Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

một số giải pháp nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.45 KB, 176 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói
riêng là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 8
khoá VII của Đảng đã đề ra các quan điểm cơ bản về đổi mới bộ máy nhà
nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng. Các quan điểm này được
tiếp tục khẳng định và phát triển trong các văn kiện Đại hội và các Nghị
quyết Trung ương của Đảng ta trong những năm gần đây.
Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện
Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ:
… Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới như các Bộ luật: dân sự, tố
tụng dân sự, tố tụng hình sự (sửa đổi) và các luật, pháp lệnh về
xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm cho mọi vi phạm đều bị
xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm
quyền làm chủ của công dân, [11, tr. 130].
Đại hội IX của Đảng đã đề ra các biện pháp tiến hành cải cách tư
pháp ở nước ta là:
Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần
trách nhiệm, làm tốt công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét
xử, không để xảy ra những trường hợp oan sai Sắp xếp tại hệ
thống TAND, phân định thẩm quyền một cách hợp lý theo
nguyên tắc tổ chức TA theo cấp xét xử, tăng cường thẩm phán ở
1
những địa bàn trọng điểm, quy định rõ tiêu chuẩn, trách nhiệm và
thẩm quyền của hội thẩm nhân dân. TANDTC làm nhiệm vụ
hướng dẫn áp dụng pháp luật và thực hiện công tác giám sát xét
xử các bản án, quyết định đã có HLPL [13, tr. 295-296].


Các yêu cầu về cải cách tư pháp và nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong giai đoạn hiện nay được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết số 08/NQ/TƯ ngày 02/01/2002:
Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết
của TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản
án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn pháp luật quy định [2].
Các quan điểm trên của Đảng về cải cách tư pháp ở nước ta đã từng
bước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật được Quốc hội thông
qua trong thời gian gần đây như BLHS 1999, BLTTHS sửa đổi năm 2000,
Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2002, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức
VKSND năm 2002, BLTTHS sửa đổi năm 2003, Đây là cơ sở pháp lý để
chúng ta tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói
chung và các TAND nói riêng.
BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1988 và có hiệu
lực thi hành từ 01/01/1989 là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 hoạt
động tư pháp hình sự. Bước đầu Bộ luật đã thể hiện đường lối đổi mới
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Bộ luật đã
phát huy tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
2
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt
ra: " phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội , bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ". BLTTHS đã ba lần được

sửa đổi, bổ sung (7/1990, 12/1992 và 6/2000) để đáp ứng kịp thời yêu cầu
của thực tiễn.
Tuy nhiên, sau 15 năm áp dụng, bên cạnh những kết quả đạt được,
nhiều quy định của BLTTHS hiện hành nói chung và các quy định về phúc
thẩm nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong thực tiễn, các TA cấp phúc
thẩm rất vướng mắc khi áp dụng các quy định BLTTHS về phạm vi xét xử
phúc thẩm, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết
vấn đề kháng cáo quá hạn; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn tạm giam, Việc quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm áp dụng
chung đối với tất cả các vụ án đã làm cho hoạt động xét xử phúc thẩm trở
thành quá tải, quá thời hạn luật định dẫn đến sự tồn đọng án trong những
năm gần đây ở các TA cấp phúc thẩm, đặc biệt là ở TANDTC. Điều đó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, không bảo vệ kịp thời lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyên nhân của tình trạng này là do một số quy định của BLTTHS
về phúc thẩm chưa đầy đủ, cụ thể và rõ ràng. Cơ quan có thẩm quyền cũng
chưa hướng dẫn kịp thời, đầy đủ về việc áp dụng các quy định BLTTHS
dẫn đến nhận thức và áp dụng có nhiều vướng mắc. Mặt khác, hệ thống tổ
chức và hoạt động của các TA cấp phúc thẩm; trình độ nghiệp vụ và năng
lực của đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên và các bảo đảm khác cho hoạt
động của các TA và VKS cấp phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế.
BLTTHS (sửa đổi) được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4
Quốc hội khóa XI là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ
3
thống pháp luật nước ta nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Việc sửa
đổi bổ sung BLTTHS lần này được tiến hành tương đối đồng bộ, toàn diện
và về cơ bản đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta theo tinh
thần Nghị quyết số 08/NQ-TƯ của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng. Tuy nhiên, về cơ bản các quy định về phúc thẩm trong

BLTTHS sửa đổi vẫn như trước đây, do đó chưa khắc phục được những bất
cập, tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng
tỏ về mặt lý luận và các quy định pháp luật TTHS về phúc thẩm; chỉ ra
những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân, trên cơ sở đó
đưa ra được các căn cứ khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định về
phúc thẩm vẫn là một yêu cầu cấp thiết của khoa học luật TTHS hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phúc thẩm trong TTHS là một vấn đề có nội dung rộng và phức tạp
của khoa học luật TTHS. Vấn đề này đã được một số nhà khoa học pháp lý
ở nước ta và trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong sách báo pháp lý của
nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ
và phạm vi khác nhau. Có thể chia các công trình này thành ba nhóm sau:
Các công trình nghiên cứu trực tiếp về phúc thẩm trong TTHS như:
"Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự" của tác giả Võ Thọ, Nxb Pháp lý,
Hà Nội, 1985; "Giáo trình Luật tố tụng hình sự" của Trường Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1999; "Thủ tục phúc thẩm trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam" của Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, 1998;
một số luận văn thạc sĩ luật học như "Thủ tục xét xử phúc thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Gia Cương, 1998; "Phúc thẩm trong
tố tụng hình sự Việt Nam" của Phan Thị Thanh Mai, 1998; "Thẩm quyền
của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Tiến,
1998; "Giai đoạn xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Huỳnh Lập Thành, 2001;
4
Các công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của phúc
thẩm trong TTHS như: Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án
các cấp trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Huyên, 2002; "Những vấn
đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về hình sự" của TS. Từ Văn
Nhũ (Tạp chí TAND, số 3/2001); "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm

hoàn thiện" của TS. Dương Ngọc Ngưu (Tạp chí TAND, số 11/2000 và số
01/2001); "Thủ tục phiên tòa phúc thẩm có gì khác với phiên tòa sơ thẩm"
của ThS. Mai Bộ (Tạp chí TAND, số 9/1995); "Quyền hạn của Tòa án khi
xét xử phúc thẩm" và "Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 Bộ luật tố tụng
hình sự" của Hoàng Thị Sơn (Tạp chí Luật học, số 6/1997 và 5/1999);
"Hoàn thiện pháp luật về xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của ThS.
Nguyễn Nông (Tạp chí TAND, số 8/1994); "Việc Tòa án cấp phúc thẩm
sửa án sơ thẩm từ không có tội thành có tội theo khoản 3 Điều 221 Bộ luật
tố tụng hình sự" của Phạm Văn Khánh (Tạp chí Kiểm sát, số 7/1999);
Các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm
trong TTHS: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án
nhân dân" của tác giả Phạm Hưng (Tạp chí TAND, số 10 và số 11/1997);
"Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám
đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp" và "Vấn đề giới hạn xét
xử của Tòa án nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Hiện (Tạp chí TAND, số
4/1997 và số 8/1999); "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án các cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ (Tạp chí Luật học, số 3/1997);
"Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp" của PGS.TS
Phạm Hồng Hải (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2001); "Vài nét về
quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân" của TS. Đặng
Quang Phương (Tạp chí TAND, số 6/1995);
Một số nhà khoa học pháp lý trên thế giới cũng nghiên cứu về vấn
đề này và quan điểm của họ cũng rất khác nhau, trong số đó có các nhà
5
khoa học pháp lý Xô viết như: "Giáo trình tố tụng hình sự Xô viết" của
GS.TS Stơrogovích M. C., Nxb Khoa học pháp lý, Matxcơva, 1980; "Phúc
thẩm trong tố tụng hình sự Xô viết" của GS.TS Pêrơlốp V. Đ., Nxb Pháp lý,
Mátxcơva, 1968; "Bảo vệ quyền lợi của bị cáo trong xét xử phúc thẩm" của
GS.TS Martưnchích E. G., Nxb. Kisinhốp, 1979;
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách

toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS, chưa đưa ra
được khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về phúc thẩm trong
TTHS.
Tất cả các luận điểm nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Phúc
thẩm trong tố tụng hình sự" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình.
3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở phân tích các quan điểm
khác nhau về phúc thẩm trong TTHS, các xu hướng điều chỉnh vấn đề này
trong pháp luật của các nước và ở nước ta trước và sau khi ban hành
BLTTHS 1988, những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn phúc thẩm
những năm gần đây, tác giả đặt ra cho mình mục đích nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các nội dung của phúc thẩm trong TTHS
nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết về
mặt lập pháp, những tồn tại, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng các
quy định hiện hành về phúc thẩm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: phúc thẩm là vấn đề có nội dung
rộng và phức tạp của khoa học luật TTHS. Vì vậy, trong phạm vi của luận
án không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản của phúc thẩm mà
chúng chưa được làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý
luận; các quy định pháp luật TTHS của nước ta về phúc thẩm từ 1945 đến
6
nay; thực trạng phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta, những tồn tại,
vướng mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: luận án tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ bản chất pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của phúc
thẩm trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS; làm

sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của phúc thẩm: bản chất của
phúc thẩm; thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm.
Từ đó đưa ra khái niệm đầy đủ, hoàn chỉnh và khoa học về phúc thẩm;
- Khái quát về quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về
phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS 1988; phân tích làm sáng tỏ nội
dung các quy định pháp luật TTHS hiện hành về phúc thẩm có so sánh với
BLTTHS sửa đổi mới được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4
Quốc hội khóa XI;
- Khái quát về thực trạng phúc thẩm ở nước ta những năm gần đây;
chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân để từ đó đề
xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và
nâng cao hiệu quả phúc thẩm.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư
pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tác
giả đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu.
7
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích - tổng
hợp, thống kê, lịch sử, lôgíc - pháp lý, để phân tích có phê phán các quan
điểm khác nhau về vấn đề nghiên cứu. Tác giả đã tiến hành khảo sát và thu
thập số liệu thống kê về thực tiễn phúc thẩm các vụ án hình sự ở TANDTC,
một số TA cấp tỉnh và Viện phúc thẩm I VKSNDTC những năm gần đây.
Những luận điểm khoa học trong luận án của tác giả được phát triển
dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý ở nước ta
và một số nước khác trên thế giới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Đề tài có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trước hết, đây là công
trình chuyên khảo đầu tiên trong sách báo pháp lý nước ta nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS. Kết quả
nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý luận về phúc thẩm trong TTHS.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra được các luận cứ khoa học
và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và
nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Luận án có thể
sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy
trong các trường chuyên luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng
để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện BLTTHS sửa đổi và trong
thực tiễn.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án gồm ba chương, 7 mục.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. BẢN CHẤT CỦA PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm phúc thẩm trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Sự ra đời của chế định phúc thẩm và ý nghĩa của nó
Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện quyền lực nhà nước - quyền tư
pháp. Đây cũng là lĩnh vực rất nhạy cảm, bởi vì, nó trực tiếp đụng chạm
đến các quyền tự do và dân chủ (kể cả tính mạng) của công dân. Mọi sai
lầm dù lớn hay nhỏ trong quá trình xử lý đối với người thực hiện hành vi bị
coi là tội phạm đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí
có thể không bao giờ khắc phục được. Bởi vậy, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị can, bị cáo là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đạt được mục đích đặt ra của TTHS là

"phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,…
bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân". Đây cũng là một nội dung cấp
thiết của việc bảo vệ quyền con người nói chung mà mỗi quốc gia cũng như
cộng đồng quốc tế đều quan tâm giải quyết.
Trong Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động được thông qua
ngày 25/6/1993 tại Hội nghị thế giới về Nhân quyền đã nhấn mạnh:
Quyền con người và các quyền tự do cơ bản là quyền của
mọi người được hưởng khi sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các
quyền đó là trách nhiệm trước tiên của các chính phủ Việc đề
cao và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải
9
được coi là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc , là mối
quan tâm chính đáng của cộng đồng quốc tế [25, tr. 657].
Vì vậy, các quốc gia đều chú ý điều chỉnh bằng pháp luật quá trình
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội, đặc
biệt là hoạt động xét xử các vụ án hình sự, nhằm tạo ra một cơ chế kiểm
tra, giám sát chặt chẽ có hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, phát
hiện và khắc phục kịp thời các sai sót về xét xử của các TA cấp dưới. Phúc
thẩm trong TTHS là một trong các hình thức, phương tiện được các nước
sử dụng nhằm đạt được mục đích này.
Sự hình thành và phát triển của chế định phúc thẩm trong TTHS gắn
liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và
tiến bộ của TTHS như: nguyên tắc công bằng; nhân đạo; suy đoán vô tội;
bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; xét xử công khai, trực tiếp và
bằng lời nói; Vì vậy, chế định phúc thẩm trong TTHS không thể tồn tại
trong xã hội mà ở đó không có nền dân chủ.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người theo xu hướng ngày
càng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội (trong đó bao gồm cả lĩnh vực
TTHS), các nguyên tắc nói trên ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.

Đến lượt mình, các nguyên tắc này tác động trở lại ở mức độ và phạm vi
khác nhau đối với sự ra đời, phát triển và ngày càng hoàn thiện các chế
định của TTHS, trong đó có chế định phúc thẩm.
Bản chất dân chủ và tiến bộ là một trong những thuộc tính quan
trọng của hệ thống tư pháp hình sự hiện đại. Sự ra đời của chế định phúc
thẩm là một nhu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất của TTHS
nhằm bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn quyền con người, các quyền tự do
cơ bản của công dân trong lĩnh vực đặc thù này. Nền tư pháp không thể gọi
là dân chủ và tiến bộ, nếu trong đó thiếu các bảo đảm pháp lý cần thiết để
10
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cả ở phương diện cá
nhân người phạm tội cũng như ở phương diện Nhà nước.
Với tính cách là nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc công bằng
tác động mạnh mẽ đối với lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự. PGS.TS Võ
Khánh Vinh đã rất có lý khi cho rằng, nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi
quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên
với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện,
với các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng
và giảm nhẹ trách nhiệm, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật [78, tr. 105].
Mặt khác, nguyên tắc công bằng cũng đòi hỏi trong những điều kiện và
hoàn cảnh phạm tội giống nhau, thì người phạm tội phải bị kết án và xử
phạt như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế đòi hỏi này lại rất khó đạt được do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan rất khác nhau: không thống
nhất giữa các thẩm phán, giữa các TA về nhận thức và áp dụng pháp luật,
đặc biệt là các quy định mang tính chất đánh giá tùy nghi. Để giảm bớt sự
khác biệt trong việc tuyên phạt đối với người phạm tội giữa các TA và giữa
các thẩm phán với nhau, cần có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó
nếu bị cáo và đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có
HLPL của TA cấp dưới, thì có thể yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại
phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm.

Sự ra đời của TA cấp phúc thẩm còn xuất phát từ quan niệm của các
nhà lập pháp cho rằng việc xét xử lại các vụ án có kháng cáo, kháng nghị ở
TA cấp trên sẽ hạn chế được những sai sót về xét xử của các thẩm phán
Tòa sơ thẩm. TA cấp trên sẽ xử đúng công lý hơn vì Tòa này gồm những
thẩm phán cao niên, có kinh nghiệm hơn và ở xa các đương sự nên không
chịu ảnh hưởng địa phương. Nguyên tắc hai cấp xét xử còn bắt buộc các
thẩm phán Tòa cấp dưới phải thận trọng trong việc xét xử, nếu không án
văn sẽ bị Tòa cấp trên tiêu hủy [27, tr. 67].
11
Như vậy, có thể thấy rằng, sự ra đời của chế định phúc thẩm trong
TTHS là một nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội loài người phát triển
đến một trình độ nhất định. Nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của
các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của TTHS. Trong điều kiện
ngày nay, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đang trở thành xu hướng
phát triển tất yếu của các quốc gia, chế định phúc thẩm trong TTHS ngày
càng được hoàn thiện và trở thành một trong các hình thức, phương tiện
pháp lý hữu hiệu được các nước sử dụng rộng rãi nhằm bảo vệ có hiệu quả
hơn các quyền và tự do cơ bản của công dân.
Với ý nghĩa đó, phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện ở
một số điểm cơ bản sau đây:
Một là, phúc thẩm là một trong những hình thức giám đốc xét xử chủ
yếu của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Thông qua việc xét xử lại vụ án
mà bản án hoặc quyết định chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp
phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án
(quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL mà còn có phát hiện và khắc phục kịp
thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của TA cấp dưới. Theo thống kê,
số vụ án hình sự được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trung bình hàng
năm chiếm gần 30% số vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong số đó, các TA cấp
phúc đã sửa, hủy án sơ thẩm hoặc tuyên bị cáo vô tội đối với khoảng 25 -
30% số bị cáo (xem Phụ lục số 2 và 3). Bằng quyền hạn của mình, TA cấp

phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định có vi
phạm pháp luật, góp phần pháp chế XHCN.
Hai là, phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất
bản chất dân chủ và tiến bộ của TTHS. Chế định này buộc các TA cấp sơ
thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp
pháp và có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không cho
phép người đã kháng cáo hoặc VKS đã kháng nghị được bổ sung, thay đổi
12
kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; không cho phép
TA cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng
của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo
hướng đó.
Ba là, khi có kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định
chưa có HLPL, TA cấp phúc thẩm phải đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn
nhất định. Vì vậy, phúc thẩm còn là một trong các phương tiện hữu hiệu để
bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo.
Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, TA cấp phúc thẩm hướng
dẫn cho các TA cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc
nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao
chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp
luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
1.1.1.2. Khái niệm phúc thẩm trong TTHS
Trong khoa học luật TTHS, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu ở
các góc độ khác nhau cả ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, thì
khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau đây:
phúc thẩm là một giai đoạn của TTHS (giai đoạn phúc thẩm); phúc thẩm là
một chế định (chế định phúc thẩm) của TTHS và phúc thẩm là một thủ tục
tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm phúc thẩm

được hiểu cả ở ba nghĩa (nội dung) nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn,
một chế định của TTHS đồng thời là một thủ tục xét xử. Hay nói cách
khác, khái niệm phúc thẩm trong TTHS bao gồm các yếu tố (nội dung) cấu
thành nêu trên. Như vậy, xét về nội hàm, thì "phúc thẩm" là khái niệm rộng
nhất, trong đó bao hàm các khái niệm hẹp: "Giai đoạn phúc thẩm", "chế
định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm". Khi nói về phúc thẩm với
13
nghĩa là một giai đoạn, một chế định của TTHS hoặc một thủ tục xét xử,
tức là mới chỉ xem xét ở một góc độ nào đó của phúc thẩm (theo nghĩa hẹp
của khái niệm này). Vì vậy, để có khái niệm đầy đủ về phúc thẩm hình sự,
cần phải làm sáng tỏ các nội dung (yếu tố) cấu thành khái niệm "phúc
thẩm".
1- Giai đoạn phúc thẩm: Quá trình giải quyết các vụ án hình sự (quá
trình TTHS) được phân thành các giai đoạn có tính độc lập tương đối kế
tiếp và liên quan chặt chẽ với nhau. Giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho
giai đoạn tố tụng sau. Ví dụ, để có thể đưa một vụ án ra xét xử thì phải có
quyết định truy tố của VKS đối với các bị cáo trong vụ án đó và muốn truy
tố thì phải có kết luận của cơ quan điều tra về vụ án. Ngoài các đặc điểm
chung, mỗi giai đoạn tố tụng có một số dấu hiệu đặc trưng của riêng mình.
So với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn phúc thẩm có một số đặc điểm
đặc trưng sau đây:
- Nhiệm vụ trực tiếp của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có
căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL đồng thời xem
xét lại vụ án về nội dung;
- Giai đoạn phúc thẩm có phạm vi xác định các chủ thể tiến hành và
tham gia tố tụng đặc trưng bao gồm: TA cấp phúc thẩm, VKS cấp phúc
thẩm; những người có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; những
người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố
tụng khác mà TA cấp phúc thẩm thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa.
Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, chủ thể tham gia ở giai đoạn tố tụng này

còn bao gồm cả TA cấp sơ thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng
nghị, xác minh lý do kháng cáo quá hạn) và VKS cấp sơ thẩm (trong việc
kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL);
- Các thủ tục tố tụng được tiến hành ở giai đoạn phúc thẩm có những
đặc thù: về thủ tục kháng cáo, kháng nghị và thông báo kháng cáo, kháng
14
nghị; thành phần HĐXX phúc thẩm chỉ bao gồm các thẩm phán chuyên
nghiệp (trừ trường hợp cần thiết mới có hội thẩm nhân dân tham gia); ngoài
các thủ tục giống như phiên tòa sơ thẩm, thủ tục phiên tòa phúc thẩm có
một số đặc thù: phiên tòa phúc thẩm được khai mạc không phải đọc quyết
định đưa vụ án ra xét xử; trước khi tiến hành xét hỏi, việc công bố cáo
trạng của kiểm sát viên được thay thế bằng việc một thành viên HĐXX
phúc thẩm tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung
kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của kiểm sát viên ở phần tranh luận
được thay thế bằng việc trình bày kết luận của VKS về hình thức và nội
dung kháng cáo, kháng nghị; về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án
(quyết định) sơ thẩm; đề nghị chấp nhận hay bác kháng cáo, kháng nghị
- Đặc điểm đặc trưng của các quan hệ pháp luật tố tụng giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng: giữa TA cấp sơ thẩm và TA cấp phúc thẩm (trong
việc thông báo kháng cáo, kháng nghị; xác minh lý do kháng cáo quá
hạn, ; giữa VKS cấp sơ thẩm và VKS cấp phúc thẩm (trong việc kháng
nghị bản án sơ thẩm); TA cấp phúc thẩm và VKS cấp phúc thẩm trong quá
trình giải quyết vụ án;
- Hình thức thể hiện kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng này:
bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm (đình chỉ việc xét xử phúc
thẩm, đình chỉ vụ án, ).
Với tư cách là một giai đoạn độc lập và bắt buộc của quá trình
TTHS, giai đoạn phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc
bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp
theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Nó được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ

thẩm được tuyên và kết thúc khi bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL hoặc
được thay thế bằng bản án, quyết định phúc thẩm.
Có ý kiến cho rằng, phúc thẩm không phải là một giai đoạn độc lập
của quá trình TTHS mà phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo,
15
kháng nghị đối với bản án (quyết định) sơ thẩm trong thời hạn luật định.
Bởi vì, sau khi xét xử sơ thẩm, không phải tất cả các vụ án hình sự, mà chỉ
có những vụ án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị mới được đưa ra xét
xử phúc thẩm [102, tr. 9]. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ý kiến này đã sai
lầm khi đồng nhất "giai đoạn phúc thẩm" với "thủ tục xét xử phúc thẩm".
Đối với một vụ án cụ thể, thủ tục xét xử phúc thẩm không phải là bắt buộc.
Thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị đối
với bản án (quyết định) sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp bản án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì mặc dù không
phải tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án đó, nhưng đối với vụ án đó giai đoạn
phúc thẩm vẫn tồn tại và được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được
tuyên và kết thúc khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và bản án có
HLPL.
Giai đoạn phúc thẩm có thể dài, ngắn khác nhau tùy thuộc vào việc
kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể và quá trình giải quyết đối với từng
vụ án cụ thể. Ví dụ, đối với vụ án được xét xử trong trường hợp có mặt đầy
đủ những người có quyền kháng cáo tại phiên tòa sơ thẩm, thì giai đoạn
phúc thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
theo quy định (30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm) không có ai kháng
cáo, kháng nghị. Đối với trường hợp vụ án tuy có kháng cáo hoặc kháng
nghị, nhưng sau đó người đã kháng cáo hoặc VKS kháng nghị rút toàn bộ
kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ
kết thúc ở thời điểm TA cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử
phúc thẩm vụ án. Còn đối với các vụ án khác thì giai đoạn phúc thẩm kết
thúc sau khi tuyên án phúc thẩm.

2- Chế định phúc thẩm: Về mặt lý luận, pháp luật của mỗi quốc gia
nói chung và pháp luật của Việt Nam nói riêng, là một hệ thống những quy
tắc xử sự (các quy phạm pháp luật) do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
16
các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ
thống này được phân thành các tiểu hệ thống nhỏ hơn - các ngành luật. Mỗi
ngành luật là một tiểu hệ thống các quy tắc xử sự (quy phạm pháp luật)
điều chỉnh một loại quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời
sống xã hội (hình sự, dân sự, kinh tế, ). Đến lượt mình, mỗi ngành luật lại
được chia thành các chế định pháp lý và mỗi chế định này bao gồm các quy
phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất.
Pháp luật TTHS cũng bao gồm các chế định pháp lý khác nhau. Với
tư cách là một chế định của pháp luật TTHS, phúc thẩm là một tiểu hệ
thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa
các chủ thể tham gia vào giai đoạn tố tụng này. Các quy phạm pháp luật
này không chỉ bao gồm các quy định trong BLTTHS của mỗi quốc gia mà
cả các quy phạm trong các văn bản luật và dưới luật khác. Ví dụ: ở nước ta
chế định phúc thẩm trong TTHS không chỉ bao gồm các quy phạm ở Phần
thứ tư "Xét lại bản án và quyết định chưa có HLPL theo thủ tục phúc
thẩm", mà cả các quy định khác của BLTTHS như: các nguyên tắc cơ bản;
các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm (các điều 159, 163,
171-194, 196, BLTTHS) được áp dụng khi xét xử phúc thẩm. Một số
lượng khá lớn quy phạm về phúc thẩm trong TTHS còn được chứa đựng
trong các văn bản luật (như Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND, )
và văn bản dưới luật (như Pháp lệnh tổ chức TAQS, Pháp lệnh tổ chức
VKSQS; các thông tư liên tịch, các nghị quyết của HĐTP TANDTC, về
việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLTTHS).
3- Thủ tục xét xử phúc thẩm: Phúc thẩm là một trong những hình
thức giám đốc việc xét xử của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Thủ tục
xét xử phúc thẩm đối với một vụ án chỉ phát sinh khi bản án (quyết định)

sơ thẩm về vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi xét xử sơ thẩm đều
17
được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ kết thúc sau khi
TA cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.
Như vậy, thời điểm bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm và thời điểm bắt
đầu của thủ tục xét xử phúc thẩm là khác nhau. Thời điểm bắt đầu của giai
đoạn phúc thẩm là cố định, không thay đổi và sớm hơn: ngay sau khi tuyên
bản án (quyết định) sơ thẩm. Còn thời điểm bắt đầu thủ tục phúc thẩm phụ
thuộc vào ý chí của các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật và được xác định từ thời điểm TA nhận được kháng cáo,
kháng nghị. Còn thời điểm kết thúc giai đoạn phúc thẩm và thời điểm kết
thúc thủ tục phúc thẩm chỉ trùng nhau trong trường hợp vụ án có kháng
cáo, kháng nghị: ngay sau khi TA cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định
phúc thẩm. Đối với vụ án không có kháng cáo, kháng nghị, thủ tục phúc
thẩm không phát sinh, vì vậy, không thể có thời điểm bắt đầu và kết thúc
thủ tục này.
Những nội dung nêu trên về phúc thẩm mới chỉ khái quát được các
yếu tố (nội dung) cơ bản cấu thành khái niệm phúc thẩm. Để làm sáng tỏ
bản chất pháp lý của phúc thẩm trên cơ sở đó đưa ra một khái niệm đầy đủ,
chính xác về phúc thẩm trong TTHS, cần làm sáng tỏ các vấn đề khác của
phúc thẩm như tính chất của phúc thẩm, thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm
và thủ tục xét xử phúc thẩm.
1.1.2. Tính chất của phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Tính chất của phúc thẩm là vấn đề quan trọng và quyết định bản chất
của phúc thẩm trong TTHS và các nội dung khác như: phạm vi xét xử phúc
thẩm, quyền hạn và thủ tục xét xử phúc thẩm của chế định này. Đây cũng là
vấn đề được các nhà khoa học cũng như cán bộ thực tiễn chú ý và tranh cãi
khá gay gắt, kéo dài những năm gần đây với những quan điểm rất khác
nhau. Có thể chia các quan điểm này thành hai nhóm chính sau đây:

18
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp xét
xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó TA cấp trên trực tiếp xét lại
các bản án, quyết định chưa có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều
đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là "xét lại" chứ không phải là
"xét xử lại" [73, tr. 262], [74, tr. 287], [104, tr. 408]; …
Quan điểm thứ hai cho rằng, TA cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm
vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ
án [46, tr. 144]. Vì vậy, tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là
xét xử lại các vụ án [41, tr. 10-11], mà bản án (quyết định) chưa có HLPL
bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Thực chất sự khác nhau cơ bản giữa hai quan điểm nêu trên về tính
chất của phúc thẩm chủ yếu là ở chỗ xác định phúc thẩm có phải là một cấp
xét xử hay không? Chúng tôi cho rằng, vấn đề này liên quan trực tiếp đến
nguyên tắc "hai cấp xét xử". Sự tồn tại hay không tồn tại (tức là thừa nhận
hay phủ nhận) nguyên tắc này là cơ sở để khẳng định trong TTHS có tồn
tại hay không chế định phúc thẩm và tính chất của nó: nếu trong TTHS tồn
tại nguyên tắc này thì có phúc thẩm và khi đó TA cấp phúc thẩm phải là
cấp xét xử thứ hai, tức là cấp xét xử lại vụ án, mà bản án (quyết định) chưa
có HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Ngược lại, nếu trong TTHS không
có nguyên tắc "hai cấp xét xử", thì chế định phúc thẩm và TA cấp phúc
thẩm không tồn tại.
Mặt khác, cũng cần phải khẳng định rằng, nguyên tắc "hai cấp xét
xử" sẽ không thể tồn tại, nếu trong TTHS chỉ có một cấp xét xử là Tòa sơ
thẩm. Bởi vì, TA cấp giám đốc thẩm và tái thẩm chưa bao giờ được thừa
nhận là một cấp xét xử, mà chỉ được coi là thủ tục tố tụng đặc biệt có
nhiệm vụ "xét lại" những bản án, quyết định đã có HLPL.
Như đã đề cập ở mục 1.1.1, sự hình thành và phát triển nguyên tắc
"hai cấp xét xử" (và các nguyên tắc khác như: nguyên tắc công bằng; suy
19

đoán vô tội; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; ) của TTHS gắn
liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng dân chủ và tiến bộ trong
lịch sử xã hội loài người. Để bảo đảm dân chủ và công bằng, kịp thời bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời tạo sự thống nhất
ở mức độ nhất định trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các thẩm
phán, giữa các TA với nhau, cần thiết phải có một trình tự (thủ tục tố tụng)
để xem xét lại các phán quyết chưa có HLPL của TA cấp dưới khi có yêu
cầu (kháng cáo) của bị cáo và đương sự hoặc yêu cầu (kháng nghị) của
VKS. Như vậy, trong TTHS nguyên tắc "hai cấp xét xử" ra đời cùng với
TA thực hiện nhiệm vụ này là TA cấp phúc thẩm.
Cùng với xu hướng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, trong đó
có lĩnh vực TTHS, nguyên tắc "hai cấp xét xử" ngày càng được bổ sung,
hoàn thiện. Ngày nay, nguyên tắc này được hầu hết các quốc gia trên thế
giới thừa nhận và trong hệ thống tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói
riêng của mỗi nước đều có các Tòa phúc thẩm hoạt động để thực hiện chức
năng xét xử lại các vụ án hình sự, mà bản án (quyết định) chưa có HLPL bị
kháng cáo hoặc kháng nghị. Tuy nhiên, nguyên tắc này được áp dụng ở
những phạm vi và mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh
của mỗi nước trong từng giai đoạn cụ thể. Do những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể (chiến tranh, trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội chưa phát triển, ),
trong một giai đoạn nhất định ở một số nước chưa áp dụng hoặc áp dụng
hạn chế nguyên tắc "hai cấp xét xử" trong tố tụng nói chung và TTHS nói
riêng. Ví dụ, trong giai đoạn từ 1945 - 1957, ở nước ta theo Sắc lệnh số
21/SL ngày 14/2/1946 và Sắc Lệnh 156/SL ngày 17/11/1950, thì tất cả
những vụ án phản cách mạng thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS và không
áp dụng nguyên tắc "hai cấp xét xử". Đối với các vụ án này chỉ xét xử theo
một trình tự sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Bản án sau khi tuyên có hiệu
lực thi hành ngay, không ai có quyền kháng cáo, kháng nghị [70, tr. 28-33].
20
Còn đối với các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của hệ thống TA thường

thì chế độ hai cấp xét xử vẫn được thực hiện đầy đủ [46, tr. 147].
Nguyên tắc "hai cấp xét xử" và tính chất xét xử lại của phúc thẩm đã
được ghi nhận ngay trong các văn bản pháp luật đầu tiên do Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Tại Điều 41 Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 quy định thẩm quyền của Tòa thượng thẩm như sau:
Sau khi nghe bị can, các người chứng, cáo trạng của ông
Chưởng lý và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án,
hai hội thẩm và hai phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để
cùng quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt,
trường hợp tăng nặng và trường hợp giảm tội [8, tr. 195].
Luật tổ chức TAND năm 1960 được ban hành trên cơ sở Hiến pháp
1959 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc "hai cấp xét xử": "Đương sự có
quyền chống bản án hoặc quyết định của TAND cấp sơ thẩm lên TAND
trên một cấp. VKS cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án
hoặc quyết định sơ thẩm của TAND " (Điều 9).
Thông tư số 03/NCPL ngày 19/5/1967 và Thông tư số 19/TATC
ngày 02/10/1974 của TANDTC cũng đều xác định "chức năng của TAND
cấp phúc thẩm là xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ
thẩm, khi bản án chưa có HLPL bị kháng cáo hay kháng nghị" [48, tr. 207-
208]. Trong Luật tổ chức TAND năm 1981 và 1993, mặc dù nguyên tắc hai
cấp xét xử không chính thức được ghi nhận lại, nhưng trên thực tế, nguyên
tắc "hai cấp xét xử" vẫn được thừa nhận và TA cấp phúc thẩm vẫn xét xử
lại vụ án về mặt nội dung. Luật tổ chức TAND năm 2002 (được thông qua
ngày 02/4/2002 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa X) đã quy định nguyên tắc
"TAND thực hiện chế độ hai cấp xét xử" (Điều 11). Điều 20 BLTTHS sửa
đổi (được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI)
đã ghi nhận nguyên tắc này.
21
Pháp luật của các nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận nguyên
tắc "hai cấp xét xử". Tại Điều 5 BLTTHS mới của CHLB Nga (được Đuma

quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và Hội đồng Liên bang Nga phê chuẩn
ngày 05/12/2001) [80] xác định cấp phúc thẩm là "TA giải quyết vụ án
hình sự theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của TA cấp sơ
thẩm và TA cấp chống án chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị". Theo
pháp luật của Đan Mạch, thì TA cấp cao xét xử phúc thẩm những vụ án do
các TA cấp khu vực xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; TATC xét xử
phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA cấp cao bị kháng cáo, kháng nghị
[90, tr. 71-74]. Ở CHLB Đức, TA khu vực cấp cao (TA bang) có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm những vụ án sơ thẩm của TA khu vực có kháng cáo, kháng
nghị [90, tr. 122]. Tại Australia, TA tối cao bang có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm các bản án, quyết định của TA cấp dưới có kháng cáo, kháng nghị;
TA tối cao liên bang có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án có kháng
cáo, kháng nghị của Tòa Thượng thẩm của các bang [90, tr. 109-115]. Tại
Nhật Bản, TA cấp trên xem xét theo trình tự phúc thẩm các bản án sơ thẩm,
nếu có kháng cáo của bị cáo hoặc kháng nghị của công tố viên [90, tr. 25-
42],
Ngoài ra, pháp luật của các nước còn gián tiếp xác định TA cấp phúc
thẩm là cấp xét xử thứ hai thông qua việc cho phép áp dụng tại phiên tòa
phúc thẩm các quy định về thủ tục tố tụng ở phiên toà sơ thẩm, nếu không
có quy định khác. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập đầy đủ hơn ở mục 1.3
của luận án.
Từ phân tích trên có thể khẳng định rằng, tính chất của phúc thẩm
trong TTHS là xét xử lại các vụ án, mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. Việc xác định tính chất của phúc thẩm
trong BLTTHS 1988 và BLTTHS sửa đổi của nước ta là "xét lại " (như
tính chất của giám đốc thẩm) là không chính xác, mâu thuẫn với nguyên tắc
22
"TA thực hiện chế độ hai cấp xét xử" quy định tại Điều 20 BLTTHS sửa
đổi. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của TS. Nguyễn Văn Hiện khi
cho rằng: "Việc đồng nhất tính chất của giám đốc thẩm và phúc thẩm là không

có căn cứ cả về lý luận và thực tiễn, bởi vì đây là hai giai đoạn tố tụng khác
nhau về bản chất và yêu cầu tố tụng" [21, tr. 171].
1.1.3. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm và đối tượng của xét xử
phúc thẩm
1.1.3.1. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Theo Từ điển tiếng Việt, thì thẩm quyền xét xử là "sự phân định
thẩm quyền xét xử (giải quyết) các vụ án giữa các TA với nhau" [97, tr.
459]. Từ khái niệm này đó có thể thấy rằng, thẩm quyền xét xử phúc thẩm
cũng là sự phân định thẩm quyền giải quyết các vụ án mà bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị giữa các TA cấp
trên. Nó xác định TA cấp trên nào xét xử lại các vụ án theo thủ tục phúc
thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị đối với bản
án, quyết định sơ thẩm của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn luật định, thì vụ án sẽ được xem xét lại ở TA cấp cao hơn.
Như vậy, khác với thẩm quyền xét xử sơ thẩm được xác định trực tiếp
trong pháp luật, thẩm quyền xét xử phúc thẩm TA được xác định gián tiếp
trên cơ sở thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TS. Nguyễn Văn Huyên đã có nhận
xét rất đúng khi cho rằng, thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định
thẩm quyền của TA các cấp. Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của TA
các cấp, trước hết phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm [22, tr. 22].
Nói chung, pháp luật của hầu hết các nước đều quy định TA có thẩm
quyền xét xử phúc thẩm vụ án là TA cấp trên trực tiếp của TA đã xét xử sơ
thẩm vụ án mà bản án, quyết định chưa có HLPL có kháng cáo, kháng
23
nghị. Bên cạnh đó, pháp luật của một số nước (Nhật Bản, Hàn Quốc, ) còn
cho phép TA tối cao (TA cấp trên không trực tiếp) có thể xem xét vụ án
theo trình tự phúc thẩm trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ: BLTHS
của Hàn Quốc [83] quy định:
Trong các trường hợp sau đây có thể kháng cáo lên TA tối cao mà
không cần qua TA cấp cao đối với bản án sơ thẩm:

1. Khi TA không áp dụng đúng luật và văn bản dưới luật đối với các
sự kiện đã được công nhận trong bản án sơ thẩm hoặc có sai sót trong việc
áp dụng các đạo luật và văn bản dưới luật;
2. Khi hình phạt đã bị hủy bỏ hoặc thay đổi hoặc lệnh tổng ân xá đã
được công bố sau khi đã có bản án sơ thẩm (Điều 372).
Tuy nhiên, trong trường hợp nếu đơn kháng cáo này đã gửi đến TA
cấp cao, thì TA tối cao sẽ không xem xét (Điều 373).
1.1.3.2. Đối tượng của xét xử phúc thẩm
Sau khi xét xử sơ thẩm trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu
bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, thì vụ án hình sự được xem xét
lại theo thủ tục phúc thẩm ở TA cấp cao hơn. Tuy nhiên, về đối tượng của
xét xử phúc thẩm trong khoa học TTHS còn có nhận thức không thống nhất
tập trung ở hai loại quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối tượng của xét xử phúc thẩm là
những bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng
nghị [73, tr. 262], [74, tr. 287], [104, tr. 408]. Quan điểm này dựa trên cơ
sở quy định của BLTTHS nước ta (Điều 204) và BLTTHS của một số nước
khác (Australia, Nhật Bản, ). Quan điểm thứ hai cho rằng, đối tượng của
xét xử phúc thẩm là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có
HLPL bị kháng cáo, kháng nghị.
24
Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai về đối tượng của xét xử phúc
thẩm chính xác và có căn cứ hơn. Theo quy định các điều 19, 24, 28 và 30
Luật tổ chức TAND năm 1993; các điều 20, 24, Điều 30 Luật tổ chức TAND
năm 2002; Điều 18 và Điều 22 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002, thì đối
tượng của phúc thẩm được xác định là những vụ án mà bản án (quyết định)
chưa có HLPL của TA cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Pháp luật của
một số nước: Điều 5 BLTTHS (2001) CHLB Nga [80], CHLB Đức [90, tr.
122] cũng xác định đối tượng của xét xử phúc thẩm trong TTHS là những
vụ

án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo,
kháng nghị.
Mặt khác, theo Từ điển tiếng Việt, thì "đối tượng" được hiểu là "vật,
hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và hành động" [97, tr.
328]. Hoạt động xét xử của TA là nhằm xác định sự thật khách quan về vụ
án. Để đạt được mục đích đó, TA nói chung và TA cấp phúc thẩm nói
riêng, phải xem xét, đánh giá toàn bộ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ
cũng như các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, trong đó có bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có HLPL. Bản án, quyết định sơ thẩm chỉ là một
trong các văn bản tố tụng phản ánh kết quả giải quyết vụ án của TA cấp sơ
thẩm và chỉ là một trong những nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh về
vụ án được TA cấp phúc thẩm xem xét cùng với các chứng cứ khác khi xét
xử lại vụ án tại phiên tòa. Do đó, đối tượng của xét xử nói chung và xét xử
phúc thẩm nói riêng chỉ có thể là các vụ án.
Từ phân tích trên, có căn cứ để khẳng định rằng đối tượng của xét xử
phúc thẩm chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm
chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị (chứ không phải và không thể là
những bản án (quyết định) chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị).
25

×