Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.2 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU THỊ PHƢƠNG THẢO

THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO SỰ VIỆC TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học khác.
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn

Chu Thị Phƣơng Thảo



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO SỰ VIỆC .............................. 6
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc .... 6
1.2 Cơ sở quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc .. 11
1.2.1 Cơ sở lý luận .................................................................................................. 11
1.2.2 Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 16
1.3 Sơ lược lịch sử phát triển quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm
quyền xét xử theo sự việc của Toà án nhân dân các cấp ................................ 18
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 ................................................... 18
1.3.2 Giai đoạn từ 1960 đến khi ban hành BLTTHS năm 1988 ..................... 20
1.3.3 Giai đoạn từ 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 ........... 23
1.4 Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự theo sự việc ............................................................... 24
1.4.1 Các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án quân sự khu vực ...................................................................... 26
1.4.2 Các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu .................................................................. 32
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ
THẨM THEO SỰ VIỆC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ...................... 36
2.1. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc ................. 36
2.1.1 Những kết quả đạt được ......................................................................... 36
2.1.2 Những hạn chế, vướng mắc ................................................................... 52
2.1.3 Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc .................................................. 55


2.2. Một số giải pháp hoàn thiện ..................................................................... 58
2.2.1 Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm

quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc .................................................................. 58
2.2.2 Các giải pháp khác ................................................................................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự

: BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS

Tòa án nhân dân

: TAND

Tòa án nhân dân tối cao

: TANDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

: VKSNDTC

Tòa án quân sự

: TAQS



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp là một chế định quan trọng
của luật tố tụng hình sự. Việc phân định thẩm quyền xét xử càng khoa học, rõ
ràng, chính xác sẽ là những cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng đảm bảo cho
việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo đó, các quy định pháp
luật về thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo
sự việc nói riêng luôn là vấn đề được các nhà làm luật quan tâm khi ban hành
các văn bản pháp luật tố tụng hình sự.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc là cơ sở để
xác định thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tiết kiệm chi phí
cho những người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá
nhân có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án. Nghị quyết 08 ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, và Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải
hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, “ph n
quy n

t



án nhân dân. T ng

th m ủ Tòa án nhân dân

án ộ ho
n

án

p này

nh á th m

m rộng th m quy n

t

p huy n tr n

s

ội ng

i n toàn

u m rộng th m quy n

n

i n toàn t

h

s

t

”[6].
So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền xét xử

sơ thẩm đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử cho
Tòa án cấp huyện. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc được quy định
một cách hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp thời,
phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe, góp phần bảo vệ trật tự xã hội. Tuy
nhiên, quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ


2

thẩm theo sự việc vẫn gặp phải một số vướng mắc trong thực tiễn. Đó là sự
phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh
không hợp lý, BLTTHS còn quy định giao cho Tòa án cấp tỉnh xét xử quá
nhiều vụ án nên tình trạng án tồn đọng còn xảy ra nhiều. Ngoài ra, một số quy
định của BLTTHS chưa cụ thể, các văn bản hướng dẫn ban hành chưa kịp
thời nên việc nhận thức và áp dụng chưa thống nhất, như thủ tục chuyển vụ án
cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, vấn đề tranh chấp thẩm quyền xét xử…
Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc, và thực
tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền trong bối cảnh các quan điểm mới của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp như hiện nay để đưa ra những kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này, góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc của Tòa án là
rất cần thiết.
Với lý do trên tôi chọn đề tài “ h m quy n
hình sự theo sự vi


t

s th m á vụ án

trong luật tố tụng hình sự Vi t N m” để làm đề tài nghiên

cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền xét xử là một vấn đề phức tạp cả về lý luận cũng như thực
tiễn, do vậy được rất nhiều tác giả quan tâm và có rất nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này như: Luận án Tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo
Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của T.S Nguyễn Văn Huyên, năm 2002; Luận
án tiến sỹ “Phúc thẩm trong tố tụng hình sự” của T.S Nguyễn Đức Mai. Một
số luận văn thạc sỹ luật học cũng đã nghiên cứu về thẩm quyền xét xử ở các
góc độ khác nhau như : Luận văn thạc sĩ luật học “Thẩm quyền của tòa án cấp
phúc thẩm trong tố tụng hình sự,” của Th.S Nguyễn Văn Tiến năm 1997; hay
Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Lê Na về “Hoàn thiện quy định về


3

thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp” năm 2009; Luận văn
“Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự” của Th.S Trần Văn Tín; Luận văn
“Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự” của Th.S Đàm Văn Dũng ...
Ngoài ra, một số bài viết liên quan đến đề tài như: “Một số vấn đề về thẩm
quyền xét xử” của PGS.TS Trần Văn Độ, “Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án
nhân dân” của T.S Nguyễn Văn Hiện, “Một số vấn đề về tăng thẩm quyền xét xử
cho Tòa án cấp huyện” của tác giả Trần Đại Thắng …
Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau

về thẩm quyền xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu
trên chỉ nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm nói chung, chưa có công
trình nào nghiên cứu sâu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
theo sự việc. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này nhằm tiếp tục làm sâu sắc hơn
cả về lý luận và thực tiễn để hoàn thiện chế định về thẩm quyền xét xử.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án là một chế định rộng và phức
tạp trong tố tụng hình sự và đã được đề cập đến ở nhiều công trình nghiên cứu
với các cấp độ khác nhau. Trong phạm vi của luận văn này, chỉ tập trung
nghiên cứu phân tích về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự
việc trong luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, làm sáng tỏ những vấn đề
về lý luận; nghiên cứu thực tiễn và những khó khăn vướng mắc trong việc
thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc. Trên cơ sở đó đưa ra một
số giải pháp hoàn thiện BLTTHS Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước,
pháp luật về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư
pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật.


4

Việc nghiên cứu đề tài còn dựa trên thực tiễn xét xử, khảo sát nghiên
cứu các số liệu thống kê về tình hình xét xử sơ thẩm của ngành Tòa án, để
nắm được số liệu về kết quả thực hiện thẩm quyền xét xử trong thời gian qua
nhằm đánh giá và chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật, từ đó
có hướng kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể để sử dụng như: phương pháp lịch
sử, so sánh, phân tích tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn cũng như tham

khảo ý kiến chuyên gia để giải quyết những vấn đề đặt ra.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực
tiễn xét xử của Tòa án, mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn, nội dung của chế định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc;
tìm ra những bất cập, vướng mắc trong áp dụng, qua đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện các quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử theo sự việc của
Tòa án. Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự theo sự việc, trong đó có các quy định của pháp luật hiện
hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự theo sự việc của Tòa án.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc và giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét xử.
6. Kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử nói
chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc nói riêng.


5

- Qua việc nghiên cứu lý luận chung và đánh giá thực tiễn, luận văn đã
nêu lên những bất hợp lý, những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo
sự việc. Từ đó, làm rõ được nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập đó.
- Đưa ra những đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc của Tòa án, cũng như các biện pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Ch

ng 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ

án hình sự theo sự việc.
Ch

ng 2: Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc

và giải pháp hoàn thiện.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO SỰ VIỆC
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo
sự việc
Trong lịch sử từ xa xưa tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước đã được
hình thành. Từ thời cổ đại, chúng ta có thể tìm thấy những nét đại cương của
nó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Hi Lạp, La Mã thời kì cổ
đại, trong các quan điểm chính trị của Aristote, Polybe. Song tư tưởng này
gần như bị lãng quên hoặc không được nhắc đến trong thời kì hưng thịnh của
chế độ phong kiến, khi mà chính thể quân chủ chuyên chế chiếm hầu hết ở
các nước. Chỉ đến khi quan hệ sản xuất phong kiến tan rã, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa xuất hiện thì tư tưởng phân chia quyền lực được chú ý nhiều

hơn.
Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (hay còn gọi là nguyên tắc
phân quyền) có cơ sở từ thuyết tam quyền phân lập. Thuyết tam quyền phân
lập lần đầu tiên xuất hiện bởi nhà tư tưởng Hi Lạp Aristote. Vào thế kỉ 18,
trước yêu cầu cấp bách đặt ra là tổ chức lại bộ máy nhà nước thay cho hình
thức quân chủ chuyên chế, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu đã
phát triển thuyết tam quyền phân lập thành một thuyết độc lập, theo đó quyền
lực nhà nước phải được phân chia để quyền lực hạn chế quyền lực. Mỗi loại
cơ quan Nhà nước chỉ được thực hiện một loại quyền lực để chúng ràng buộc
lẫn nhau, không cho phép cơ quan nào được lạm dụng quyền lực. Kế thừa hạt
nhân hợp lý của học thuyết này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đưa ra
những quan điểm mới về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là quyền lực nhà
nước thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền


7

lực ấy cho cơ quan cao nhất là Quốc hội. Tuy nhiên, trong nhà nước pháp
quyền, mỗi một loại cơ quan nhà nước có chức năng nhiệm vụ riêng. Phạm vi
hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy
định được hiểu là thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó. Quốc hội có thẩm
quyền tối cao thực hiện quyền lập pháp và giám sát tối cao; còn cơ quan khác
như Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát thực hiện quyền hành pháp và tư pháp.
Tòa án là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Trong hệ thống cơ
quan tư pháp của Việt Nam thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp với
chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các vụ việc khác
mà pháp luật quy định để bảo vệ pháp luật và sự công bằng xã hội. Theo quy
định tại Điều 127 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và
Điều 1 Luật Tổ chức TAND 2002 thì Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử mà không
có bất k một cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền này. Như vậy, quyền xem
xét giải quyết vụ việc hình sự, dân sự, hành chính… và quyền ra các quyết
định khi giải quyết vụ việc đó là nội dung quan trọng có mối quan hệ mật
thiết với nhau tạo thành thẩm quyền chung của Tòa án.
Khái niệm về thẩm quyền được khá nhiều tác giả đưa ra với nhiều cách
khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã
hội Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “th m quy n” được hiểu là quy n em
t

t luận và

nh o t một v n

nh t

nh”. Khái niệm “th m quy n”

thường được hiểu gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức, hoặc nhân viên
Nhà nước. Theo định nghĩa này thì thẩm quyền của Tòa án được hiểu chính là
tổng hợp những hành vi pháp lý mà Tòa án được thực hiện theo quy định của
pháp luật.


8

Theo từ điển Luật học thì thẩm quyền được hiểu là “t ng hợp á
quy n và nghĩ vụ hành ộng, quy t
thống ộ máy nhà n


nh ủ

do pháp luật quy

á

qu n, t

h

thuộ h

nh”. Khái niệm thẩm quyền ở đây

được hiểu gồm quyền hành động và quyền quyết định.
Theo tiến sỹ Nguyễn Văn Huyên, “th m quy n là t ng hợp á quy n
mà pháp luật quy

nh ho một t

ợ thự hi n ông vi

h

hoặ một án ộ, ông h

trong á lĩnh vự và ph m vi nh t

nh”.


Thạc sỹ Nguyễn Văn Tiến cho rằng “th m quy n ủ
th m quy n

t

, ph m vi

t

và quy n h n quy t

nhà n

nh ủ

án

o gồm
án ối

v i á vụ án”.
Các khái niệm đưa ra ở trên cho thấy thẩm quyền của Tòa án bao gồm
hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm
quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là việc xác định Tòa án được
xét xử những vụ án nào và xem xét những vấn đề gì khi xét xử thẩm quyền
xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử). Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn
giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề
bảo đảm cho việc xét xử, hoặc các vấn đề khác của tố tụng hình sự liên quan
đến hoạt động xét xử.

Ở nước ta, ngành tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Toà án tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm; Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và Tòa án quân sự khu vực vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, vừa
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm; Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Để phân định thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp nói trên, cần phải dựa vào
một số dấu hiệu của vụ án như tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm, địa
điểm phạm tội, người thực hiện tội phạm. Chỉ trên cơ sở xem xét từng dấu
hiệu mới có thể xác định được thẩm quyền xét xử được chính xác. Khi đã xác


9

định đúng thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì mới có thể dễ dàng xác định được
thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Vì vụ án chỉ xét xử theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị với bản
án được giải quyết ở cấp sơ thẩm. Như vậy, để xác định được thẩm quyền xét
xử phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm trước hết phải xác định thẩm quyền
xét xử sơ thẩm. Do đó, việc hiểu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cần thiết.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học hình sự, TTHS thì “ S th m


t

lần ầu

quy t

nh t t ả á v n


li n qu n trong vụ án”

Từ những phân tích trên có thể hiểu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự như sau: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là
quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật được xem xét và giải quyết vụ
án hình sự lần đầu để ra bản án hoặc các quyết định khác.
Thẩm quyền xét xử bao gồm nhiều nội dung đó là thẩm quyền xét xử
theo lãnh thổ, thẩm quyền xét xử theo sự việc, thẩm quyền xét xử theo đối
tượng. Trong đó, thẩm quyền xét xử theo sự việc là vấn đề quan trọng giúp
phân định thẩm quyền xét xử của các cấp Tòa án với nhau. Để xác định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm một vụ án cần phải căn cứ vào ba dấu hiệu sau:
Dấu hiệu về lãnh thổ là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm căn
cứ vào nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc việc điều tra, để phân
biệt thẩm quyền của tòa án huyện này với tòa án huyện khác, tòa án tỉnh này
với tòa án tỉnh khác cũng như Tòa án quân sự nơi này với Tòa án quân sự nơi
khác.
Dấu hiệu về đối tượng phạm tội là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm căn cứ vào các dấu hiệu liên quan đến người phạm tội. Hoặc trong một
số trường hợp cụ thể có thể dựa vào việc tội phạm đó gây thiệt hại đến chủ thể
nào, thiệt hại cho lĩnh vực nào của đời sống xã hội, để phân biệt thẩm quyền
xét xử giữa Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân, giữa Tòa án quân sự các cấp


10

với nhau hay Tòa án đặc biệt. Nếu đối tượng phạm tội liên quan đến lĩnh vực
chuyên môn quân sự thì thẩm quyền xét xử sẽ thuộc về Tòa án quân sự và
ngược lại TAND sẽ xét xử những tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự.
Dấu hiệu về sự việc phạm tội là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ

thẩm căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án, để
phân biệt thẩm quyền của Tòa án cấp huyện với Tòa án cấp tỉnh, Tòa án quân
sự khu vực với Tòa án quân sự cấp quân khu.
Trong các dấu hiệu nói trên, xác định thẩm quyền xét xử căn cứ vào
dấu hiệu về sự việc phạm tội là khó khăn nhất. Vì việc xác định những yếu tố
như tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án là không dễ, nó
thường mang màu sắc chủ quan của nhà làm luật. Cần phải hiểu tính nghiêm
trọng và tính phức tạp của tội phạm là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Tính nghiêm trọng của tội phạm được hiểu là mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội gây ra cho xã hội, mức độ nguy hiểm cao tương
đương với việc gây ra thiệt hại lớn cho xã hội và ngược lại, mức độ nguy
hiểm của hành vi thấp sẽ gây thiệt hại ít hơn. Tính phức tạp của tội phạm
không thể hiện mức độ nguy hiểm của hành vi mà thể hiện ở khách thể tội
phạm, chủ thể tội phạm người có chức sắc cao, lãnh đạo chủ chốt…), cơ
quan tiến hành tố tụng khả năng điều tra, truy tố, xét xử) … Do đó, xác định
thẩm quyền xét xử căn cứ dấu hiệu này cho thấy tính chất tội phạm, tính phức
tạp của vụ án càng cao thì đòi hỏi cấp Tòa án xét xử và trình độ người xét xử
phải cao tương ứng.
Khi xác định thẩm quyền xét xử, việc bỏ sót một trong các dấu hiệu
trên có thể sẽ dẫn đến việc xác định sai thẩm quyền, vi phạm thủ tục tố tụng
ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án như: thời gian, kinh phí, quyền lợi
bị cáo, tính khách quan của vụ án… Vì vậy, để giải quyết vụ án hiệu quả, đáp
ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trước hết cần phải xem xét kĩ lưỡng


11

đồng thời cả ba dấu hiệu nói trên để xác định đúng thẩm quyền tiến hành tố
tụng.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử

sơ thẩm các vụ án hình sự theo sự việc như sau:
h m quy n
án theo quy
hình sự lần ầu
tr ng, ph

t

s th m á vụ án hình sự theo sự vi

nh ủ pháp luật
r

ợ ti n hành em

ản án, hay các quy t

nh khác ăn

là quy n ủ

t, giải quy t vụ án
vào t nh nghi m

t p ủ tội ph m

Từ khái niệm trên cho thấy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc có
ý nghĩa hết sức quan trọng để xác định thẩm quyền xét xử của TAND cấp
tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời còn
là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra, thẩm quyền

truy tố của Viện kiểm sát.
1.2 Cơ sở quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
theo sự việc
1.2.1 Cơ sở lý luận
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách qua từng thời k nhất định và sử dụng pháp luật
như là công cụ hữu hiệu nhất để thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ
trương đó đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét
xử của Tòa án không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Sự nghiệp đổi mới đã được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá... và đổi mới tư pháp cũng là nhiệm vụ trọng tâm. Vấn đề thẩm quyền
xét xử và phân định lại thẩm quyền xét xử của ngành Tòa án là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ: “s p
nh hợp l th m quy n ủ

p l i h thống Tòa án nhân dân, ph n

án nh n d n á

p”. Nghị quyết Hội nghị


12

lần VIII- BCHTW Đảng khóa VII) đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan tư pháp, trong đó xác định: “ nghi n
t


ho

án nh n d n

thự hi n hủ y u

p quận, huy n theo h

án c p này

án

u tăng th m quy n
ng vi

p t nh hủ y u

t
t


ph

th m”. Như vậy, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hệ thống Tòa án là rất
cần thiết. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 ngày
2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 lại
khẳng định cần khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện đổi mới hệ
thống Tòa án, với hướng tăng thêm thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện là một
trong những cơ sở để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án, để Tòa

án nhân dân tối cao tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực
tiễn, hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật.
Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn tố tụng được quy định
trong BLTTHS, là giai đoạn xét xử đầu tiên nên việc xem xét toàn bộ nội
dung vụ án hình sự được thực hiện tại giai đoạn này, việc xem xét đều phải
tuân theo những nguyên tắc nhất định, các nguyên tắc này đều là những
nguyên tắc dân chủ trong luật TTHS, là cơ sở cho hoạt động xét xử của Tòa
án: nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Tòa án, bảo đảm quyền bào chữa bị can, bị cáo; nguyên
tắc xác định sự thật vụ án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật... Ngoài ra, Tòa án được giao nhiệm vụ xét xử sơ thẩm
đóng vai trò rất quan trọng góp phần cùng với Tòa án cấp trên, các cơ quan
tiến hành tố tụng khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoàn thành nhiệm
vụ xét xử mà Nhà nước giao. Việc quy định thẩm quyền xét xử nói chung và
thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc nói riêng cần phải cân nhắc, xem xét
kỹ có ảnh hưởng đến hoạt động điều tra, truy tố không. Vì chế định về thẩm


13

quyền xét xử có mối liên hệ chặt chẽ với các chế định khác, khi thay đổi quy
định về thẩm quyền xét xử, các chế định khác liên quan như chế định thẩm
quyền điều tra, truy tố cũng bị ảnh hưởng và phải thay đổi theo. Như vậy, khi
quy định thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm
theo sự việc nói riêng cần phải căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của luật
TTHS và các chế định liên quan khác.
Sự phân định thẩm quyền xét xử ngoài việc dựa vào các cơ sở đường
lối của Đảng, các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự và các chế định liên
quan thì tính chất của tội phạm là cơ sở không thể thiếu để quy định về thẩm
quyền xét xử theo sự việc. Tính chất của tội phạm bao gồm tính nghiêm trọng

và tính phức tạp. Cần hiểu tính nghiêm trọng và tính phức tạp là hai mặt của
vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo Điều 8 của BLHS: “tội ph m
là hành vi nguy hi m ho ã hội

ợ quy

nh trong Bộ luật hình sự…”

Hành vi nguy hiểm ở đây được hiểu là hành vi xâm phạm tới khách thể được
luật hình sự bảo vệ có khả năng gây ra hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, nó thể hiện tính nghiêm trọng của tội phạm. Đánh giá tính nguy
hiểm cho xã hội của mọi tội phạm phải xem tội phạm đó xâm hại đến khách
thể nào. Hành vi phạm tội xâm hại đến những quan hệ xã hội, khách thể quan
trọng gây nguy hại lớn cho xã hội thì tội phạm càng nghiêm trọng. Mặt khác,
tính nghiêm trọng của tội phạm còn được thể hiện thông qua mức chế tài luật
quy định với tội phạm đó, nên tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng
cao. Cùng với việc căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm, khi quy định
thẩm quyền xét xử còn phải căn cứ vào tính phức tạp của từng loại tội phạm
hoặc từng tội phạm cụ thể. Tính phức tạp của tội phạm được xem xét cả dưới
góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Dưới góc độ luật hình sự, tính
phức tạp của tội phạm được xem xét ở khách thể tội phạm và đường lối xử lý
tội phạm đó. Dưới góc độ luật tố tụng hình sự, tính phức tạp của tội phạm


14

được xem xét ở khả năng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Tính phức tạp của
tội phạm còn thể hiện ở yếu tố chủ thể tội phạm. Vụ án có chủ thể là người
nước ngoài, người có chức sắc cao, lãnh đạo chủ chốt của một cơ quan, đơn vị
thường gặp nhiều phức tạp hơn. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án nhanh chóng,

chính xác khi phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm cần phải dựa vào tính
nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm. Theo đó, loại tội càng nghiêm trọng, vụ
án có nhiều phức tạp đòi hỏi cơ quan và người tiến hành tố tụng càng phải có
trình độ, năng lực cao.
Khi tính toán, xem xét một vấn đề ta không thể bỏ qua tính hiệu quả
kinh tế của vấn đề đó. Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc
cũng vậy, chế định thẩm quyền phải được quy định sao cho phù hợp, đạt kết
quả cao nhưng không tốn kém, giảm chi phí cho xã hội nói chung và hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Ngoài ra, quy định về thẩm
quyền xét xử còn phải đảm bảo được quyền lợi, tiết kiệm chi phí cho người
tham gia tố tụng. Có thể thấy, chi phí cho hoạt động điều tra hay xét xử ở cấp
dưới sẽ thấp hơn ở cấp trên. Cụ thể, khi tiến hành hoạt động xét xử sơ thẩm ở
cấp huyện không tốn kém chi phí đi lại do địa bàn gần, người tham gia tố tụng
có điều kiện thuận lợi để tham gia phiên tòa, từ đây tránh được tình trạng
hoãn phiên tòa, tiết kiệm được những chi phí cho phiên tòa lần sau. Nếu có
kháng cáo, kháng nghị sẽ do Tòa án cấp tỉnh xét xử, đều trong một tỉnh nên
các chi phí đi lại, lưu trú cũng thấp hơn. Nếu xét xử sơ thẩm ở Tòa án cấp
tỉnh, có kháng cáo, kháng nghị tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm tại
trụ sở hoặc xét xử lưu động đều phải chịu chi phí sẽ cao hơn nhiều so với cấp
tỉnh xét xử phúc thẩm.
Để có thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng
người, đúng tội, đảm bảo tính công bằng xã hội thì người tiến hành tố tụng
cần phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn nhất định. Vụ án càng khó, càng


15

phức tạp đòi hỏi người có trình độ càng cao. Việc phân định thẩm quyền xét
xử theo sự việc không thể không tính đến trình độ của Thẩm phán, cán bộ
ngành Toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, đồng thời cần phải tính đến điều

kiện phương tiện kỹ thuật làm việc, cơ sở vật chất của Tòa án, Viện kiểm sát
và Cơ quan điều tra cấp huyện. Nếu phân định thẩm quyền cho Tòa án nhân
dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực (gọi chung là tòa án cấp huyện) giải
quyết những vụ án mà tính chất của vụ án đó vượt quá khả năng trình độ của
người tiến hành tố tụng sẽ khó có thể bảo đảm được tính khách quan, đúng
đắn của vụ án. Nhưng nếu phân định thẩm quyền một cách d dặt, đánh giá
thấp khả năng, trình độ của họ sẽ dẫn đến tình trạng Tòa án cấp trên phải xét
xử quá nhiều, án tồn đọng với số lượng lớn. Trong khi đó, Tòa án cấp huyện
lại ít việc, có thể đảm nhận xét xử một số lượng vụ án lớn hơn, khó hơn. Điều
đó làm hạn chế khả năng của Tòa án cấp huyện.
Ngoài ra, việc phân định thẩm quyền còn dựa vào tình hình tội phạm,
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kì hiện nay, vào cách tổ
chức hệ thống cơ quan nhà nước.
Trong những cơ sở nói trên có những cơ sở có mối quan hệ khăng khít,
biện chứng với nhau, có thể bổ sung cho nhau hoặc cũng có thể mâu thuẫn
nhau. Vụ án được Tòa án cấp huyện xét xử sẽ có điều kiện thực hiện các
quyền tố tụng của đương sự như quyền có mặt tại phiên toà, trực tiếp gặp Toà
án để đưa ra các yêu cầu, và có hiệu quả về mặt chi phí cho quá trình tố tụng
để giải quyết tốt vụ án. Ngược lại, cũng có những cơ sở lại mâu thuẫn nhau,
nếu dựa vào năng lực người tiến hành tố tụng thì nhìn chung những vụ án
càng được Tòa án cấp cao hơn xét xử thì càng có khả năng bảo đảm tính đúng
đắn khách quan hơn, nhưng lại tốn kém hơn. Tuy nhiên sự mâu thuẫn đó nằm
trong mối liên hệ thống nhất là nhằm đạt tới việc thực hiện tốt nhất mục đích
tố tụng.


16

1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Thực tế những năm qua, ta thấy việc phân định thẩm quyền xét xử sơ

thẩm đã được hình thành từ rất lâu và phát triển cho tới bây giờ. Xã hội ngày
càng phát triển tương ứng với nó sự phân định thẩm quyền xét xử luôn phải
có thay đổi để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, hệ thống Toà án nhân dân đã được hình
thành khi đó toà sơ cấp, cấp toà thấp nhất chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ
án hình sự đơn giản, mang tính chất vi cảnh. Sau khi có Hiến pháp năm 1959,
Toà sơ cấp đã được đổi tên thành toà án huyện, quận, thị xã… và đã có thay
đổi theo hướng tăng một bước về thẩm quyền. Theo điểm d Điều 12 của Pháp
lệnh năm 1961 quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ
chức các tòa án nhân dân địa phương, Tòa án nhân dân cấp huyện có quyền
phân xử những vụ án hình sự nhỏ không phải mở phiên toà và xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống. Đến khi Luật tổ
chức toà án nhân dân ngày 4/7/1981 ban hành theo quy định tại Điều 36, Tòa
án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án hình sự,
trừ những tội xâm phạm an ninh quốc gia, những tội phạm hình sự có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp hay gây hậu quả lớn. Sau đó BLHS năm 1988 ra
đời, theo khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 1988, Tòa án nhân dân cấp huyện
được xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định từ 7 năm tù
trở xuống, trừ những tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc gia và một số tội
khác của Bộ luật hình sự. Cho đến nay khi BLTTHS năm 2003 được ban
hành, thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đã được xử tới các tội phạm rất
nghiêm trọng có khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống.
Xã hội chúng ta ngày càng phát triển, kể từ khi Việt Nam gia nhập
WTO, tình hình tội phạm có xu hướng gia tăng và ngày càng phức tạp có liên
quan đến yếu tố nước ngoài), tội phạm xảy ra ở nhiều địa bàn không chỉ ở


17

thành phố lớn, mà còn ở các tỉnh, huyện lẻ. Do vậy, sự phân định thẩm quyền

xét xử sơ thẩm qua từng thời kì luôn có sự thay đổi là điều tất yếu.
Kể từ khi thực hiện thẩm quyền xét xử theo quy định của BLTTHS
năm 1988, hàng năm số lượng án mà Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử cao
hơn so với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, tỷ lệ chiếm từ 60% đến 70% tổng số vụ
án đã được xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử những năm qua cho
thấy Tòa án cấp tỉnh vẫn phải xét xử sơ thẩm số vụ án không phải là ít, hàng
năm Tòa án cấp tỉnh thụ lí và giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khoảng 32 đến
35% tổng số vụ án thực tế xảy ra. Trong khi đó Toà án cấp tỉnh còn phải thụ lí
và xét xử một số lượng lớn vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm, chiếm
khoảng 46% số vụ án thụ lí và 60% vụ án đã xét xử sơ thẩm ở cấp huyện.
Tương tự như vậy, số vụ án hình sự xét xử theo thủ tục phúc thẩm ở các toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao còn chiếm tỉ lệ rất lớn, bằng số vụ án phải
xét xử phúc thẩm ở tòa án cấp tỉnh khoảng 7000 đến 8000 vụ/năm) [24]. Do
vậy, việc xét xử bị kéo dài, quá hạn luật định, tồn đọng là không tránh khỏi.
Một yêu cầu nữa đặt ra là việc Toà án cấp tỉnh hiện nay vẫn phải xét xử
phần lớn những vụ án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm) và các toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao vẫn phải xét xử quá nhiều các vụ án hình sự theo thủ tục
phúc thẩm đã gây khó khăn nhất định đến việc tham gia phiên toà của những
người tham gia tố tụng nhân chứng, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan, nguyên đơn và bị đơn dân sự…). Nếu những người này vắng mặt
tại phiên toà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết vụ án nhanh chóng và
kịp thời, khách quan.
Về đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, trình độ năng lực đã
được nâng lên một cách đáng kể. Nếu so sánh trình độ của Thẩm phán hiện
nay với trình độ Thẩm phán năm 1994 đã có bước tiến đáng kể. Tính đến nay
cả nước có 4557 Thẩm phán. Trình độ và năng lực của các Thẩm phán hiện


18


nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh giá hàng
năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Mặc dù số
lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với trước
đây, nhưng so với yêu cầu thực tế thì có thể nói là thực trạng đội ngũ Thẩm
phán hiện nay vẫn còn hạn chế về chất lượng và số lượng [30].
Để đáp ứng với yêu cầu phòng và đấu tranh chống tội phạm hình sự
trong giai đoạn mới, vấn đề phân cấp thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp
một cách hợp lý là đòi hỏi bức xúc, nhằm đảm bảo pháp chế thống nhất, tôn
trọng và bảo đảm các quyền của công dân trong tố tụng hình sự.
Với vai trò quan trọng của mình trong mối liên hệ với các quy định
khác của pháp luật TTHS, thẩm quyền xét xử các VAHS phải được quy định
một cách phù hợp trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện tất cả các căn cứ
trên.
1.3 Sơ lƣợc lịch sử phát triển các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc của Tòa án các cấp
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, hệ thống Tòa án đã được hình thành. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh ngày 13/9/1945 và sau đó bổ sung bằng sắc lệnh 21 ngày
14/2/1946 thành lập các Tòa án quân sự. Từ khi thành lập, tòa án này đã xét
xử được nhiều loại tội phạm, trấn áp và trừng trị kịp thời mọi âm mưu hành
động chống phá Cách mạng, chính quyền. Sau đó, sắc lệnh 163 ngày
23/8/1946 ra đời quy định về tổ chức, thẩm quyền của các tòa án binh, đây là
cơ sở cho việc tổ chức và quy định thẩm quyền xét xử Tòa án quân sự ngày
nay.
Về Tòa án tư pháp, một loạt các văn bản có liên quan khác được ban
hành như Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về Tổ chức Toà án và ngạch Thẩm


19


phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền giữa các Tòa án và
sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Theo đó, Tòa sơ cấp là cơ chế
xét xử thấp nhất chỉ có thẩm quyền “ t
0 50

n 9 00; những án

hung th m những án ph t

ồi th ờng t 150 ồng tr

s th m những vụ án ph t gi m t 1
th ờng quá 150 ồng, hoặ những vi
5, Sắc lệnh 51).
ti u hình và
ngày

án

nh

i hình Những vi

n 5 năm, h y ph t

p

uống C quy n


n 5 ngày, những vụ án

t
t
ồi

in ồi th ờng quá số ti n y” Điều
th m quy n

t

s th m những vi

ti u hình là những vi

th

ph t tù t 6

tr n 9 ồng Điều 10, sắc lệnh 51). Như vậy,

Toà sơ cấp cấp toà thấp nhất trong hệ thống toà án lúc đó chỉ có thẩm quyền
xét xử những vụ án hình sự nhỏ, đơn giản, mang tính vi cảnh.
Sau một thời gian thực hiện trong điều kiện có chiến tranh, các quy
định trên không còn hợp lý. Do vậy, đến 26/5/1948 Sắc lệnh số 185 về ấn
định thẩm quyền của Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp trên tinh thần mở
rộng thẩm quyền của Tòa án sơ cấp được ban hành, cho phép Tòa án sơ cấp
có thể xử việc bồi thường quá 200 đồng, hoặc nếu vì tình thế chiến tranh lại
mất liên lạc với Toà đệ nhị cấp thì Tòa án cấp này giam cứu bị can đến 45
ngày nếu là việc tiểu hình, hoặc đến 4 tháng nếu là đại hình.

Cùng với việc cải cách bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước, hệ
thống Tòa án được kiện toàn thêm một bước, theo sắc lệnh số 85 ngày
25/5/1950 thì Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp và tòa thượng thẩm đổi tên thành
TAND huyện, TAND tỉnh và TAND liên khu. Tiếp đó, một số văn bản pháp
luật khác cũng quy định thành lập thêm một số Tòa án, ví dụ: Tòa án vùng bị
tạm chiếm có thẩm quyền của cả TAND huyện, TAND tỉnh và Tòa án quân
sự. Một số Tòa án đặc biệt được thành lập để xét xử các cán bộ viên chức Nhà
nước phạm tội hối lộ, tham nhũng làm giảm uy tín Cách mạng, xét xử những
tên địa chủ, cường hào gian ác chống phá chính sách cải cách ruộng đất.


20

Hệ thống Tòa án với 15 năm xây dựng và từng bước trưởng thành, đã
hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước và công dân, phục vụ kịp thời cho yêu cầu chính trị, góp phần
không nhỏ vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến trường k của dân tộc.
1.3.2 Giai đoạn từ 1960 đến hi an hành BLTTHS năm 1988
Sau khi tòa án sơ cấp được đổi tên thành TAND huyện, các tòa án này
vẫn thực hiện thẩm quyền của tòa án sơ cấp trước đây. Đến ngày 14/7/1960
Luật Tổ chức TAND ban hành quy định thẩm quyền của TAND cấp huyện
như sau:
Điều 16 quy định: “Tòa án nhân dân
th ã hoặ

n v hành h nh t

hình sự, d n sự do pháp luật quy
ợ ph n


những vi

ng

ng

p huy n, thành phố thuộ t nh,


t

s th m những vụ án

nh thuộ th m quy n ủ

hình sự nh

ác Tòa án

hông phải m phi n toà…”. Tiếp đó,

Pháp lệnh năm 1961 về tổ chức TANDTC và TAND địa phương quy định mở
rộng thêm một bước đáng kể thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện, cho
phép TAND cấp huyện phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên
toà và sơ thẩm những VAHS nhỏ có thể phạt tù từ 2 năm trở xuống. Còn
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án có thể xử phạt
trên hai năm tù và những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng lấy lên để
xét xử. Trong quá trình thực hiện quy định này đã có những vướng mắc nên
TANDTC ban hành thông tư 1080/TC ngày 25/9/1961 và thông tư 1071/TC
ngày 7/9/1965 đã hướng dẫn việc phân xử những vụ án hình sự nhỏ không

phải mở phiên tòa là những vụ việc vi phạm pháp luật mà mức độ nguy hại
cho xã hội không lớn, có mức án phạt không quá giá trị 5 ngày gạo nếu là
phạt tiền, và không quá 5 ngày nếu là phạt giam. Những việc hình sự nhỏ
không phải mở phiên toà, TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm ngay. Đây là những vụ án mà TAND cấp huyện được quyền trực tiếp


×