranh chấp thông qua phương thức trọng tài có những nhược điểm nhất định.
Một trong những nhược điểm đó là các trọng tài viên có thể thiên vị hoặc giải
quyết không hiệu quả [18, tr. 15].
Trường hợp vì lý do nào đó mà trọng tài viên xét xử sai, không khách
quan thì các đương sự phải được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do
đó, cần có một cơ chế xem xét lại phán quyết trọng tài. Để bảo vệ các bên
tranh chấp, đấu tranh chống sự thiếu vô tư, khách quan trong giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, pháp luật đã ghi nhận việc tòa án có quyền hủy bỏ phán
quyết của trọng tài.
1.2. Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
Có thể hiểu pháp luật về hủy phán quyết trọng tài là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tòa án
xem xét hủy phán quyết trọng tài. Đó là các quan hệ như quan hệ giữa bên
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với tòa án có thẩm quyền, quan hệ giữa các
bên trong vụ tranh chấp có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, quan hệ giữa tòa
án với viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Việc đưa ra khái niệm pháp luật về
hủy phán quyết trọng tài là nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ


15

xã hội, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được

hiệu quả điều chỉnh cao.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
Pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thông thường bao gồm các nội
dung cơ bản sau đây: Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, căn cứ hủy
phán quyết trọng tài, thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, thủ tục hủy
phán quyết trọng tài, hậu quả của việc hủy phán quyết trọng tài.
1.2.2.1. Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Như trên đã trình bày, phán quyết trọng tài là chung thẩm. Tuy nhiên,
phán quyết trọng tài có thể bị hủy. Luật Mẫu UNCITRAL ghi nhận một bên
trong vụ tranh chấp có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài trong
trường hợp có căn cứ tại Điều 34. Khảo sát pháp luật trọng tài của các nước
như Đức, Singapore, Trung Quốc… cho thấy các nước này cũng quy định
quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài của đương sự trong vụ tranh
chấp nếu có căn cứ hủy theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải được thể hiện thông qua đơn yêu
cầu. Điều này được Luật Mẫu UNCITRAL và pháp luật các quốc gia quy
định. Việc một bên nộp đơn yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài là sự mở
đầu quá trình tòa án thụ lý và xem xét hủy phán quyết trọng tài. Nếu không có
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của một bên trong vụ tranh chấp thì
không có việc tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài.
1.2.2.2. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Theo Luật Mẫu UNCITRAL thì yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải
được đưa ra trong thời hạn là 3 tháng kể từ ngày bên yêu cầu nhận được phán
quyết trọng tài (Điều 34).
Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài cũng được pháp luật của các
quốc gia quy định. Mỗi nước có pháp luật của riêng mình điều chỉnh thời hạn


16


yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nhưng 3 tháng là thời hạn được dùng nhiều
nhất. Ở Singapore, cả Luật Trọng tài và Luật Trọng tài Quốc tế đều quy định
thời hạn nộp đơn yêu cầu cho tòa án là 3 tháng kể từ ngày bên yêu cầu nhận
được phán quyết. Theo Điều 1059 Luật Trọng tài Đức, đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài phải được nộp trong vòng 3 tháng sau ngày bên yêu cầu nhận
được phán quyết trọng tài, trừ khi các bên thỏa thuận khác; trường hợp phán
quyết trọng tài đã được tòa án công nhận thi hành thì không được nộp đơn
yêu cầu tòa án hủy. Ở Nhật, thời hạn đưa ra yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
cũng là 3 tháng kể từ ngày bên yêu cầu nhận được phán quyết trọng tài (Điều
44 Luật Trọng tài Nhật). Theo Điều 40 Luật Trọng tài Thái Lan, bên yêu cầu
phải nộp đơn yêu cầu cho tòa án trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được
phán quyết.
Tuy nhiên, một vài nước, chẳng hạn Trung Quốc, chỉ cho phép yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài trong một khoảng thời gian ngắn sau khi phán quyết
đó được ban hành. Theo Điều 41 Luật Trọng tài Trung Quốc, bên yêu cầu tòa
án hủy phán quyết trọng tài phải nộp đơn cho tòa án trong vòng 30 ngày sau
ngày phán quyết trọng tài được ban hành hoặc được giao.
1.2.2.3. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài
Sau khi phán quyết trọng tài được tuyên, một bên có thể nộp đơn yêu cầu
cho tòa án có thẩm quyền ở nước đó hủy phán quyết đó vì một số lý do nhất
định. Các lý do này không liên quan đến nội dung phán quyết trọng tài mà
thường liên quan đến thỏa thuận trọng tài và thủ tục tố tụng.
Luật Mẫu UNCITRAL quy định giới hạn trực tiếp các căn cứ dựa vào đó
tòa án tuyên hủy phán quyết trọng tài. Các căn cứ này được quy định tại
khoản 2 Điều 34 Luật Mẫu UNCITRAL và được chia thành hai nhóm. Nhóm
căn cứ thứ nhất là những căn cứ phải được một bên chứng minh, bao gồm các
trường hợp sau: Tình trạng không có năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài của


17


một bên; thoả thuận trọng tài vô hiệu; một bên không được thông báo về việc
chỉ định trọng tài viên hoặc về thủ tục tố tụng trọng tài, hoặc một bên không
thể thực hiện được việc bảo vệ quyền lợi của mình; phán quyết trọng tài liên
quan đến những vấn đề không được đưa ra trọng tài giải quyết; việc thành lập
hội đồng trọng tài hoặc việc tiến hành tố tụng trọng tài không phù hợp với
thỏa thuận của các bên hoặc không phù hợp với quy định của Luật Mẫu nếu
các bên không có thỏa thuận. Nhóm căn cứ thứ hai là những căn cứ có thể do
tòa án chủ động xác định, bao gồm các trường hợp: Vấn đề là đối tượng của
tranh chấp không thể được giải quyết bằng trọng tài; phán quyết của trọng tài
trái với chính sách công. Như vậy:
Các căn cứ để yêu cầu hủy một quyết định trọng tài theo Luật
Mẫu là rất hạn chế. Thực tế, bốn căn cứ mà bên yêu cầu có quyền
dựa vào liên quan nhiều đến việc trái quy tắc về tố tụng trong quá
trình xét xử bằng trọng tài hoặc trong bản thân quyết định. Không
có sự mơ hồ trong Luật Mẫu. Nếu yêu cầu hủy thành công, quyết
định thường sẽ bị hủy toàn bộ hoặc một phần - mặc dù, như đã thấy,
có khả năng “cứu vớt” bằng việc trả về cho hội đồng trọng tài xem
xét lại [35, tr. 509].
Pháp luật quốc gia quy định những căn cứ hủy phán quyết trọng tài
không hoàn toàn giống nhau. Mỗi quốc gia quy định các căn cứ hủy phán
quyết trọng tài cho phù hợp với thực tế nước mình. Những căn cứ hủy phán
quyết trọng tài có thể giống hoặc khác nhau theo pháp luật các nước. Dưới
đây là một số căn cứ hủy phán quyết trọng tài thường được pháp luật các quốc
gia quy định:
- Bên tham gia thỏa thuận trọng tài không có năng lực ký kết thỏa thuận
hoặc thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu. Một yêu cầu để trọng tài có thẩm quyền
là phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Nếu không có thỏa thuận trọng tài



18

có hiệu lực sẽ không có trọng tài có thẩm quyền. Khi một trong các bên
không có năng lực ký kết thỏa thuận hoặc thỏa trọng tài vô hiệu có nghĩa là
không tồn tại thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý. Căn cứ này được pháp
luật nhiều quốc gia quy định như Đức, Singapore, Liên bang Nga... Theo
Điều 48 Luật Trọng tài Singapore, phán quyết trọng tài sẽ bị tòa án hủy nếu
bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chứng minh được rằng một bên trong
thỏa thuận trọng tài không có năng lực, hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Theo Điều 1059 Luật Trọng tài Đức, một bên trong thỏa thuận trọng tài
không có năng lực hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu là căn cứ để tòa án hủy
phán quyết trọng tài. Điều 34 Luật Trọng tài thương mại quốc tế Liên bang
Nga quy định rằng phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu bên yêu cầu chứng
minh được một trong các bên ký thỏa thuận trọng tài không có năng lực hoặc
thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Một bên không được thông báo đầy đủ về việc chỉ định trọng tài viên/tố
tụng trọng tài hoặc không có cơ hội để trình bày ý kiến của mình. Các bên
thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp vì thế mỗi bên trong vụ
tranh chấp đều phải có cơ hội để trình bày ý kiến của mình. Chỉ trên cơ sở
việc trình bày ý kiến của các bên, hội đồng trọng tài mới có thể đưa ra phán
quyết một cách khách quan và vô tư nhất. Các tiêu chuẩn tố tụng tối thiểu
phải được tôn trọng để việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài được thực hiện
công bằng và phù hợp.
Các tiêu chuẩn tố tụng này được xây dựng nhằm đảm bảo rằng
hội đồng trọng tài được thành lập đúng, thủ tục trọng tài phù hợp
với thỏa thuận của các bên (theo bất cứ quy định nào của luật áp
dụng) và các bên được thông báo thích hợp về thủ tục tố tụng. Nói
ngắn gọn, mục đích là đảm bảo rằng các bên được đối xử bình đẳng,



19

được xét xử công bằng với đầy đủ cơ hội thích hợp để trình bày vụ
việc của mình [35, tr. 500].
Căn cứ này được quy định tại pháp luật của nhiều quốc gia như Đức,
Trung Quốc, Singapore… Theo Điều 48 Luật Trọng tài Singapore, phán
quyết trọng tài bị tòa án hủy nếu bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chứng
minh được rằng một bên không được thông báo đầy đủ về việc chỉ định trọng
tài viên hoặc tố tụng trọng tài hoặc không có cơ hội để trình bày ý kiến của
mình. Điều 1059 Luật Trọng tài Đức quy định một căn cứ hủy phán quyết
trọng tài là trường hợp bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chứng minh
được rằng một bên không được thông báo đầy đủ về việc chỉ định trọng tài
viên hoặc tố tụng trọng tài hoặc không có cơ hội để trình bày ý kiến của mình.
Điều 40 Luật Trọng tài Trung Quốc quy định phán quyết trọng tài bị hủy nếu
một bên không có cơ hội trình bày ý kiến của mình trước khi kết thúc tố tụng
trọng tài.
- Phán quyết quyết định một vấn đề không được thỏa thuận giải quyết
bằng trọng tài hoặc nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của hội đồng trọng tài.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận.
Thẩm quyền của hội đồng trọng tài được xác định trên cơ sở thỏa thuận có
hiệu lực của các bên tranh chấp và theo quy định của pháp luật. Trọng tài
không thể thụ lý giải quyết vụ tranh chấp nếu không được các bên thỏa thuận
giải quyết tại trọng tài. Hơn nữa, trọng tài cũng không thể ra quyết định giải
quyết đối với những nội dung không được các bên tranh chấp thỏa thuận giải
quyết tại trọng tài. Hay nói cách khác, nếu vấn đề trình ra trọng tài không nằm
trong thỏa thuận sẽ không có trọng tài có thẩm quyền. Trong những trường
hợp trên, hội đồng trọng tài được coi là đã ra phán quyết trọng tài không đúng
thẩm quyền, ra phán quyết trọng tài mà không có thẩm quyền. Do vậy, không
đúng thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền được coi là căn cứ để một bên



20

trong vụ tranh chấp yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài. Nhiều quốc gia
đã ghi nhận căn cứ hủy phán quyết này trong pháp luật về trọng tài như Đức,
Singapore… Theo Điều 1059 Luật Trọng tài Đức, phán quyết trọng tài bị hủy
nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng phán quyết trọng tài giải quyết vụ
tranh chấp không được thỏa thuận đưa ra giải quyết tại trọng tài hoặc phán
quyết trọng tài có quyết định về vấn đề nằm ngoài phạm vi thỏa thuận giải
quyết tại trọng tài. Điều 48 Luật Trọng tài Singapore cũng quy định một căn
cứ để tòa án hủy phán quyết trọng tài là trường hợp bên yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài chứng minh được rằng phán quyết trọng tài giải quyết vụ tranh
chấp không được thỏa thuận giải quyết tại trọng tài hoặc phán quyết trọng tài
có quyết định về vấn đề nằm ngoài phạm vi thỏa thuận giải quyết tại trọng tài.
- Thành phần hội đồng trọng tài hoặc tố tụng trọng tài trái với thỏa
thuận của các bên hoặc quy định của pháp luật. Trong giải quyết tranh chấp
tại trọng tài, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp được tôn trọng. Các
bên tranh chấp lựa chọn trọng tài viên, tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, việc lựa
chọn trọng tài viên phải phù hợp với quy định của pháp luật. Để đảm bảo tính
độc lập của trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài,
pháp luật nhiều nước quy định một số đối tượng không được làm trọng tài
viên. Ví dụ, ở Liên bang Nga, thẩm phán tòa án chung hoặc tòa kinh tế, luật
sư, công chứng viên, điều tra viên, kiểm sát viên, nhân viên các cơ quan bảo
vệ pháp luật không được làm trọng tài viên [13, tr. 161]. Điều 812 Luật Trọng
tài Italia quy định công chức không được làm trọng tài viên. Ở Thụy Điển,
người đã từng là thẩm phán giải quyết tranh chấp đó không được làm trọng tài
viên [37, tr. 58-59]. Ở nước ta, khoản 2 Điều 20 Luật Trọng tài thương mại
cũng quy định một số đối tượng không được làm trọng tài viên như: thẩm
phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên… Pháp luật cũng quy định
về thủ tục tố tụng trọng tài mà hội đồng trọng tài phải tuân thủ trong quá trình



×