Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài so sánh pháp luật việt nam với pháp luật của cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.2 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SINGHA NGIAMCHALEUN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
BẰNG TRỌNG TÀI – SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI
PHÁP LUẬT CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến

HÀ NỘI – Tháng 2/2013


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này có lẽ đã không viết lên đƣợc nếu thiếu sự động viên và
giúp đỡ, góp ý tận tình của gia đình, thầy cô và bạn bè cả trong và ngoài ngôi
trƣờng tôi đang học. Lời cảm ơn chân thành này tôi xin gửi đến tất cả họ. Tôi
xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc tới ngƣời thầy hƣớng dẫn luận
văn của tôi: TS. Nguyễn Văn Tuyến đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, luôn động
viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này. Thầy đã đọc và góp ý chân
tình từ những ddaonj viết ngắn, đến bố cục, nội dung, các thuật ngữ trong các


chƣơng bản thảo. Những hiểu biết và những góp ý của thầy khiến tôi cố gắng
nhiều hơn.
Tôi cũng xin cảm ơn các lãnh đạo, các đồng nghiệp đang công tác tại
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã động viên, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trogn quá trình thực hiện luận văn.
Không thể quên ngƣời vợ đã thông cảm, chia sẻ những khó khăn của
tôi và thời gian ít ỏi mà tôi dành cho gia đình khi tôi học tại Việt Nam.
Và cuối cùng tôi xin cảm ơn cha mẹ tôi, những ngƣời tôi mang ơn suốt
cuộc đời vì công ơn sinh thành và nuôi dƣỡng. Tôi cũng không quên cảm ơn
gia đình anh trai của tôi đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận
văn.
Hà Nội, Ngày 15 tháng 5 năm 2013
Tác giả

Singha Ngiamchaleun


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHDCND:

Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

TTTM:

Trọng tài thƣơng mại



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI............................................... 6
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI .............................. 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp thƣơng mại ............................ 6
1.1.2. Thời điểm phát sinh tranh chấp thƣơng mại ...................................... 10
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI......................................................... 12
1.2.1. Khái niệm và đặc trƣng của việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng trọng tài ............................................................................................... 12
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ........... 18
1.2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ................. 20
Chƣơng II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI – SO SÁNH GIỮA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ............................................... 27
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI – SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT LÀO.......................................................... 27
2.1.1. Khái quát về cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế ở Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào ......................................................................................... 27
2.1.2. So sánh thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế giữa
Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ............................................ 30
2.1.2.1. Các quy định về chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài........................................................................................................ 30
2.1.2.2. Các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại .... 32
Singha Ngiamchaleun


u nv n h cs


2.1.2.3. Các quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại ..... 34
2.1.2.4. Các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp ................. 36
2.1.2.5. Các quy định về giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài và cơ chế
thực thi phán quyết trọng tài ....................................................................... 45
2.1.3. Một số nhận xét, đánh giá và kết luận rút ra từ kết quả so sánh ....... 53
2.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO.................................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 64

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn
Theo nhận thức của tác giả, việc lựa chọn một đề tài khoa học để nghiên
cứu phải xuất phát từ việc đánh giá về tính cấp thiết của đề tài và tình hình
nghiên cứu đề tài đó nhƣ thế nào. Đối với một đề tài luận văn thạc sĩ, nguyên
lý này cũng không phải là ngoại lệ.
Về tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra ngày

càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh
tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát
triển của các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế của nƣớc
CHDCND Lào đang trên đà phát triển và nhanh chóng hội nhập vào cộng
đồng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, một trong những thách thức không nhỏ đối
với Lào đó là có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Lào là
một trong 20 nƣớc kém phát triển trên thế giới, cuộc sống của ngƣời dân phần
lớn gắn bó với nghề nông nghiệp. Công nghiệp kém phát triển kéo theo trình
độ khoa học kỹ thuật, trình độ phát triển năng lực thấp, nguồn lực con ngƣời
có trình độ còn thiếu và yếu... Để khắc phục những khó khăn hiện tại, thay đổi
bộ mặt cuộc sống, CHDCND Lào cần hết sức nỗ lực tìm những hƣớng đi phù
hợp với tình hình kinh tế của mình.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các giao dịch thƣơng mại ngày
càng trở nên đa dạng hơn. Điều này tất yếu dẫn đến những tranh chấp phát
sinh từ những quan hệ thƣơng mại và xu hƣớng thực tế cho thấy các tranh
chấp này ngày càng trở nên phức tạp. Tranh chấp thƣơng mại là những tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại. Mặc dù tranh chấp không phải là
điều mong muốn của các thƣơng nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp
dụng các biện pháp nhằm loại bỏ tranh chấp song các bên không thể khẳng
định rằng sẽ không có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra trong các thƣơng vụ mà

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


2

họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng mà các thƣơng nhân cần nhìn nhận trƣớc
đó là giải pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên

thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, các hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến
đang đƣợc sử dụng bao gồm: thƣơng lƣợng, hòa giải, tòa án, trọng tài.
Thực tiễn cho thấy trong những giải pháp nói trên và trừ những vụ việc
đặc biệt, giải pháp trọng tài thƣờng đƣợc các bên lựa chọn bởi các ƣu điểm
vƣợt trội của nó.
Về tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khác nhau liên quan
đến chủ đề giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài. Các công trình
nghiên cứu này đƣợc thực hiện dƣới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau nhƣ
đề tài khoa học các cấp, bài viết tạp chí, khóa luận tốt nghiệp cử nhân, luận
văn thạc sĩ và kể cả luận án tiến sĩ.
Ở nƣớc CHDCND Lào, kể từ khi góp ý cho dự án xây dựng Luật trọng
tài, các chuyên gia pháp lý đã có rất nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc
nên xây dựng Luật trọng tài theo hƣớng nào để phù hợp với tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội hiện tại ở Lào. Tuy nhiên, do Luật Trọng tài Thƣơng mại ở
CHDCND Lào chƣa đƣợc ban hành nên hiện nay chƣa có một công trình nào
ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu trực tiếp về vấn đề so sánh pháp luật về
giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài giữa Việt Nam và Lào. Đây là
điều kiện thuận lợi để tác giả nghĩ đến ý tƣởng lựa chọn vấn đề này làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu đề tài nhƣ đã
phân tích ở trên, nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc nghiên cứu cơ chế
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với các quốc gia đang phát triển nói chung
và đối với nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nói riêng, xét thấy sự tƣơng đồng
về chế độ chính trị, hoàn cảnh địa lý, kinh tế giữa Việt Nam và Lào, tác giả đã
quyết định lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs



3

tài – So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình.
Thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào
việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật Lào trong lĩnh vực giải
quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài trên cơ sở so sánh, đối chiếu với
pháp luật Việt Nam để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn
của Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn có mục đích nghiên cứu chủ yếu là:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng
trọng tài và pháp luật về giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài nói
chung;
- Phân tích những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa pháp luật về giải
quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ở Việt Nam với pháp luật về giải
quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ở Lào nhằm rút ra các bài học
kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thƣơng
mại bằng trọng tài hiện nay ở Lào;
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp thƣơng mại bằng trọng tài của nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phù hợp với yêu cầu của một luận văn thạc sĩ và tên đề tài đã chọn, Luận
văn này không nghiên cứu toàn bộ hoạt động của Trọng tài thƣơng mại ở
CHDCND Lào so sánh với toàn bộ hoạt động của trọng tài thƣơng mại ở Việt
Nam mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trọng tài
thƣơng mại ở Việt Nam trong sự so sánh với các quy định về trọng tài thƣơng
mại ở CHDCND Lào. Trên cơ sở đó đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở CHDCND Lào từ những bài học kinh
nghiệm trong thực tiễn lập pháp về trọng tài thƣơng mại của Việt Nam.
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với mục đích của đề tài là so sánh pháp luật về trọng tài thƣơng mại giữa
Việt Nam và Lào nên tác giả luận văn cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất
cần đƣợc lựa chọn để thực hiện luận văn này chính là áp dụng lý thuyết về so
sánh luật học và kết hợp với việc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu phổ
quát trong khoa học xã hội nói chung và luật học nói riêng.
Nhằm triển khai ý tƣởng nêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác
giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích tổng hợp,
so sánh đối chiếu, thống kê, khảo sát và khái quát hóa... Trong các phƣơng
pháp nghiên cứu này, tác giả xác định phƣơng pháp phân tích tổng hợp, so
sánh đối chiếu pháp luật là những phƣơng pháp chủ đạo để giải quyết các vấn
đề do đề tài đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, về phƣơng diện lý luận, luận văn đã góp phần làm rõ hơn một
số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài trong bối
cảnh của những quốc gia đang phát triển. Luận văn cũng chỉ rõ những vấn đề
cần chú ý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong hoạt động thƣơng mại ở những quốc gia đang phát triển nhƣ Việt
Nam và Lào.

Thứ hai, về phƣơng diện thực tiễn, luận văn đã làm rõ thực trạng pháp
luật về trọng tài thƣơng mại của Việt Nam và Lào, đồng thời phân tích những
điểm tƣơng đồng và khác biệt cơ bản giữa pháp luật hiện hành của Việt Nam
và Lào về giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài để làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở
CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay.

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


5

6. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc thiết kế bố cục gồm 2 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng trọng tài.
Chƣơng II: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thƣơng
mại bằng trọng tài – so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và một số đề xuất.

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


6


Chƣơng I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp thƣơng mại
Tranh chấp thƣơng mại là hiện tƣợng kinh tế - xã hội xuất hiện trong bất
kỳ nền kinh tế nào, đặc biệt là trong điều kiện của các nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trƣờng. Xét về bản chất, tranh chấp thƣơng mại là một dạng cụ
thể của tranh chấp kinh tế phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế
nói chung. [1]
Trong pháp luật thực định Việt Nam, nhiều khái niệm pháp lý khác nhau
đã đƣợc đề cập đến trong các văn bản quy phạm pháp luật để chỉ các tranh
chấp thƣơng mại trong lĩnh vực thƣơng mại. Chẳng hạn, Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 sử dụng khái niệm “tranh chấp kinh tế”
và liệt kê những tranh chấp đƣợc coi là tranh chấp kinh tế, bao gồm: tranh
chấp hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân và pháp nhân, pháp nhân và cá nhân có
đăng kí kinh doanh, tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa
các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và
giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và
các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật. Còn Luật thƣơng mại 1997
của Việt Nam lại định nghĩa “tranh chấp thƣơng mại” là những tranh chấp
phát sinh do việc không thực hiện hoặc thƣc hiện không đúng hợp đồng trong
hoạt động thƣơng mại. Theo luật này, những tranh chấp không phát sinh từ
hợp đồng thƣơng mại không đƣợc gọi là tranh chấp thƣơng mại. Có thể nhận
thấy rằng quan niệm về hoạt động thƣơng mại và tranh chấp thƣơng mại theo
Luật thƣơng mại 1997 đã không bao quát hết các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thƣơng mại theo cách hiểu phổ biến trên thế giới. Điều này đã tạo ra

Singha Ngiamchaleun


u nv n h cs


7

những xung đột pháp luật giữa luật quốc gia với luật quốc tế, gây ra những trở
ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng pháp luật và hội nhập quốc tế.
Trƣớc những bất cập của pháp luật về hoạt động thƣơng mại và tranh
chấp thƣơng mại, Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003 của Việt Nam đã
tiếp cận khái niệm hoạt động thƣơng mại theo nghĩa rộng, làm căn cứ để xác
định các tranh chấp thƣơng mại thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
thƣơng mại phù hợp với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế.
Theo quy định của Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003 của Việt
Nam, tranh chấp thƣơng mại là tất cả những tranh chấp phát sinh từ việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thƣơng mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thƣơng
mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tƣ vấn, kĩ thuật, li xăng, đầu
tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng bộ và các
hành vi thƣơng mại khác theo quy định của pháp luật.[7]
Tiếp theo đó, sự ra đời của Luật Thƣơng mại năm 2005, quan niệm về
hoạt động thƣơng mại và tranh chấp thƣơng mại đã có sự đổi mới, theo hƣớng
tiệm cận gần hơn với quan niệm về hoạt động thƣơng mại và tranh chấp
thƣơng mại theo thông lệ quốc tế. Bên cạnh sự đổi mới của pháp luật nội
dung, pháp luật tố tụng của Việt Nam cũng đã có những cải cách quan trọng
trong các quy định về giải quyết tranh chấp thƣơng mại[4]. Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 của Việt Nam khi quy định về thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại đã sử dụng khái niệm “tranh chấp về
kinh doanh, thƣơng mại” và liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án bao gồm:

- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thƣơng mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận,
bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý, ký
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


8

gửi, thuê, cho thê, thuê mua, xây dựng, tƣ vấn, kỹ thuật, vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đƣờng sắt, đƣờng bộ, đƣờng thủy nội địa, vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, mua bán cổ phiểu, trái
phiếu và giấy tờ có giá khác, đầu tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò,
khai thác;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức, tổ chức của công ty;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thƣơng mại mà pháp luật quy
định.[3]
Có thể nhận thấy, các tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại đƣợc quy
định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thực chất là các tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thƣơng mại theo cách hiểu về hoạt động thƣơng mại trong Luật
Thƣơng mại 2005, hay là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh theo
cách hiểu về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2005.
Tóm lại, từ những phân tích trên đây, về phƣơng diện học thuật, tranh
chấp thƣơng mại có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng (xung đột) về

quyền, nghĩa vụ và lợi ích giữa các chủ thể tham gia quan hệ thương mại phát
sinh trong hoạt động thương mại.
Dƣới tác động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa thƣơng mại, tranh
chấp thƣơng mại có xu hƣớng ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại và
phức tạp về nội dung. Tuy nhiên, suy cho cùng thì mọi tranh chấp thƣơng mại
đều giống nhau ở một số điểm nhất định. Phần phân tích dƣới đây sẽ làm rõ
hơn những đặc điểm của tranh chấp thƣơng mại.

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


9

Về khía cạnh học thuật, có thể hình dung tranh chấp thƣơng mại có
những đặc điểm pháp lý cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp thƣơng mại là các thƣơng
nhân. Sở dĩ nhƣ vậy là bởi vì, quan hệ thƣơng mại vốn dĩ có thể đƣợc thiết lập
giữa các thƣơng nhân với nhau hoặc giữa thƣơng nhân với các chủ thể khác
không phải là thƣơng nhân. Vì thế, một tranh chấp chỉ đƣợc gọi là tranh chấp
thƣơng mại khi có ít nhất một bên tranh chấp là thƣơng nhân. Ngoài thƣơng
nhân, trong những trƣờng hợp nhất định các cá nhân, tổ chức khác cũng có
thể là chủ thể của tranh chấp thƣơng mại.
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thƣơng mại thƣờng là do có hành vi
vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật của một trong các bên hoặc cả hai
bên tham gia quan hệ thƣơng mại. Trong nhiều trƣờng hợp, tranh chấp thƣơng
mại phát sinh do các bên giả định có vi phạm hợp đồng và xâm hại đến lợi ích
hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi hành vi vi
phạm hợp đồng hay vi phạm pháp luật về thƣơng mại đều dẫn đến tranh chấp

thƣơng mại, bởi vì bên bị vi phạm có thể vì những lý do khác nhau mà không
thể hiện sự phản đối của mình đối với bên có hành vi vi phạm và không có
những dấu hiệu cho thấy sự mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền, lợi
ích hợp pháp giữa các chủ thể đó với nhau. Vì thế mà tranh chấp không phát
sinh, cho dù đã có hành vi vi phạm hợp đồng hay vi phạm pháp luật.
Thứ ba, nội dung của tranh chấp thƣơng mại là những xung đột về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thƣơng mại. Các quan
hệ thƣơng mại có bản chất là các quan hệ tài sản, vì vậy nội dung tranh chấp
thƣơng mại thƣờng liên quan trực tiếp tới những lợi ích kinh tế của các bên
trong quan hệ thƣơng mại.
Thứ tư, tranh chấp tƣơng mại đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp phải
đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, thuận tiện, sao cho ít gây ra những tổn
thất về uy tín và tiền bạc cho các bên tranh chấp (vốn dĩ chủ yếu là các nhà
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


10

kinh doanh).
1.1.2. Thời điểm phát sinh tranh chấp thƣơng mại
Trong quá trình giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp
thƣơng mại nói riêng, việc tòa án thụ lý hay không thụ lý một vụ tranh chấp
thƣờng liên quan đến việc xác định quyền khởi kiện của các bên tranh chấp.
Nói cách khác, khi bên khởi kiện đƣợc xác định là mất quyền khởi kiện do hết
thời hiệu khởi kiện thì khi đó tòa án mới có quyền từ chối thụ lý vụ kiện. Tuy
nhiên, cả về lý thuyết và thực tiễn pháp lý đều cho thấy rằng thời hiệu khởi
kiện là khái niệm liên quan mật thiết với thời điểm phát sinh tranh chấp. Vì
vậy, việc xác điểm thời điểm phát sinh tranh chấp nói chung và tranh chấp

thƣơng mại nói riêng trở thành vấn đề quan trọng và có ý nghĩa quyết định
đến việc xác định thời hiệu khởi kiện của các bên tranh chấp còn hay đã hết.
Nhƣ đã phân tích ở trên, tranh chấp thƣơng mại là sự mâu thuẫn, bất
đồng hay xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích giữa các bên tham gia hoạt
động thƣơng mại. Do vậy, về nguyên tắc có thể cho rằng thời điểm phát sinh
tranh chấp thƣơng mại chính là thời điểm phát sinh mâu thuẫn, xung đột hay
bất đồng giữa các bên về quyền, nghĩa vụ hay lợi ích (với điều kiện các mâu
thuẫn, xung đột hay bất đồng này đã thể hiện ra bên ngoài mặt khách quan
thông qua những bằng chứng nhất định có thể chứng minh đƣợc). Nói khác
đi, thời điểm phát sinh tranh chấp thƣơng mại là thời điểm phát sinh sự kiện
pháp lý theo đó một bên hoặc cả hai bên thể hiện sự phản đối bên kia bằng
những hành vi pháp lý cụ thể có thể xác định đƣợc, chẳng hạn nhƣ việc gửi
văn bản khiếu nại trực tiếp cho bên vi phạm, hoặc gửi đơn kiện cho các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thƣơng mại để yêu cầu giải quyết
theo quy định của pháp luật…
Căn cứ vào nguyên tắc nêu trên, về lý thuyết, có thể xác định thời điểm
phát sinh tranh chấp thƣơng mại là những thời điểm cụ thể sau đây:
- Tranh chấp thƣơng mại phát sinh khi có ít nhất một bên gửi văn bản
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


11

cho bên kia với nội dung thể hiện phản đối hành vi vi phạm hợp đồng hay vi
phạm pháp luật của chủ thể đó. Văn bản này có thể kèm theo nội dung cụ thể
về việc yêu cầu bên vi phạm phải khắc phục hậu quả vi phạm, hậu quả thiệt
hại hoặc yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm.
- Tranh chấp thƣơng mại cũng phát sinh khi có ít nhất một bên tham gia

hoạt động thƣơng mại gửi đơn khiếu nại hoặc đơn khởi kiện cho chủ thể có
thẩm quyền (cơ quan giải quyết tranh chấp) để yêu cầu cơ quan này giải quyết
sự xung đột, bất đồng về quyền, nghĩa vụ hay lợi ích giữa các bên tham gia
hoạt động thƣơng mại.[1]
Từ các phân tích trên đây, có thể rút ra một số kết luận nhƣ sau:
Thứ nhất, việc xác định thời điểm phát sinh tranh chấp nói chung và
tranh chấp thƣơng mại nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá
trình giải quyết tranh chấp, vì thời điểm phát sinh tranh chấp thƣờng đƣợc coi
là cơ sở để xác định thời hiệu khởi kiện và do đó ảnh hƣởng đến việc đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị thiệt hại trong quan hệ thƣơng mại.
Thứ hai, việc xác định thời điểm phát sinh tranh chấp nói chung và tranh
chấp thƣơng mại nói riêng phải đặc biệt chú ý đến sự kiện pháp lý đã diễn ra
trong đó thể hiện sự mâu thuẫn, xung đột hay bất đồng về quyền, nghĩa vụ và
lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ thƣơng mại. Nếu không có sự kiện pháp
lý này thì khó có thể khẳng định là tranh chấp thƣơng mại đã phát sinh giữa
các bên hay chƣa và thời hiệu khởi kiện còn hay đã hết.
Thứ ba, tranh chấp nói chung và tranh chấp thƣơng mại nói riêng chỉ thể
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan để chúng ta nhận biết đƣợc thông qua
những hành vi pháp lý cụ thể do các bên thực hiện. Những hành vi pháp lý
này luôn luôn thể hiện sự mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp giữa các
bên tranh chấp.
Thứ tư, hầu hết các tranh chấp nói chung và tranh chấp thƣơng mại nói

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


12


riêng đều bắt nguồn từ những hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp
luật của một bên hoặc của các bên tham gia quan hệ pháp luật. Tuy nhiên,
không phải mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm hợp đồng trong
thƣơng mại đều tất yếu dẫn đến tranh chấp thƣơng mại.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1.2.1. Khái niệm và đặc trƣng của việc giải quyết tranh chấp thƣơng
mại bằng trọng tài
Tranh chấp thƣơng mại là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh
doanh và vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng
mại đƣợc coi là đòi hỏi tự thân của nền kinh tế thị trƣờng.
Về lý thuyết, có thể hiểu giải quyết tranh chấp thƣơng mại chính là việc
các bên lựa chọn những hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa tranh chấp,
bất đồng, xung đột lợi ích giữa họ với nhau, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi
ích mà các bên có thể chấp nhận đƣợc. Nói cách khác, đây chính là quá trình
các bên tranh chấp tự thực hiện hoặc thông qua các chủ thể có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp (hòa giải, trọng tài viên, thẩm phán…) để giải tỏa
xung đột, bất đồng về quyền và lợi ích giữa các bên nhằm khôi phục tình
trạng ban đầu nhƣ trƣớc khi có tranh chấp. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội, mức độ hoàn thiện của pháp luật, sự ảnh hƣởng của văn
hóa dân tộc của mỗi quốc gia mà nhà làm luật có thể xây dựng các cách thức,
biện pháp giải quyết các tranh chấp khác nhau. Ngày nay, dƣới sự tác động
của nền kinh tế thị trƣờng, của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc
gia trên thế giới đều thừa nhận rộng rãi các hình thức giải quyết tranh chấp có
tính phổi biến nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài và tòa án.
Trong các hình thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại, việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài đƣợc xem là phƣơng thức giải quyết tranh chấp phù
hợp nhất với đặc thù của tranh chấp thƣơng mại.
Singha Ngiamchaleun


u nv n h cs


13

Về lý thuyết, có thể hiểu khái niệm giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng trọng tài nhƣ sau:
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là cơ chế giải quyết
tranh chấp thương mại theo đó cơ quan trọng tài có thẩm quyền tiến hành thụ
lý, xem xét các chứng cứ trong vụ tranh chấp để đưa ra phán quyết cuối cùng
về việc phân định quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và yêu cầu các bên tự
giác thực hiện.
Khái niệm trên cho thấy về bản chất, trọng tài là cơ quan tài phán phi
nhà nƣớc (phi chính phủ) do các đƣơng sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết
các tranh chấp thƣơng mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba đƣợc các
bên tranh chấp lựa chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất
đồng giữa họ với nhau trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
Cũng giống nhƣ thƣơng lƣợng và hòa giải, phƣơng thức trọng tài bắt nguồn từ
sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đƣa tranh chấp thƣơng
mại ra giải quyết tại trọng tài, các bên phải có thỏa thuận về việc lựa chọn
phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Việc thỏa thuận này có thể
đƣợc thực hiện bằng một điều khoản cụ thể nằm trong hợp đồng thƣơng mại,
hoặc bằng một thỏa thuận riêng độc lập với hợp đồng thƣơng mại. Giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài giống hòa giải ở chỗ cả hai phƣơng thức này đều có
sự xuất hiện của ngƣời thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của
ngƣời thứ ba chỉ mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau.
Còn trong phƣơng thức trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đƣa
ra phán quyết có giá trị pháp lý để đòi hỏi các bên phải tự giác thi hành.
Qua nghiên cứu, khảo sát cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng
trọng tài, có thể nhận thấy việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng

tài có những đặc trƣng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài là một cơ chế
tài phán đặc biệt không phải do Nhà nƣớc thực hiện mà do một tổ chức tài
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


14

phán phi chính phủ thực hiện dựa trên sự thỏa thuận, yêu cầu của các bên
tranh chấp. Trọng tài là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp
thƣơng mại, theo đó trọng tài không chỉ góp phần tạo ra trào lƣu dân chủ và tự
do trong tƣ pháp mà hơn thế nữa trọng tài là “ngƣời” chia sẻ nhiệm vụ với
Nhà nƣớc trong việc xóa bỏ các tranh chấp, xung đột, bất đồng trong xã hội
thông qua việc giải quyết các tranh chấp thƣơng mại.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa
yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, sự thỏa thuận làm tiền đề cho phán
quyết và không thể có phán quyết trọng tài thoát ly những yếu tố đã đƣợc thỏa
thuận. Bởi vậy về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi
pháp luật, các đƣơng sự có thể lựa chọn bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào đó trên
thế giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích công, pháp luật
nhiều quốc gia chỉ thừa nhận thẩm quyền của trọng tài trong lĩnh vực luật tƣ.
Thứ ba, phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài
cho phép bảo đảm quyền tự định đoạt của các đƣơng sự cao hơn so với
phƣơng thức tòa án. Điều này thể hiện ở chỗ, các đƣơng sự trong tố tụng
trọng tài có quyền lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy
tắc tố tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp…
Thứ tư, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể
kháng cáo trƣớc bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Mặt khác, cơ chế giải quyết

tranh chấp thƣơng mại của trọng tài không bắt buộc trọng tài phải xử công
khai. Đặc điểm này cho phép tổ chức trọng tài có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các vụ tranh chấp thƣơng mại, ít
tổn hại đến uy tín của các bên tranh chấp (do không bắt buộc phải xử công
khai) nên sẽ bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các bên tranh chấp.
Thứ năm, phán quyết trọng tài tuy không có hiệu lực cƣỡng chế thi hành
giống nhƣ phán quyết của toà án nhƣng pháp luật các nƣớc đều quy định cơ
chế hỗ trợ từ phía toà án đối với tổ chức và hoạt động của trọng tài. Thông
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


15

qua trình tự công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài, tòa án đảm bảo
thực thi trên thực tế các quyết định của trọng tài khi một hoặc các bên đƣơng
sự không tự nguyện thực hiện. Ngoài ra, tòa án còn hỗ trợ trọng tài ở các nội
dung khác nhƣ quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên
tài sản, bảo toàn chứng cứ, cấm hoặc buộc đƣơng sự thực hiện một số hành vi
nhất định…
Thứ sáu, việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài đƣợc thực
hiện dƣới hai phƣơng thức cơ bản là trọng tài vụ việc (trọng tài ad hoc) và
trọng tài thƣờng trực (trọng tài quy chế).
Trọng tài vụ việc là phƣơng thức trọng tài cho các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết
xong vụ việc đó. Bản chất của trọng tài vụ việc đƣợc thể hiện qua các đặc
trƣng cơ bản nhƣ: (i) Đƣợc thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt
hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp; (ii) Không có trụ sở thƣờng trực,
không có bộ máy điều hành, không có danh sách trọng tài viên. Trọng tài viên

đƣợc các bên chọn hoặc đƣợc chỉ định có thể là ngƣời có tên trong hoặc ngoài
danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào; (iii) Quy tắc tố
tụng của trọng tài vụ việc để giải quyết vụ tranh chấp có thể do các bên thỏa
thuận xây dựng, lựa chọn từ bất kì một quy tắc tố tụng nào của các trung tâm
trọng tài.
Trọng tài vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản, linh hoạt và mềm dẻo về
phƣơng thức hoạt động nên nói chung nó phù hợp với những tranh chấp ít
tình tiết phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và nhất là các bên tranh
chấp có kiến thức và hiểu biết pháp luật cũng nhƣ kinh nghiệm tranh tụng.
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài đƣợc tổ chức chặt chẽ, có bộ
máy, có trụ sở làm việc thƣờng xuyên, có danh sách trọng tài viên hoạt động
theo điều lệ và quy chế tố tụng riêng. Hầu hết các tổ chức trọng tài lớn, có uy
tín trên thế giới đều thành lập theo mô hình này dƣới các tên gọi nhƣ: trung
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


16

tâm trọng tài, viện trọng tài, hội đồng trọng tài quốc gia và quốc tế… trong
đó, hình thức tổ chức chủ yếu và phổ biến của trọng tài thƣờng trực vẫn là các
trung tâm trọng tài.
Về lý thuyết, trọng tài thƣờng trực có một số đặc trƣng cơ bản nhƣ:
(i) Là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà
nƣớc. Tổ chức trọng tài thƣờng trực hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải
mà không đƣợc cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nƣớc. Khi giải quyết
tranh chấp, trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nƣớc mà nhân danh
ngƣời thứ ba độc lập và đƣa ra phán quyết;
(ii) Trung tâm trọng tài có tƣ cách pháp nhân, mỗi trung tâm trọng tài là

mỗi pháp nhân, tồn tài độc lập và bình đẳng với các trung tâm trọng tài khác.
Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp
dƣới nhƣ hệ thống các cơ quan tài phán nhà nƣớc mà hoàn toàn độc lập và
bình đẳng với nhau trong vấn đề tổ chức và hoạt động chuyên môn;
(iii) Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và cấc
trọng tài viên của trung tâm. Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài
gồm có chủ tich, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có
tổng thƣ kí trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. Bên cạnh
ban điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài viên trong danh sách
trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các trọng tài viên tham gia vào việc
giải quyết tranh chấp khi đƣợc chọn hoặc mặc định;
(iv) Trung tâm trọng tài có thể tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng. Trong quá trình hoạt động các trung tâm trọng tài có
quyền mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động, nhƣng phải đƣợc sự
chấp thuận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Đặc điểm này cho phép các
trung tâm trọng tài có thể đƣợc tổ chức và hoạt động với tính chất trọng tài
chuyên ngành (chỉ giải quyết những loại tranh chấp thƣơng mại nhất định).

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


17

Có thể nhận thấy, giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng con đƣờng
trọng tài có nhiều ƣu điểm nhƣ: thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các
bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, khả năng chỉ
định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn đƣợc trọng tài viên giỏi, nhiều kinh
nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp qua có điều kiện giải quyết

tranh chấp hợp đồng nhanh chóng, chính xác; nguyên tắc trọng tài không đòi
hỏi giải quyết một cách công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ các bí quyết
kinh doanh, giữ đƣợc uy tín của các bên thƣơng lƣợng; trọng tài không đại
diện cho quyền lực tƣ pháp của Nhà nƣớc nên rất phù hợp để giải quyết các
tranh chấp có nhân tố nƣớc ngoài. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp
thƣơng mại bằng trọng tài cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định nhƣ: Trọng
tài không đại diện cho quyền lực tƣ pháp của Nhà nƣớc, vì vậy có thể gặp khó
khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhƣ xác minh, thu thập chứng cứ,
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; phán quyết trọng tài không có giá
trị cƣỡng chế thi hành thông qua các cơ quan thi hành án của nhà nƣớc…
Từ những phân tích ở trên, có thể đƣa ra một số kết luận sau đây:
Một là, giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài là một hình thức
giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba – tổ chức trọng tài/trọng
tài viên làm trung gian giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ƣu nhằm loại trừ
tranh chấp.
Hai là, giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài là một cơ chế tài
phán phi chính phủ, do đó không áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự mà đƣợc thực hiện theo các quy định riêng về tố tụng trọng tài.
Ba là, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại là sự kết
hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.
Bốn là, thủ tục tố tụng trọng tài thƣơng mại rất linh hoạt, phụ thuộc vào
sự thỏa thuận của các bên hơn so với tòa án.

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


18


Năm là, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực bắt
buộc thi hành. Nhƣ vậy phán quyết của trọng tài không thể bị kháng cáo trƣớc
bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Các bên chỉ có quyền yêu cầu tòa án hủy quyết
định trọng tài khi có những căn cứ để hủy phán quyết trọng tài theo quy định
của pháp luật về trọng tài thƣơng mại.
Sáu là, cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài có sự hỗ
trợ từ tòa án trong việc bảo đảm thực thi các quyết định của trọng tài.
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài
Nhƣ đã đề cập ở trên, tố tụng trọng tài là một cơ chế tài phán đặc thù,
vốn dĩ không dựa trên quyền lực tƣ pháp của Nhà nƣớc nên việc thực hiện đòi
hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc thù.
Trong pháp luật thực định của các nƣớc, ngƣời ta thừa nhận một số
nguyên tắc cơ bản sau đây của tố tụng trọng tài:
Thứ nhất, nguyên tắc thỏa thuận trọng tài.
Đây là nguyên tắc đầu tiên và cũng là một trong những nguyên tắc cơ
bản của tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này ấn định rằng trọng tài chỉ đƣợc thụ
lý giải quyết các vụ tranh chấp thƣơng mại nếu các bên trong quan hệ tranh
chấp cùng thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp đó.
Nguyên tắc này đƣợc quy định trong pháp luật về tố tụng trọng tài dựa
trên tƣ tƣởng, triết lý tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, vì
trọng tài thƣơng mại không phải là một cơ quan tƣ pháp của Nhà nƣớc mà chỉ
là một tổ chức tài phán phi chính phủ. Nhƣ vậy, thỏa thuận trọng tài đƣợc
xem là vấn đề then chốt có vai trò quyết định đối với việc áp dụng phƣơng
thức trọng tài. Nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì
không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể
là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng và phải đƣợc lập
thành văn bản. Theo quy định của nhiều nƣớc, nếu không có thỏa thuận trọng

Singha Ngiamchaleun


u nv n h cs


19

tài đƣợc lập bằng văn bản thì trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải
quyết. Nhƣng điều kiện đó vẫn chƣa đủ. Để tranh chấp thƣơng mại đƣợc giải
quyết tại trọng tài thì các bên còn phải thỏa mãn điều kiện nữa là thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực. Nếu thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu thì coi nhƣ chƣa có
thỏa thuận về trọng tài và do đó trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp đó.
Thứ hai, nguyên tắc “trọng tài phải tuân theo thỏa thuận của các bên”.
Nguyên tắc này cũng đƣợc thừa nhận trong pháp luật trọng tài của nhiều
nƣớc trên thế giới. Tại Việt Nam, nguyên tắc này đƣợc ghi nhận tại Khoản 1
điều 4 Luật trọng tài thƣơng mại 2010 nhƣ sau: “Trọng tài viên phải tôn trọng
thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái
đạo đức xã hội”.[5]
Sở dĩ có nguyên tắc này trong tố tụng trọng tài là bởi vì, các bên tranh
chấp cần đƣợc đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt, trong đó có việc tự định
đoạt về nội dung giải quyết tranh chấp và thời gian, địa điểm giải quyết tranh
chấp. Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức trọng tài, địa điểm giải
quyết vụ tranh chấp đó, thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải
quyết tranh chấp. Chỉ có trong tố tụng trọng tài, một hình thức tài phán tƣ, các
bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề nhƣ vậy và trọng tài viên bắt buộc
phải tôn trọng nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã
hội. Nếu trọng tài viên vi phạm nguyên tắc này thì quyết định của hội đồng
trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Thứ ba, nguyên tắc trong tài viên phải độc lập, vô tƣ, khách quan trong
quá trình giải quyết tranh chấp.
Đây là một nguyên tắc cơ bản của các cơ chế tài phán giải quyết tranh

chấp nói chung. Trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp, những yếu tố
làm ảnh hƣởng đến sự độc lập, vô tƣ, khách quan của các trọng tài viên đều
phải đƣợc loại trừ. Trọng tài viên phải có đủ các điều kiện nhất định để đảm
Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


20

bảo rằng họ độc lập, vô tƣ, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Theo nguyên tắc này thì phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm,
nghĩa là có hiệu lực ngay sau khi ban hành mà không thể bị kháng cáo, kháng
nghị giống nhƣ trong tố tụng tòa án (vốn dĩ phải tuân thủ nguyên tắc hai cấp
xét xử). Nguyên tắc này là một trong những nét đặc trƣng thể hiện rõ sự khác
biệt giữa tố tụng trọng tài và tố tụng tòa án. Trọng tài là cơ quan tài phán phi
chính phủ chỉ tổ chức một cấp xét xử, quyết định của trọng tài có giá trị chung
thẩm, không thể bị kháng cáo kháng nghị bởi bất cứ cơ quan hay tổ chức nào.
Nguyên tắc này mang lại cho trọng tài ƣu thế trong việc giải quyết tranh chấp
nhanh gọn, dứt điểm; tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn nguy cơ có những quyết định
trọng tài trái pháp luật mà không đƣợc xem xét lại bởi cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền. Thiết nghĩ vấn đề này cần đƣợc xem xét lại.
Thứ năm, nguyên tắc xét xử kín.
Đây cũng là một nguyên tắc mang tính đặc trƣng của tố tụng trọng tài.
Nguyên tắc này đƣợc thiết lập nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của các
bên tranh chấp, vốn dĩ là các nhà kinh doanh cần đƣợc bảo vệ về uy tín và bí
mật kinh doanh. Hầu hết pháp luật về trọng tài của các nƣớc đều thừa nhận
nguyên tắc trọng tài xử kín, nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể
hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên đƣợc giữ kín, đáp ứng

nhu cầu tin cậy trong quan hệ thƣơng mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong bối
cảnh cạnh tranh trong nền kinh tế thị trƣờng.
1.2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài
Theo thông lệ chung, trình tự giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng
trọng tài bao gồm các thủ tục sau đây:
Thứ nhất, bên nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại tổ chức trọng tài đã
đƣợc các bên thỏa thuận lựa chọn.

Singha Ngiamchaleun

u nv n h cs


×