BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ HỒNG VINH
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHAN THỊ THANH MAI
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Lê Thị Hồng Vinh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
Nxb
: Nhà xuất bản
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân Tối cao
TTHS
: Tố tụng hình sự
MỤC LỤC
1.1.
1.1.1
1.1.2
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3
1.2.4
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.2.1
2.2.2
Trang
1
MỞ ĐẦU
6
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật
Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Những vấn đề lý luận chung về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
6
thẩm
Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
6
Căn cứ xác định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
12
Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội
18
đồng xét xử phúc thẩm
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm
18
Sửa bản án sơ thẩm
21
Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại
32
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
37
Kết luận Chƣơng I
42
43
Chƣơng II: Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về
thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của
43
Hội đồng xét xử phúc thẩm
Những kết quả đạt đƣợc trong quá trình thực hiện thẩm quyền của Hội
43
đồng xét xử phúc thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2003
Những hạn chế, vƣớng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền của Hội
46
đồng xét xử phúc thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2003
Nguyên nhân của những hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành
54
các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện thẩm
61
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Giải pháp về mặt pháp luật
61
Một số giải pháp khác
66
Kết luận chƣơng II
69
70
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm trong tố tụng hình sự là
tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho HĐXX phúc thẩm đƣợc xem xét và
quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với vụ án hình sự mà bản án, quyết
định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm kiểm tra lại
tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với bản án, quyết định sơ thẩm đó, đồng thời
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự bằng một bản án hoặc quyết định hợp pháp và có
căn cứ. Việc quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm rõ ràng, cụ thể, hợp lý tạo
cơ sở pháp lý để HĐXX phúc thẩm có thể thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử lại vụ án về
mặt nội dung và xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định
sơ thẩm. Để đảm bảo cho HĐXX phúc thẩm hoàn thành nhiệm vụ nói trên, pháp
luật tố tụng hình sự đã quy định HĐXX phúc thẩm có quyền ra một trong các quyết
định sau: không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam đã
đƣợc quy định tƣơng đối đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
1988. Sau gần 15 năm áp dụng các quy định của BLTTHS cho thấy bên cạnh những
kết quả đạt đƣợc trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự nói chung và phúc thẩm
nói riêng còn nhiều vƣớng mắc làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng và hiệu quả của hoạt
động xét xử các vụ án hình sự. BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung
trong quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, góp phần đáp ứng đƣợc
yêu cầu của công tác xét xử phúc thẩm trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, có thể
thấy chƣa có bƣớc chuyển rõ rệt trong chế định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm qua hai bộ luật này. Quy định hiện hành còn những điểm bất cập nhƣ không
quy định căn cứ để HĐXX phúc thẩm ra các quyết định không chấp nhận kháng
cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm; quy định thiếu
các trƣờng hợp sửa án theo hai hƣớng có lợi và bất lợi cho bị cáo, … Thực tiễn xét
xử thời gian qua cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Tòa án cấp phúc thẩm tồn tại không ít vấn đề vƣớng mắc nhƣ định tội danh, áp
2
dụng không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự (BLHS), cho bị cáo hƣởng án treo
không đúng, quyết định hình phạt dƣới mức thấp nhất của khung hình phạt ,….
Việc nghiên cứu các quy định tố tụng hình sự về thẩm quyền của HĐXX phúc
thẩm một cách đầy đủ với mục đích phát hiện những bất cập, vƣớng mắc trong thực
tiễn nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLTTHS nói chung và hoàn thiện
các quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm là cần thiết trong giai đoạn hiện
nay. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Bộ Chính trị xác định tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020
là:“….Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân, đảm bảo Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân
định thẩm quyền xét xử của Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp
xét xử,…”.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
trong tố tụng hình sự” cả về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm
quyền của HĐXX phúc thẩm để nâng cao chất lƣợng xét xử là cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm luôn có sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều tác giả; theo đó đã có nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này đã
đƣợc công bố, trong đó có thể chia các công trình nghiên cứu về thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm thành các nhóm nhƣ sau:
Những vấn đề chung về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đƣợc đề cập đến
trong một số giáo trình, tài liệu chuyên ngành nhƣ: Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam của Trƣờng Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản (Nxb) Công an nhân dân
năm 2010; Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự của PGS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2004.
Một số công trình nghiên cứu liên quan đến một phần của đề tài nhƣ: Luận án
tiến sỹ “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của tác giả Vũ Gia Lâm
(2008); luận văn thạc sỹ “Phạm vi xét xử phúc thẩm của TAND theo BLTTHS năm
2003” của tác giả Ngô Thị Trang (2007); luận văn thạc sỹ “Giới hạn xét xử trong
TTHS Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Ánh (2007); Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
3
trƣờng “Giai đoạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt nam – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2003), “Pháp luật hình sự- Thực tiễn xét
xử và án lệ”, Nxb Lao động- xã hội, Hà Nội của tác giả Đinh Văn Quế (2005).
Một số công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về đề tài trên phải kể đến
nhƣ: “Thủ tục phúc thẩm trong Luật TTHS Việt Nam” của tác giả Đinh Văn Quế,
Nxb Chính trị quốc gia năm (1998); luận án tiến sỹ “Phúc thẩm trong tố tụng hình
sự” của tác giả Nguyễn Đức Mai (2004); luận án tiến sỹ “Thẩm quyền của Tòa án
các cấp theo luật TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huyên (2002); luận văn
thạc sỹ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Văn Tiến (1998); luận văn thạc sỹ “Phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” của
tác giả Phan Thị Thanh Mai (1998). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này
đều đã khá lâu, trƣớc khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật liên quan đến vấn đề này bao
gồm: “Hoàn thiện một số quy định về xét xử phúc thẩm hình sự nhằm thực hiện có
hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” của tác giả Vũ Gia Lâm (Tạp chí TAND số
23/2006), Bàn về nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, của tác giả
Phan Thị Thanh Mai (Tạp chí Luật học số chuyên đề 3/2003); Bàn về quyền kháng
cáo, kháng nghị và xét xử phúc thẩm theo hướng tăng nặng đối với bị cáo, của tác
giả Nguyễn Văn Trƣợng (Tạp chí Kiểm sát số 01/2010), “Tòa án cấp phúc thẩm áp
dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Đinh Văn Quế ( Tạp chí TAND số 5/2008), “Một số vấn đề cần chú ý khi áp
dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” của tác giả Đinh Văn
Quế (Tạp chí TAND số 4/2010), “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” của
tác giả Hoàng Thị Sơn (Tạp chí luật học số 6/1997), “Thấy gì qua một số vụ án bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí TAND
số 20/2008), “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của HĐXX phúc thẩm
vụ án hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm (Tạp chí TAND số 18/2009)….
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây hoặc mang tầm bao quát
toàn bộ những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm;
hoặc đi sâu nghiên cứu về một hoặc một số vấn đề về thẩm quyền của HĐXX phúc
thẩm mà chƣa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ,
chuyên sâu, toàn diện về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Vì vậy, việc nghiên
4
cứu thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn để từ
đó đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLTTHS về thẩm quyền
của HĐXX trong giai đoạn xét xử phúc thẩm là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật
và thực tiễn về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm nhằm đƣa ra những giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tố
tụng hình sự.
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm, căn cứ xác định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
- Phân tích các quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm, xác định những bất cập trong các quy định.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, xác định vƣớng mắc và nguyên nhân.
- Đƣa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm, pháp luật về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm, thực tiễn thi
hành quy định của pháp luật thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của luận văn thạc sỹ, chúng tôi tập trung
vào việc nghiên cứu khái niệm, căn cứ xác định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm;
tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và văn bản hƣớng
dẫn thi hành, cụ thể phân tích 4 điều luật về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm đƣợc quy định tại Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251 BLTTHS năm
2003; nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm
quyền của HĐXX phúc thẩm trong phạm vi cả nƣớc trong thời gian 5 năm từ năm
2008 đến năm 2012.
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê
Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về nhà nƣớc
và pháp luật, về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tƣ
pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là: Phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử và khảo sát thực tiễn cũng nhƣ tham khảo ý
kiến chuyên gia để giải quyết những vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Đây là công trình nghiên cứu hệ thống, tƣơng đối toàn diện về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm, đặc biệt là theo quy định của BLTTHS hiện hành. Vì
vậy, chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn
thiện các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan, trong thực
tiễn tố tụng, trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
viết tắt, luận văn gồm 2 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
Chƣơng II: Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
6
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
“Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng của khoa học pháp lý. Theo từ
điển Tiếng Việt, thẩm quyền là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề
theo pháp luật”. [52, tr.890].
Theo từ điển luật học thì “thẩm quyền” là quyền chính thức đƣợc xem xét để
kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề”.[ 6, tr. 701 ]
Xét xử các vụ án nói chung và các vụ án hình sự nói riêng là chức năng đặc
thù của Tòa án và chỉ do Tòa án thực hiện. Điều này đƣợc thể hiện trong quy định
của điều 127, điều 72 Hiến pháp 1992 và điều 1 Luật Tổ chức Tòa án : “Tòa án
nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phƣơng, các Tòa án quân sự và các Tòa
án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Theo quy định của pháp luật thì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét
xử các vụ án mà không một cơ quan nhà nƣớc nào có đƣợc quyền này. Để đảm bảo
cho Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử, Nhà nƣớc đã giành cho Tòa án nhiều
quyền năng pháp lý, cho phép Tòa án đƣợc xem xét và quyết định về các vụ án
trong cùng một giới hạn và phạm vi nhất định. Các Tòa án đều thực hiện chức năng
xét xử, nhƣng mỗi cấp Tòa án tham gia vào việc thực hiện chức năng này ở những
mức độ, phạm vi khác nhau. Vì vậy, mỗi cấp Tòa án đƣợc pháp luật giành cho các
quyền hạn hay thẩm quyền khác nhau trong việc xét xử các vụ án. Theo cấp giải
quyết vụ án, thẩm quyền của Tòa án đƣợc phân thành thẩm quyền của Tòa án cấp
sơ thẩm, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, thẩm quyền của Tòa án cấp giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. Theo tính chất của vụ án, thẩm quyền của Tòa án đƣợc
phân thành thẩm quyền về hình sự, thẩm quyền về dân sự, thẩm quyền về hành
chính, thẩm quyền về kinh tế, thẩm quyền về lao động.
Trong tố tụng hình sự, khái niệm thẩm quyền của Tòa án đƣợc xem xét ở
những góc độ khác nhau. Thạc sỹ Nguyễn Văn Tiến cho rằng, thẩm quyền của Tòa
án bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi xét xử và quyền hạn quyết định của Tòa án
đối với vụ án” [43]. Khi đề cập về thẩm quyền cấp giám đốc thẩm, Tiến sỹ Nguyễn
7
Văn Hiện cho rằng “thẩm quyền” là: “tập hợp các quy định pháp luật tố tụng hình
sự liên quan đến việc giao vụ án … cho cấp Tòa án nào giải quyết, phạm vi các vấn
đề cần giải quyết và quyền ra các quyết định của Tòa án … trong quá trình giải
quyết vụ án” [8]. Tiến sỹ Nguyễn Văn Huyên cho rằng: “Thẩm quyền của Tòa án là
tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án đƣợc xét xử những vụ án cụ
thể và quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét
xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định.” [20].
Nhƣ vậy, tuy xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, nhƣng các tác giả đều thừa
nhận khái niệm thẩm quyền của Tòa án bao gồm các quyền khác nhau của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án. Thẩm quyền của Tòa án có thể phân thành thẩm
quyền về mặt hình thức- đƣợc thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét,
tức là xác định xem những vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án, Tòa án
đƣợc xem xét vấn đề đó trong phạm vi, giới hạn nào, và thẩm quyền về mặt nội
dung - thể hiện ở quyền hạn giải quyết, việc ra các quyết định đối với vấn đề đã
xem xét. Đây là hai nội dung (hai yếu tố) có mối quan hệ không thể tách rời, thẩm
quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là cơ sở để xác định thẩm quyền quyết
định của Tòa án vì Tòa án chỉ có thể quyết định những vấn đề đƣợc xem xét trong
phạm vi, giới hạn nhất định. Ngƣợc lại, những vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét
của Tòa án sẽ chỉ có ý nghĩa khi đƣợc giải quyết bằng những quyết định của Hội
đồng xét xử.
Theo đó, khái niệm thẩm quyền của Tòa án đƣợc xác định là: “tổng hợp các
quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án đƣợc xét xử những vụ án cụ thể và quyết
định những vấn đề về nội dung vụ án theo quy định của pháp luật.”
Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là một vấn đề lớn, có nội dung phức
tạp, có liên quan đến nhiều chế định quan trọng khác của tố tụng hình sự. Trong tố
tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm cũng bao gồm hai mặt có mối
quan hệ biện chứng với nhau, đó là thẩm quyền về mặt nội dung và thẩm quyền về
mặt hình thức. Thẩm quyền về mặt hình thức của Tòa án cấp phúc thẩm xác định
các vụ án hình sự, các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nào thuộc thẩm
quyền xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn- phạm vi, mức độ xem xét của
Tòa án cấp phúc thẩm đối với các vụ án đó. Hay nói cách khác, thẩm quyền về mặt
hình thức xác định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét cái gì, ở mức độ, giới
8
hạn nào. Thẩm quyền về mặt nội dung của Tòa án cấp phúc thẩm xác định các
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án
khi xem xét chúng. Thẩm quyền xem xét (thẩm quyền về hình thức) của Tòa án cấp
phúc thẩm bao gồm thẩm quyền xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm.
Thẩm quyền quyết định (thẩm quyền về nội dung) của Tòa án cấp phúc thẩm thể
hiện ở các quyền hạn của Tòa án khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các vụ án bị
kháng cáo hoặc kháng nghị. Hai yếu tố (nội dung) của thẩm quyền của Tòa án cấp
phúc thẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thẩm quyền về hình thức của Tòa án
cấp phúc thẩm là cơ sở xác định thẩm quyền về nội dung của nó, ngƣợc lại, những
vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có ý nghĩa khi
đƣợc giải quyết bằng những quyết định cụ thể về vụ án đó. Mặt khác, khi xem xét
các vụ án hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm còn phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật hình sự, pháp luật dân sự để ra các quyết định cụ thể về vụ án. Khi giải quyết
một vụ án hình sự, bên cạnh việc giải quyết các quan hệ pháp luật hình sự, Tòa án
cấp phúc thẩm còn giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Ví dụ: khi xét xử
một vụ án giết ngƣời, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ quyết định về tội danh, điều
luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo, mà còn giải quyết vấn đề bồi thƣờng
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Thạc sỹ Nguyễn Văn Tiến đã nêu khái niệm
thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự là “toàn bộ các quyền
hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định
các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự đã đƣợc các Tòa án cấp dƣới trực tiếp xét xử
sơ thẩm những bản án, quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật do có kháng cáo, bị
kháng nghị”. [43,tr.10]. Khái niệm này nêu đƣợc một cách khá toàn diện về thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trên cơ sở khái niệm chung về thẩm quyền của
Tòa án.
Ở góc độ nghiên cứu khoa học tố tụng hình sự, thẩm quyền ra quyết định của
Tòa án tại phiên tòa thuộc về Hội đồng xét xử. Khái niệm thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm đƣợc xác định trên cơ sở khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm, bởi việc trực tiếp tiến hành các thủ tục xét xử phúc thẩm và ra bản án để giải
quyết vụ án hình sự là vai trò của HĐXX theo sự phân công của Chánh án Tòa án
cấp phúc thẩm.
9
Hội đồng xét xử là “Hội đồng bao gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh Nhà nƣớc trực tiếp xét xử tại phiên
tòa các vụ án và ra các bản án hoặc quyết định đối với các vụ án”. [6, tr.384]
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và trong trƣờng hợp cần thiết
có thể có thêm hai Hội thẩm.
Theo quy định của pháp luật, thành phần HĐXX phúc thẩm có những điểm
khác biệt so với HĐXX sơ thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong thành phần
HĐXX sơ thẩm, việc Hội thẩm tham gia là một nguyên tắc bắt buộc để đảm bảo
tính nhân dân trong hoạt động xét xử, góp phần tăng cƣờng quan hệ giữa Tòa án và
nhân dân để đảm bảo cho công tác xét xử đƣợc chính xác, đảm bảo kết hợp kiến
thức chuyên môn của Thẩm phán và kinh nghiệm thực tế của Hội thẩm làm cho
công tác xét xử đƣợc đúng ngƣời, đúng tội, vừa có tình, vừa có lý, nâng cao hiệu
quả giáo dục của xét xử. Để đảm bảo việc Hội thẩm tham gia không chỉ là hình
thức, pháp luật quy định số lƣợng Hội thẩm trong HĐXX sơ thẩm bao giờ cũng
chiếm đa số. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm kiểm tra, đánh giá tính
hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm, xem xét vụ án về mặt nội dung
trong phạm vi quyền hạn của mình, khắc phục những thiếu sót của Tòa án cấp sơ
thẩm. Do đó, thành phần HĐXX phúc thẩm cần phải có tính chuyên môn cao, vững
chắc so với cấp xét xử thứ nhất thể hiện ở số lƣợng Thẩm phán tham gia xét xử, đó
là thành phần HĐXX phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán, không đƣợc thay thế Thẩm
phán bằng Hội thẩm. Trong trƣờng hợp cần thiết có thể mời Hội thẩm nhƣng số Hội
thẩm không đƣợc vƣợt quá số Thẩm phán. Những trƣờng hợp cần thiết phải mời
thêm Hội thẩm thƣờng là những vụ án nghiêm trọng, đông bị cáo, những vụ án mà
bị cáo là ngƣời có chức sắc trong tôn giáo hoặc dân tộc ít ngƣời, hành vi của bị cáo
liên quan đến chính sách dân vận, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta hoặc
bị cáo chƣa thành niên mà Thẩm phán không am hiểu nhiều về đối tƣợng chƣa
thành niên. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, sự tham gia của Hội thẩm có kinh
nghiệm về những vấn đề đó là điều cần thiết và nhằm đảm bảo cho việc xét xử phúc
thẩm những vụ án này toàn diện, khách quan và chính xác. Việc xét xử phúc thẩm
có sự tham gia của Hội thẩm cũng là điểm khác biệt giữa thủ tục phúc thẩm và thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Do tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm là xét lại bản
10
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về mặt áp dụng luật mà không
xét xử về nội dung, vì vậy thành phần HĐXX không có Hội thẩm tham gia.
Tòa án cấp phúc thẩm vừa là cấp xét xử thứ hai, vừa là một cấp giám đốc
việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc
thẩm đồng thời thực hiện cả hai chức năng vừa xét xử lại vụ án về nội dung, vừa
kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Theo chúng tôi, khái niệm “Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm” bao gồm
các đặc trƣng sau:
- Về chủ thể thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Nhƣ trên đã nói, việc
trực tiếp tiến hành các thủ tục xét xử phúc thẩm và ra bản án để giải quyết vụ án
hình sự là vai trò của HĐXX theo sự phân công của Chánh án Tòa án cấp phúc
thẩm. Chủ thể thực hiện thẩm quyền này là những ngƣời đƣợc bổ nhiệm Thẩm phán
tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng, Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân Tối cao (TANDTC) - là những Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
những vụ án hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 24 và khoản 2 Điều 28 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng, Chánh án TANDTC ủy quyền cho Chánh tòa Tòa phúc
thẩm TANDTC quyết định lựa chọn và phân công nhiệm vụ cho 3 Thẩm phán trong
trƣờng hợp thông thƣờng (và thêm 2 Hội thẩm trong trƣờng hợp cần thiết) để thành
lập HĐXX phúc thẩm để xét xử vụ án hình sự (Điều 38 BLTTHS).
- Cơ sở phát sinh thẩm quyền: Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đƣợc
phát sinh trong nhiệm vụ giải quyết từng vụ án cụ thể đƣợc Chánh án Tòa án cấp
phúc thẩm phân công. Đó là những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật do bị kháng cáo hoặc kháng nghị của những ngƣời
có quyền kháng cáo, kháng nghị. Những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là căn cứ
để bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật và cũng là cơ sở phát sinh
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm.
- Đối tƣợng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm: HĐXX phúc thẩm có quyền
xem xét và quyết định đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với các phần khác của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX phúc thẩm chỉ xem xét trong trƣờng hợp
xét thấy cần thiết. Bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
11
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Sau khi hết thời hạn theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự mà không có bất kỳ kháng cáo, kháng nghị nào tức là những
ngƣời có quyền kháng cáo và kháng nghị đã thừa nhận tính đúng đắn, phù hợp của
bản án, quyết định sơ thẩm. Theo đó, bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật và đƣợc đƣa ra thi hành không phải là đối tƣợng cần phải xem xét lại theo
thủ tục phúc thẩm. Nếu sau đó phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng khi giải quyết vụ án hoặc phát hiện ra những tình tiết mới làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật sẽ trở thành đối tƣợng xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây cũng là
điểm khác biệt cơ bản để phân biệt thẩm quyền phúc thẩm với thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm.
- Nội dung của thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Trên cơ sở kháng cáo, kháng
nghị hợp lệ HĐXX phúc thẩm sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại đối với những bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, thẩm quyền xét xử phúc
thẩm gồm có hai nội dung là xét xử lại về mặt nội dung và kiểm tra tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Thứ nhất, HĐXX phúc thẩm tiến
hành xét xử lại vụ án về mặt nội dung, tức là xem xét, đánh giá lại sự thật của vụ án
trên cơ sở tất cả những chứng cứ cũ và chứng cứ mới đƣợc bổ sung trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm. Thứ hai, HĐXX phúc thẩm tiến hành xem xét lại tính hợp pháp
(thể hiện ở chỗ bản án, quyết định đó phải phù hợp với những quy định của pháp
luật cả về nội dung và hình thức) và tính có căn cứ (thể hiện ở chỗ những kết luận
trong bản án phù hợp với những sự kiện thực tế của vụ án từ những chứng cứ đã
đƣợc xem xét, đánh giá công khai tại phiên tòa).
- Phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Phạm vi thực hiện thẩm
quyền xét xử phúc thẩm là giới hạn mà pháp luật quy định cho Tòa án cấp phúc
thẩm đƣa ra các quyết định có tính chất quyền lực nhà nƣớc để giải quyết các vấn
đề trong vụ án hình sự. Kháng cáo, kháng nghị hợp pháp của các chủ thể có quyền
kháng cáo, kháng nghị là cơ sở pháp lý để HĐXX phúc thẩm xác định phạm vi xét
xử của mình. HĐXX phúc thẩm chỉ xem xét, giải quyết phần nội dung của bản án,
quyết định sơ thẩm có kháng cáo, bị kháng nghị. Còn các phần khác của bản án
không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét khi xét thấy
cần thiết. Trƣờng hợp cần thiết để HĐXX phúc thẩm xem xét có thể là các trƣờng
12
hợp nhƣ phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị liên quan đến phần
bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; có các căn cứ để giảm nhẹ về hình sự cho
các bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị; phần bản án sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có căn cứ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại
hoặc xét xử lại hay đình chỉ vụ án. Đối với những khoản về bồi thƣờng thiệt hại,
nếu không có kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX phúc thẩm không xem xét.
Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu trên, chúng tôi xin đƣa ra khái niệm về
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm nhƣ sau: “Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm là
tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho HĐXX phúc thẩm được xem xét và
quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với vụ án hình sự mà bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm kiểm tra
lại tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với bản án, quyết định sơ thẩm đó, đồng thời
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự bằng một bản án hoặc quyết định hợp pháp và có
căn cứ.”
1.1.2. Căn cứ xác định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng hình sự nói chung và thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng đƣợc xác định dựa trên nhiều căn cứ khác nhau.
Các căn cứ xác định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu khoa học luật Tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu, căn cứ xác định
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm dựa trên căn cứ xác định thẩm quyền của Tòa án
cấp phúc thẩm, gồm các căn cứ sau:
- Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là một trong những căn cứ quan
trọng để xác định thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp
phúc thẩm nói riêng, cụ thể hơn là thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Các nguyên
tắc này liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất và là cơ sở để
xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và các chế định cụ thể của nó,
trong đó có chế định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm).
Trong số các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, các nguyên tắc: hai cấp
xét xử; bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Thẩm phánvà
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; giám đốc việc xét xử; giải quyết
13
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;… có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Việc quy định thẩm quyền của HĐXX phúc
thẩm trong việc xem xét và quyết định về vụ án hình sự phải đảm bảo các nguyên
tắc của tố tụng hình sự đƣợc tuân thủ một cách nghiêm chỉnh trong hoạt động xét
xử phúc thẩm của HĐXX.
Hai cấp xét xử là một nguyên tắc đƣợc pháp luật của hầu hết các nƣớc thừa
nhận và áp dụng trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự. Theo nguyên tắc này, sau khi xét
xử sơ thẩm, nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị, thì vụ án đƣợc xét xử lại ở Tòa án cấp trên. Khi xét xử
lại vụ án, HĐXX phúc thẩm không chỉ xem xét về mặt áp dụng luật mà còn giải
quyết nội dung vụ án. Nhƣ vậy, nguyên tắc hai cấp xét xử không chỉ là một trong
những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, trong đó có Tòa án
cấp phúc thẩm, là một trong những bảo đảm quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị cáo, ngƣời bị hại, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,… mà còn
là căn cứ để xác định tính chất, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐXX phúc thẩm.[26, tr.35].
Nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”
có vai trò rất quan trọng, là một trong những điều kiện cần thiết bảo đảm cho bị cáo
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc Tòa án. Việc xác định nguyên
tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự xuất phát từ chỗ
trong số các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự thì ngƣời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là chủ thể luôn luôn ở địa vị pháp lý bất lợi nhất và là đối tƣợng của việc
buộc tội. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định các điều kiện cần thiết
bảo đảm cho ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể thực hiện đƣợc việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trƣớc Tòa án và có quyền chống lại việc buộc
tội. Khi có kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định (hoặc kháng cáo quá hạn
nhƣng có lý do chính đáng) thì vụ án phải đƣợc xét xử ở Tòa án cấp cao hơn. Nó
không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo và dân chủ của tố tụng hình sự mà còn là
phƣơng tiện để bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Xuất phát từ
nguyên tắc này, thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm phải đƣợc pháp luật tố tụng quy
định chặt chẽ và việc thực hiện các thẩm quyền đó phải có căn cứ, và các điều kiện
pháp lý cần thiết để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử phúc thẩm.
14
Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án bảo đảm cho nó
thực hiện tốt chức năng nhân danh Nhà nƣớc xét xử các vụ án nói chung và các vụ
án hình sự nói riêng đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời không cho
phép Tòa án tham gia vào việc thực hiện các chức năng khác trong tố tụng hình sự
(chức năng buộc tội, bào chữa). Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập có
nghĩa là khi tiến hành xét xử họ không bị lệ thuộc vào những ý kiến của những cơ
quan, tổ chức, ngƣời có chức vụ quyền hạn nào đó, không phụ thuộc vào ý kiến của
những cơ quan, những ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng khác. Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập xét xử cũng có nghĩa khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với
nhau. Thẩm phán và Hội thẩm là thành viên của HĐXX độc lập với nhau trong
nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đƣa ra các kết luận về sự việc
phạm tội và ngƣời thực hiện tội phạm, không lệ thuộc và quan điểm, chính kiến của
các thành viên khác trong HĐXX, Thẩm phán là ngƣời biểu quyết sau cùng để
không ảnh hƣởng đến tính độc lập của Hội thẩm. Các vấn đề giải quyết của vụ án
phải đƣợc giải quyết bằng biểu quyết và quyết định đa số. Nội dung này đảm bảo
tính khách quan, công bằng của các quyết định do Tòa án đƣa ra, đề cao trách
nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, bảo đảm chất lƣợng của hoạt
động xét xử. Khi xét xử Tòa án có quyền độc lập, nhƣng quyền độc lập của Tòa án
nói chung và Tòa án cấp phúc thẩm (HĐXX phúc thẩm) nói riêng phải trên cơ sở
các quy định của pháp luật. Sự độc lập của Tòa án cấp phúc thẩm đƣợc thể hiện
trong quan hệ giữa các cấp xét xử, đó là Tòa án cấp trên không đƣợc quyết định
hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dƣới trƣớc khi xét xử một vụ án cụ thể. HĐXX phúc
thẩm khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại không đƣợc quyết định trƣớc những
chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng
nhƣ không quyết định trƣớc về điều khoản mà BLHS và hình phạt mà Tòa án cấp sơ
thẩm sẽ phải áp dụng. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật,
điều này có nghĩa khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ, phải dựa vào
các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không đƣợc tùy tiện, chủ quan
trong việc áp dụng pháp luật. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, HĐXX sẽ đƣa
ra các phán quyết của mình về việc phạm tội và hành vi phạm tội của bị cáo một
cách chính xác. “Độc lập xét xử” và “tuân theo pháp luật” là hai yếu tố, hai mặt
15
thống nhất không thể tách rời nhau của một nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập vào chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật còn là căn cứ để xác định thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm khi hủy bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại không
có quyền áp đặt cách giải quyết vụ án đối với Tòa án cấp sơ thẩm.
Nguyên tắc “giám đốc việc xét xử” là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự với nội dung Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dƣới,
TANDTC giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để
bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật đƣợc tiến hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Công tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động của Tòa án cấp
dƣới thể hiện ở việc kiểm tra, xem xét hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với
Tòa án cấp dƣới; phát hiện những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động xét xử của Tòa
án cấp dƣới, từ đó sửa chữa, hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới áp dụng thống nhất pháp
luật. Công tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của
Tòa án cấp dƣới còn thể hiện bằng việc xem lại các bản án và quyết định theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nguyên tắc này bảo đảm cho việc chấp
hành pháp luật đƣợc nghiêm chỉnh và thống nhất; bảo đảm tính đúng đắn của bản
án và quyết định của Tòa án; góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng xét xử của Tòa
án cũng nhƣ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Nguyên tắc này là
căn cứ xác định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đó là việc thực hiện chức năng
giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới, kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật, khắc phục những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp dƣới. [56, tr.78].
Nguyên tắc “giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự” là một nguyên
tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, theo đó, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự đƣợc tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Khi giải quyết
những vấn đề này, về nội dung các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các quy định
của luật dân sự; về thủ tục tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những quy
định của BLTTHS quy định cụ thể về việc giải quyết những vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự. Trong trƣờng hợp có những vấn đề không đƣợc BLTTHS quy định thì
áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong trƣờng hợp vụ án hình
sự phải giải quyết những vấn đề bồi thƣờng, bồi hoàn chƣa có điều kiện chứng minh
16
và không ảnh hƣởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải
quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trên cơ sở nguyên tắc này, BLTTHS quy định
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm khi giải quyết một vụ án hình sự theo thủ tục
phúc thẩm, ngoài giải quyết phần quyết định về trách nhiệm hình sự (nhƣ định tội
danh, hình phạt,…) thì còn phải giải quyết về trách nhiệm dân sự khi có kháng cáo,
kháng nghị về bồi thƣờng thiệt hại. [56,tr.57]
Ngoài ra, một số nguyên tắc khác của tố tụng hình sự cũng là các căn cứ xác
định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (HĐXX phúc thẩm) ở những phạm vi
và mức độ khác nhau.
-Căn cứ vào sự phân định các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
Các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự cũng là một căn cứ quan trọng để
xác định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Trong tố tụng hình sự luôn tồn tại ba
chức năng cơ bản, đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét
xử, trong đó chức năng xét xử chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất là tòa án. Đây là
nguyên tắc hiến định đƣợc ghi nhận tại Điều 127 Hiến pháp nƣớc ta. Chức năng xét
xử của Tòa án là căn cứ để xác định nhiệm vụ, quyền hạn – thẩm quyền của Tòa án
nói chung và thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm nói riêng trong việc xem xét và
quyết định về các vụ án hình sự. Chức năng này của Tòa án xác định các quyền hạn
của HĐXX phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết
định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, phát hiện và
khắc phục kịp thời các vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm. Chức năng này của Tòa án
không cho phép Tòa án nói chung và HĐXX phúc thẩm nói riêng thực hiện các
quyền hạn thuộc về chức năng buộc tội hay bào chữa. Bởi vì, vai trò của Tòa án
trong tố tụng hình sự là ngƣời trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để
phân xử. Một khi Tòa án đứng về phía buộc tội hay bên bào chữa thì sẽ phá vỡ sự
bình đẳng giữa hai bên tranh tụng và không thể đạt đƣợc mục đích của tố tụng hình
sự là xác định sự thật khách quan của vụ án.
-Căn cứ vào sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì Tòa án có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự mà bản án, hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã
xét xử sơ thẩm vụ án. Nhƣ vậy, thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
17
đƣợc xác định gián tiếp thông qua thẩm quyền xét xử sơ thẩm. “Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm là cơ sở xác định thẩm quyền của Tòa án các cấp” .[26,tr.37]
Sự mở rộng hay thu hẹp thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ảnh
hƣởng trực tiếp đến thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án cũng nhƣ chất lƣợng
xét xử phúc thẩm. Vì vậy, việc phân định hợp lý các vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là một trong những bảo đảm sự cân đối trong
hoạt động xét xử giữa các cấp Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất
lƣợng xét xử.
- Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng
hình sự
Tính chất của phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án
hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Nhiệm vụ của HĐXX phúc thẩm là kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của
bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật thông qua việc xét xử lại
vụ án về nội dung. Ngoài việc khắc phục các vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm đƣợc
nêu trong kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm còn có nhiệm vụ tự mình phát
hiện các sai sót ở các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị và kịp thời khắc phục các sai sót đó. Việc xác định thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm trong tố tụng hình sự phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án
cấp phúc thẩm nhằm bảo đảm cho nó hoàn thành đƣợc chức năng, nhiệm vụ của
mình một cách có hiệu quả.
-Căn cứ vào nội dung kháng cáo, kháng nghị
Nội dung kháng cáo, kháng nghị là căn cứ để xác định thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm. Kháng cáo của bị cáo, ngƣời bị hại và những ngƣời tham gia tố
tụng khác, kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp đối với
bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật không chỉ là căn cứ làm phát
sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm, mà còn xác định phạm vi hoạt động của các chủ
thể nói chung và phạm vi xét xử phúc thẩm của Tòa án nói riêng trong giai đoạn
này. Việc kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ hoặc một phần bản án chƣa có
hiệu lực pháp luật; việc thay đổi, bổ sung hay rút một phần, rút toàn bộ kháng cáo,
kháng nghị của các chủ thể đều ảnh hƣởng đến các quyền hạn của HĐXX phúc
thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án. HĐXX phúc
18
thẩm chỉ có quyền xét lại những bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị, xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và nếu cần
thiết có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong trƣờng
hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải
đƣợc đình chỉ. Quyền hạn của HĐXX phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định
về vụ án sẽ không bị hạn chế bởi nội dung của kháng cáo, kháng nghị, nếu điều đó
không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
1.2. Những quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Hội đồng
xét xử phúc thẩm
Khoản 2 Điều 248 BLTTHS năm 2003 quy định khi xét xử phúc thẩm, HĐXX
phúc thẩm có quyền: 1) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản
án sơ thẩm; 2) Sửa bản án sơ thẩm; 3) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
để điều tra lại hoặc xét xử lại; 4) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
1.2.1. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm
Theo điểm a, khoản 2 Điều 248 BLTTHS quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm”.
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm là
việc HĐXX phúc thẩm ra quyết định giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm, không
thay đổi. Trƣờng hợp bản án sơ thẩm có nhiều kháng cáo, kháng nghị, việc HĐXX
phúc thẩm không chấp nhận một số kháng cáo, kháng nghị, giữ nguyên phần bản án
bị kháng cáo, kháng nghị đó, đồng thời chấp nhận một số kháng cáo, kháng nghị
khác và quyết định sửa án hoặc quyết định hủy án thì đƣợc coi là trƣờng hợp sửa án
sơ thẩm hoặc hủy án sơ thẩm chứ không phải là trƣờng hợp giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Ví dụ: Đối với kháng cáo tăng hình phạt, nếu HĐXX phúc thẩm ra quyết định
không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm thì đƣợc coi là trƣờng
hợp không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm; nếu HĐXX phúc
thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo và sửa một phần án sơ thẩm thì
đƣợc coi là trƣờng hợp sửa án sơ thẩm; nếu HĐXX phúc thẩm ra quyết định không
chấp nhận kháng cáo và hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại vì vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng tại phiên tòa thì đƣợc coi là trƣờng hợp hủy bản án sơ thẩm để xét xử
lại; nếu HĐXX phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo và đình chỉ vụ
án vì bị cáo chết thì đƣợc coi là trƣờng hợp hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
19
Khi xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm có quyền không chấp nhận kháng
cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu bản án sơ thẩm có căn cứ và
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Hay nói cách
khác, trong quá trình xét xử phúc thẩm, sau khi xem xét toàn bộ vụ án, HĐXX thấy
không có căn cứ để thỏa mãn kháng cáo, kháng nghị thì ra quyết định không chấp
nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Pháp luật tố tụng hình
sự một số nƣớc cũng quy định cho Tòa án cấp phúc thẩm có quyền này. Ví dụ: Điều
136 BLTTHS Trung Quốc quy định: “Sau khi thụ lý giải quyết vụ án theo kháng
cáo, kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải
ra một trong những quyết định sau: Giữ nguyên bản án vì sự việc trong bản án cũ là
có thực, việc áp dụng biện pháp là đúng đắn, hình phạt thích hợp, kháng cáo, kháng
nghị không đƣợc chấp nhận…”. Điều 339 BLTTHS Liên bang Nga quy định: “Tòa
án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây: Giữ nguyên bản án, không
chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị…”. Điều 514 BLTTHS Cộng hòa Pháp quy
định: “… Tòa tiểu hình phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu xét thấy việc
kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ dù đã đƣợc chấp nhận.” [20, tr.103]
Theo pháp luật tố tụng hình sự của nƣớc ta, HĐXX phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo, kháng nghị về hình thức hoặc nội dung. Kháng cáo, kháng nghị
không đƣợc chấp nhận về hình thức thƣờng là kháng cáo, kháng nghị không đúng
về phạm vi quyền kháng cáo, thủ tục, thời hạn do luật quy định (vi phạm các Điều
231, 232, 233, 234 BLTTHS). Trong trƣờng hợp không chấp nhận kháng cáo,
kháng nghị về mặt hình thức thì HĐXX phúc thẩm không xem xét nội dung kháng
cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử phúc thẩm, trƣờng hợp Viện
kiểm sát kháng nghị quá thời hạn hoặc không đúng thẩm quyền đối với bản án sơ
thẩm hầu nhƣ không xảy ra, nhƣng kháng cáo sai phạm vi quyền hoặc quá hạn thì
còn nhiều. Đối với trƣờng hợp kháng cáo sai phạm vi quyền kháng cáo mà pháp
luật quy định cho từng chủ thể có quyền kháng cáo, HĐXX phúc thẩm không ra
quyết định bác kháng cáo, kháng nghị mà thƣờng giải thích cho đƣơng sự biết họ
không có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Còn đối với trƣờng hợp
kháng cáo quá hạn, HĐXX phúc thẩm căn cứ vào việc xác minh của Tòa án cấp sơ
thẩm để ra quyết định chấp nhận (nếu có lý do chính đáng) hoặc quyết định không
chấp nhận (nếu không có lý do chính đáng) kháng cáo quá hạn. Khi không chấp
20
nhận kháng cáo quá hạn thì HĐXX phúc thẩm không phải mở phiên tòa, nếu chấp
nhận thì mở phiên tòa phúc thẩm để xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định bị
kháng cáo.
Kháng cáo, kháng nghị không đƣợc chấp nhận về nội dung khi các yêu cầu
của kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng
ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Khi HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng
cáo, kháng nghị và không sửa bất kỳ một phần nào của bản án thì ra quyết định
không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên
việc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị không đồng nghĩa với việc HĐXX
phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Việc quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm
cần phải dựa trên những căn cứ nhất định. Do đó, không chấp nhận kháng cáo,
kháng nghị là điều kiện cần nhƣng chƣa đủ để HĐXX phúc thẩm ra quyết định giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Trong Điều 248 BLTTHS không quy định căn cứ để
HĐXX phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, giữ
nguyên bản án sơ thẩm, đây là điểm thiếu sót cần phải bổ sung. Hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về việc xác định căn cứ của quyền này. Tựu chung lại, có thể
thấy có hai căn cứ để HĐXX phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo,
kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm là:
- Căn cứ 1: Khi các bản án, quyết định sơ thẩm là hợp pháp và có căn cứ.
Tính hợp pháp của bản án thể hiện ở chỗ HĐXX sơ thẩm đã giải quyết vụ án
đúng theo quy định của BLHS về mặt nội dung nhƣ định tội danh, định khung hình
phạt,… và về mặt hình thức nhƣ đảm bảo về thẩm quyền, thủ tục xét xử…
Tính có căn cứ của bản án sơ thẩm thể hiện ở sự phù hợp giữa kết luận trong
bản án với những sự kiện thực tế của vụ án đã đƣợc xác định tại phiên tòa, trên cơ
sở những chứng cứ đã đƣợc thẩm tra xem xét đánh giá công khai và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa.
Đây là hai thuộc tính cơ bản của một bản án hình sự có mối quan hệ biện
chứng, đảm bảo tính chặt chẽ, hợp lý và đúng đắn của bản án, quyết định của
HĐXX nói chung và cao hơn là đảm bảo đƣợc công bằng xã hội, đảm bảo pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
- Căn cứ 2: Mặc dù bản án sơ thẩm xét xử chƣa đảm bảo tính hợp pháp và tính
có căn cứ nhƣng HĐXX phúc thẩm không có điều kiện pháp lý để sửa bản án sơ
21
thẩm. Đặc biệt là trong trƣờng hợp một bản án sơ thẩm có nhiều kháng cáo, kháng
nghị, một số kháng cáo, kháng nghị không đƣợc chấp nhận (do vi phạm điều kiện
về hình thức hoặc nội dung), phần bản án không bị kháng cáo, kháng nghị tuy phát
hiện ra căn cứ để sửa án nhƣng HĐXX phúc thẩm không có đủ điều kiện để ra các
quyết định này.
Ví dụ: A và B bị Tòa án cấp sơ thẩm xử về tội cƣớp tài sản, sau khi xử sơ
thẩm, A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. HĐXX phúc thẩm nhận thấy án sơ thẩm
xử quá nhẹ đối với A và B nhƣng vì chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên
đã giữ nguyên bản án sơ thẩm, báo cáo Tòa án cấp trên xem xét, kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm. HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của A và giữ
nguyên bản án sơ thẩm không phải vì Tòa án cấp sơ thẩm xử đúng mà bởi vì
HĐXX phúc thẩm không có điều kiện sửa án theo hƣớng tăng nặng đối với A
(không có kháng cáo, kháng nghị tăng hình phạt đối với A) và vƣợt quá phạm vi xét
xử phạm tội đối với B (không có kháng cáo, kháng nghị đối với B).
1.2.2. Sửa bản án sơ thẩm
Sửa bản án sơ thẩm là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định khác với
quyết định của bản án sơ thẩm theo hƣớng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo,
ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.
Quyền sửa bản án, quyết định sơ thẩm của HĐXX phúc thẩm là thẩm quyền
của HĐXX phúc thẩm đƣa ra những phán quyết cuối cùng nhằm giải quyết trực tiếp
về nội dung của một vụ án chứ không phải chỉ giải quyết gián tiếp qua việc hủy án
để điều tra lại hoặc xét xử lại. Đây cũng là quyền năng tạo nên sự khác biệt trong
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm không
có. Quyền hạn này xuất phát từ tính chất của xét xử phúc thẩm cấp xét xử thứ hai
xét xử lại vụ án hình sự, kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án
hoặc quyết định sơ thẩm, thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm
sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc áp dụng pháp luật khi ra
bản án hoặc quyết định. Trong khi đó, giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là cấp
xét xử nên không trực tiếp giải quyết nội dung vụ án hình sự. Tính chất và mục đích
của hai thủ tục này là xét lại tính có căn cứ và tính hợp pháp trong các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Trong hai thủ tục này, hội đồng giám đốc thẩm và tái