Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.44 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ PHƢƠNG

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS Trần Ngọc
Dũng, người thầy đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt quá trình làm luận văn của
mình. Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo đã trang bị cho tôi những
kiến thức thiết thực trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Và cuối cùng, tôi xin cảm ơn cha mẹ tôi, những người tôi mang ơn suốt cuộc
đời vì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng.
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2013


Tác giả
Đỗ Thị Phƣơng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTTT

: Đầu tư trực tiếp

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

ĐTRNN

: Đầu tư ra nước ngoài

ĐTTTRNN

: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

FDI

: Foreign Direct Investment
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

NHNN

: Ngân hàng nhà nước


UBND

: Ủy ban nhân dân

WTO

: World Trade Organization
(Tổ chức Thương mại Thế giới)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ........................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra
nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. .................................................. 6
1.1.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam. ................................................................................................ 6
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. ..................................................................................... 7
1.1.3. Bản chất của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. ..................................................................................... 9
1.2. Mục đích, vai trò của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam. ........................................................................... 10
1.2.1. Mục đich của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. ................................................................................... 10
1.2.2. Vai trò của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam. .............................................................................................. 11
1.3. Hệ thống pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các doanh

nghiệp Việt Nam – Quá trình hình thành và phát triển. ............................. 13
1.4. Nội dung của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. .................................................................................. 18
1.5. Pháp luật của một số nƣớc về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam................................... 19
1.5.1. Pháp luật của một số nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. ............ 19
1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam....................................................... 24
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA
NƢỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. ......................... 27


2.1. Các quy định về doanh nghiệp đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài. .......... 27
2.2. Các quy định về lĩnh vực khuyến khích, cấm đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc
ngoài. ................................................................................................................. 30
2.3. Các quy định về điều kiện đối với các doanh nghiệp đầu tƣ trực tiếp ra
nƣớc ngoài. ....................................................................................................... 34
2.4. Các quy định về hình thức đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp. ................................................................................................... 38
2.5. Các quy định về thủ tục đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các doanh
nghiệp. ............................................................................................................... 40
2.6. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp khi đầu tƣ
trực tiếp ra nƣớc ngoài. ................................................................................... 47
2.7. Các quy định về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của các doanh
nghiệp đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài. .......................................................... 51
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM. ........................................................................................ 55
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam. .................................................................... 55
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra

nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. ................................................ 57
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tƣ trực
tiếp ra nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. .................................... 59
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT.................................. 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH ............................................................................................. 66


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) là vấn đề mang tính chất toàn
cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị
trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh
doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận
chuyển hàng hoá, tránh các rào cản thuế quan và phi thuế quan, đồng thời tăng
cường khoa học kỹ thuật, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thế
giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã
ban hành một loạt văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN và đã thu
được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, có thể thấy từ trước đến nay, chính
sách đầu tư của nhà nước ta luôn chỉ coi trọng và không ngừng khuyến khích
hoạt động ĐTTTNN vào Việt Nam. Vì vậy, khi nói đến ĐTTTNN, chúng ta
thường chỉ biết đến hoạt động của các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
chứ dường như không nghĩ đến việc các công ty Việt Nam cũng có thể ĐTRNN.
Thực ra hoạt động ĐTTTRNN đã và đang diễn ra mạnh mẽ không những chỉ ở
các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của Liên hiệp
quốc năm 2005 thì xu hướng ĐTRNN của các nước đang phát triển đang gia tăng
nhanh chóng trong những năm gần đây. Hoạt động ĐTRNN của các công ty ở

các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore đã diễn ra từ những thập kỷ 70 hay 80 khi
điều kiện kinh tế của các quốc gia đó gần như điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Bằng cách ĐTTTRNN, các công ty như Daewoo, Huyndai, Samsung… từ các
công ty nhỏ đã trở thành các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới. Hiện
nay, các công ty ở Trung Quốc đang nổi lên bởi các hoạt động ĐTTTRNN khá
táo bạo.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO,
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Từ đó tới nay, cơ hội để tham gia
vào thị trường thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Điều đó đồng


2

nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN
nhiều hơn. Để có thể tạo tâm lý yên tâm cho doanh nghiệp, cũng như có một
cơ chế pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp ĐTTTRNN có hiệu quả thì điều quan
trọng nhất là Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, thông thoáng, phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Với mong muốn tìm hiểu hoạt động ngày càng khởi sắc này của các doanh
nghiệp Việt Nam, đồng thời đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về ĐTTTRNN để hoạt động này có cơ sở pháp lý
thuận lợi tiếp tục phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tôi đã quyết định chọn vấn đề: “Pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn.” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Pháp luật về ĐTTTRNN là một vấn đề khá rộng và luôn có tính chất thời sự.
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu pháp luật trong lĩnh
vực này, ví dụ như: “Chương trình thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài” - PGS.TS Đinh Trọng Thịnh – NXB Tài chính – HN - 2006; “Đẩy
mạnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài” – Phạm Thanh Hà – Tạp chí Tổ chức nội vụ Bộ nội vụ số 6/2011; “Pháp
luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” – Trương Quang Anh - khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật HN – 2012; “Tìm
hiểu về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam” – Nguyễn Thị Thúy
Hoàn – Khóa luận tốt nghiệp đại học Luật HN – 2008; “Tìm hiểu các quy định
của Luật Đầu tư (2005) về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” – Hoàng Nguyên
Thắng – Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật HN – 2012…
Với những mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, những công trình nghiên cứu
này chủ yếu đề cập đến pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhưng chưa đi
sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.


3

Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc chế
định pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp, đồng thời
đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện cũng như thi hành các quy định về
pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp là một đòi hỏi cấp
bách và cần thiết đối với khoa học pháp lý ở nước ta.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hoặc liên quan đến pháp luật của Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Luận văn nghiên cứu nội dung pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp đồng thời cũng dành một phần nghiên cứu các quy định của pháp
luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế giới cũng như
trong khu vực nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho nước ta trong quá
trình hoàn thiện pháp luật đầu tư nói chung, hoàn thiện các quy định pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng ở Việt Nam trong những
năm sắp tới.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.
Trong luận văn này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả còn dùng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích; phương pháp chứng minh; phương pháp diễn giải; phương pháp lịch
sử; phương pháp thống kê; phương pháp quy nạp; phương pháp so sánh; v.v…
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
5.1. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày một cách có hệ
thống và phân tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định của pháp luật
trước đây cũng như hiện tại về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để thấy
được quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện từng bước qua từng giai đoạn
của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở nước ta. Ngoài ra, tác giả luận văn
cũng trình bày những thành công và ưu điểm của pháp luật đầu tư trực tiếp ra


4

nước ngoài; đồng thời cố gắng trình bày đầy đủ những khuyết điểm và bất cập
của các quy định pháp lý về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp.
5.2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là lập luận một cách có sức thuyết
phục về việc cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh
vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; Luận văn nêu ra phương hướng và giải pháp
cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng như các
giải pháp để thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài trong thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Luật Đầu tư (2005) thể hiện khá nhiều điểm mới có tính bước ngoặt. Đó là
việc các chế định, chính sách không còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa đầu tư
trong nước với đầu tư nước ngoài. Do vậy, sau khi giải quyết thành công những
nhiệm vụ đề ra, luận văn sẽ là một trong những công trình NCKH nghiên cứu

sớm nhất các quy định pháp lý trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các doanh nghiệp sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư (2005).
- Luận văn thể hiện sự phân tích sâu sắc một số chế định thuộc lĩnh vực đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài với kết quả là chỉ rõ những ưu điểm và thành công
cũng như nêu rõ những nhược điểm, bất cập của các quy định hiện hành về pháp
luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Luận văn nghiên cứu và phân tích một số quy định pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế giới; Từ đó, rút ra những
kinh nghiệm phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong điều kiện và hoàn cảnh của nước
ta.
- Luận văn trình bày, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp ở Việt
Nam.


5

- Luận văn cũng đề xuất một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy
định pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong thực
tiễn.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.



6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra
nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Trong một thời gian dài, cơ sở pháp lý của hoạt động ĐTTTRNN được quy
định trong luật. Phải sau 10 năm kể từ ngày dự án đầu tiên của doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài được cấp phép, Chính phủ mới ban hành được một
nghị định chính thức điều chỉnh vấn đề này, đó là Nghị định số 22/1999/NĐ-CP.
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP cùng với một số văn bản hướng dẫn thi thành của
bộ, ngành liên quan chính là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài cho đến trước thời điểm Luật Đầu tư năm
2005 có hiệu lực. Có thể nói Nghị định số 22/1999/NĐ-CP đã đánh dấu mốc
quan trọng trong việc thi hành cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của các
doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước
có thể kí kết nhiều hợp đồng, dự án với đối tác nước ngoài để từng bước hội nhập
vào thời kì kinh tế mở cửa, hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, các
nội dung pháp lý được ghi nhận tại các văn bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều bất
cập, có những điểm không phù hợp với tình hình mở cửa và hội nhập vào đời
sống kinh tế quốc tế của đất nước.
Chính vì lẽ đó mà việc luật hóa các quy định về ĐTTTRNN là rất cần thiết.
Luật Đầu tư 2005 đã dành hẳn một chương quy định về hoạt động đầu tư ra nước
ngoài. Những quy định này là cơ sở pháp lý giúp Chính phủ hướng dẫn thi hành

hoạt động ĐTTTRNN cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước trong
từng thời gian cụ thể. Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về ĐTTTRNN đã
thay thế Nghị định số 22/1999 để tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho


7

hoạt động ĐTTTRNN. Những quy định tại Luật đầu tư năm 2005 và Nghị định
số 78/2006 đã tạo ra một khung pháp lý khá hoàn thiện về hoạt động đầu tư nói
chung và hoạt động ĐTTTRNN nói riêng của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Về cơ bản, khung pháp luật về đầu tư gồm có hệ thống pháp luật của nước
đầu tư, hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và các hiệp định song phương
cũng như điều ước quốc tế mà các quốc gia ký kết với nhau hoặc là thành viên.
Khung pháp luật về ĐTTTRNN của Việt Nam cũng tương tự như vậy, nó được
quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trước hết là Hiến
pháp, sau đó là đến Luật Đầu tư quy định cụ thể về hoạt động này, rồi các đạo
luật điều chỉnh về địa vị pháp lý của các nhà đầu tư như: Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Ngân
hàng, Luật Các tổ chức tín dụng… và các văn bản dưới luật có liên quan. Bên
cạnh đó khung pháp luật về ĐTTTRNN còn bao gồm các điều ước quốc tế song
phương hoặc đa phương về đầu tư mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Như vậy
có thể hiểu, pháp luật ĐTTTRNN là tổng thể những quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình tổ chức, thực hiện và quản lý hoạt động ĐTTTRNN.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, pháp luật về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam là tập
hợp của chế định pháp luật kinh tế với các quy định của một số ngành luật khác
như luật Hành chính, luật Tài chính, luật Ngân hàng, luật Thương mại… Các chế

định của các đạo luật này có sự khác nhau nhất định về chức năng và nội dung cụ
thể tuy nhiên luật Đầu tư nói chung và pháp luật về ĐTTTRNN nói riêng là một
bộ phận và có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ phận cấu thành khác của các bộ
luật trên, ví dụ như các quy định về thuế, ngoại hối, hoạt động kinh doanh…
trong các đạo luật trên đều cơ sở pháp lý đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các
doanh nghiệp…


8

Thứ hai, pháp luật về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam được hình
thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Hệ thống pháp
luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây dựng trong những
năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế với quyết định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần… Với quan điểm huy động tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế,
pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện
theo hướng ngày cảng đảm bảo hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng cho các
nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh với một yêu cầu có tính nguyên tắc căn bản là phải
đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, trong đó nhiệm vụ
quan trọng được đặt ra là phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể thuộc mọi
thành phần kinh tế…
Thứ ba, pháp luật về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam có một
quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Qua gần
20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
đã được hoàn thiện từng bước. Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện môi trường
pháp lý về đầu tư cả về trong nước lẫn đầu tư ra nước ngoài. Phải kể đến việc ban
hành Luật Đầu tư (2005) và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của
Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một bước tiến lớn trong

sự phát triển của pháp luật đầu tư.
Thứ tư, pháp luật về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam là kết quả
của việc tham khảo việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ĐTTTRNN của các
nước khác và ngày càng tương thích với pháp luật về ĐTTTRNN của các nước
khác. So với pháp luật của nhiều nước khác trong khu vực, pháp luật về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam được đánh giá là khá thông thoáng, cởi mở.
Trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật về
ĐTTRNN của Việt Nam luôn phải vận động theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc
tế, phù hợp với pháp luật về đầu tư thế giới.


9

1.1.3. Bản chất của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Bản chất của pháp luật về ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam là
một hệ thống pháp luật công và pháp luật tư điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN
của các doanh nghiệp Việt Nam.
Pháp luật tư thể hiện ở chỗ Nhà nướccông nhận các quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp ĐTRNN. Đây là quan hệ pháp luật đầu tư phát sinh giữa các doanh
nghiệp trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư. (Quan hệ pháp luật
đầu tư theo chiều ngang). Ví dụ: quan hệ phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân
trong quá trình góp vốn thành lập doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, công ty hợp danh…); quan hệ phát sinh giữa các tổ chức, cá
nhân trong việc hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, thực hiện dự án đầu tư
theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng
xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO)… Các quan hệ đầu tư theo chiều
ngang được điều chỉnh chủ yếu bằng phương pháp dân sự. Theo phương pháp
này, Nhà nước tạo cho các doanh nghiệp khả năng và điều kiện để tự do và bình
đẳng sẽ phụ thuộc vào ý chí riêng của từng chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư.

Việc một doanh nghiệp quyết định đầu tư hay không? Mức vốn bao nhiêu? Có ký
hợp đồng với một đối tác nào đó hay không và với nội dung ra sao?v.v... Điều đó
tự các doanh nghiệp quyết định. Một doanh nghiệp quyết định ĐTTTRNN thì
mọi quy định phát sinh từ việc đầu tư sẽ được áp dụng đối với doanh nghiệp đó,
một doanh nghiệp đã tự do thỏa thuận và ký hợp đồng nào đó thì toàn bộ nội
dung đã cam kết hợp pháp sẽ trở thành bắt buộc đối với nhà đầu tư và không ai
ngoài các bên tham gia hợp đồng được tự do sửa đổi, bổ sung hay giải thích nội
dung của hợp đồng…
Pháp luật công thể hiện ở chỗ Nhà nước thực hiện việc quản lý Nhà nước
đối với hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp. (Quan hệ pháp luật đầu tư theo
chiều dọc) Ví dụ quan hệ phát sinh giữa các doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trong quá trình xem xét và cấp giấy chứng nhận đầu tư, trong quá


10

trình thanh tra hoạt động đầu tư và xử lý vi phạm… Quan hệ pháp luật đầu tư
theo chiều dọc có đặc điểm pháp lý cơ bản là: (i) Phát sinh trong quá trình thực
hiện hoạt động quản lý Nhà nước về đầu tư; (ii) Về chủ thể, nhóm quan hệ này
luôn luôn tồn tại theo nhóm chủ thể có vị trí pháp lý khác nhau (không bình
đẳng): một bên là cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư, một bên là các nhà đầu
tư; (iii) Cơ sở pháp lý làm phát sinh các nhóm quan hệ này là các văn bản quản lý
do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Với tính chất nội dung và chủ
thể của quan hệ pháp luật đầu tư nói chung theo chiều dọc thì pháp luật về
ĐTTTRNN nói riêng cần thiết phải sử dụng cả phương pháp điều chỉnh của luật
công – phương pháp hành chính. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường, luôn đòi hỏi Nhà nước phải có những điều tiết, định hướng và khuyến
khích phát triển ĐTRNN và trong chừng mực như vậy, những quan hệ đầu tư
theo chiều dọc khó có thể điều chỉnh bằng phương pháp dân sự. Với sự can thiệp
của công quyền và hoạt động đầu tư ĐTRNN, dù ở mức độ và hình thức nào

cũng cần được điều chỉnh bằng phương pháp hành chính. Không thể có sự thỏa
thuận của doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước về cấp giấy chứng nhận
hay điều kiện đầu tư hay xử lý vi phạm pháp luật trong đầu tư…
1.2. Mục đích, vai trò của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.1. Mục đich của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp để thừa nhận hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp. Sự ra đời
và ngày càng hoàn thiện của các quy phạm pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội cũng như yên tâm tiến hành hoạt động
đầu tư.
Thứ hai, pháp luật quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp nhằm hạn chế tình trạng tùy tiện, vô trách


11

nhiệm của các cơ quan nhà nước. Thông qua đó, các tổ chức, cá nhân có thể giám
sát lẫn nhau và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo lòng tin,
khuyến khích các chủ thể thực hiện dự định của mình phát huy mọi tiềm năng
làm giàu cho bản thân, góp phần tạo uy tín cho Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nhà
nước quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có quy củ, có cơ sở hơn,
khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của quá trình luân chuyển
vốn ra khỏi biên giới quốc gia. Bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là mưu cầu lợi nhuận tối đa. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
một công cụ quản lý hữu hiệu để phát huy mặt tích cực của hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.

Thứ tư, hệ thống pháp luật ĐTTTRNN cũng góp phần tạo kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp, chống lại sự lạm quyền, nhũng nhiễu, gây khó của cán bộ thực
hiện cấp phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho các doanh nghiệp
1.2.2. Vai trò của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.2.1. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có vai trò thiết lập
khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Xã hội phát triển, nền kinh tế được mở cửa hội nhập với thế giới đồng nghĩa
với việc các hoạt động ĐTRNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng càng diễn ra
hết sức đa dạng, phong phú. Điều này chắc chắn đòi hỏi phải có một khung pháp
lý hay một hệ thống pháp luật tương thích điều chỉnh giúp cho những hoạt động
đầu tư này diễn ra một cách có quy củ nhằm đạt được những hiệu quả tốt nhất.
Được hình thành từ năm 1990 đến nay, pháp luật về ĐTTTRNN tuy còn chưa
thật sự đầy đủ và thấu đáo nhưng đã dần dần hoàn thiện cả về nội dung và hình
thức. Pháp luật về ĐTTTRNN đã quy định một cách khá cụ thể về lĩnh vực đầu
tư, chủ thể đầu tư, hình thức đầu tư… qua đó khẳng định vai trò của mình trong
việc thiết lập khung pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN.


12

1.2.2.2. Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là công cụ quản lý của nhà
nước vể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Có thể nói pháp luật về ĐTTTRNN được xem như một công cụ hữu hiệu
nhất của nhà nước trong việc quản lý các hoạt động ĐTTTRNN nhằm tận dụng
nguồn lợi và hạn chế những vướng mắc, khuyết điểm còn tồn tại trong quá trình
đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư. Quan hệ về ĐTTTRNN luôn tiềm ẩn
nhiều rủi ro nên pháp luật về ĐTTTRNN đóng một vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc quản lý nhà nước về ĐTTTRNN. Hệ thống pháp luật ĐTTTRNN thực
hiện nhiệm vụ định hướng, giới hạn phạm vi cho các hoạt động ĐTTTRNN nhằm

giúp cho các nhà đầu tư có được cách tiếp cận với quan hệ này một cách thuận
tiện, đúng đắn nhất, ngăn ngừa các trường hợp đầu tư sai trái, lệch lach, trái với
pháp luật hiện hành. Pháp luật cũng đồng thời là công cụ quyền lực, có khả năng
ngăn ngừa và xử lý các trường hợp gây khó khăn, cản trở hoạt động đầu tư không
chính đáng của một số cán bộ trong các cơ quan nhà nước.
1.2.2.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là công cụ đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Pháp luật về ĐTTTRNN chính thức ghi nhận các quyền cơ bản của nhà đầu
tư như quyền được chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác ra
nước ngoài để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối
sau khi dự án đã được chấp thuận hay quyền được hưởng các ưu đãi về đầu tư
theo quy định của pháp luật.
Pháp luật về ĐTTTRNN cũng làm rõ các định nghĩa, thuật ngữ chuyên
ngành của lĩnh vực đầu tư. Những quy định đó phần nào giúp nhà đầu tư hiểu
hơn về pháp luật nói chung về lĩnh vực ĐTTTRNN nói riêng giúp họ dễ dàng
thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
Các hoạt động đầu tư, kinh doanh nói chung luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và
vướng mắc dẫn đến các cuộc tranh chấp giữa các nhà đầu tư và hoạt động
ĐTTTRNN cũng không phải ngoại lệ và thậm chí hoạt động này còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ dẫn tới việc xảy ra tranh chấp hơn. Pháp luật về ĐTTTRNN thể


13

hiện vai trò như một công cụ để giải quyết những vướng mắc, chống lại những
hành vi vi phạm pháp luật để qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các
nhà đầu tư.
1.2.2.4. Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài góp phần thúc đẩy sự hoàn
thiện của hệ thống pháp luật về đầu tư.
Từ sau Nghị định số 22/1999, hoạt động ĐTTTRNN đã chính thức được

thừa nhận, sau đó đã có hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời
nhằm sửa đổi và hoàn thiện các quy định nhằm điều chỉnh hoạt động này. Pháp
luật về ĐTTTRNN là một bộ phận của pháp luật về đầu tư. Các quy định của
pháp luật về ĐTTTRNN ngày càng hoàn thiện, hợp lý, bảo đảm tính rõ ràng và
thống nhất đã góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư nói chung phù
hợp với thông lệ quốc tế về đầu tư và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay của Việt Nam.
1.3. Hệ thống pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam – Quá trình hình thành và phát triển.
Từ khi đổi mới, với những chính sách nới lỏng và tự do hóa kinh tế hàng
hóa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Song song với sự
phát triển chung của toàn nền kinh tế, ở tầm vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam
cũng ngày càng “lớn lên” cả về số lượng và quy mô. Trong những năm đầu đổi
mới, khi sự thay đổi của chính sách và quy định không đủ nhanh so với sự phát
triển của các doanh nghiệp, thì xu hướng ĐTTTRNN nổi lên như là một trong
những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế phát triển trong nước. Những
hạn chế phát triển đó như: Hạn ngạch xuất khẩu khiến các doanh nghiệp không
thể sản xuất đúng với năng lực để đáp ứng nhu cầu từ nước ngoài, hay sự khan
hiếm nguồn tài nguyên trong nước do chính sách hạn chế khai thác buộc các
doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư vào các nước láng giềng (Lào, Campuchia) - nơi
gần với Việt Nam và có s n nguồn tài nguyên mà lại thiếu khả năng khai thác.
Mặc dù hoạt động ĐTTTRNN được các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện
từ năm 1989 nhưng phải 10 năm sau văn bản chính thức đầu tiên về hoạt động


14

ĐTTTRNN mới được chính phủ ban hành. Đó là Nghị định số 22/1999/NĐ-CP
ngày 14/4/2009 quy định hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ra đời đã tạo một hành lang pháp lý cơ bản cho các

doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài cho đến trước thời điểm Luật Đầu tư (2005)
có hiệu lực.
Theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự án
đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN là vào năm 1989 với số vốn
563.380 triệu đô la Mỹ nhưng đáng tiếc dự án này đã không được thực hiện. Lý
do chủ yếu dễ hiểu là không có căn cứ pháp lý. Từ thời điểm năm 1989 - 1998,
mỗi năm có vài ba dự án, năm nhiều nhất có 5 dự án (1993) ĐTRNN nhưng vốn
thực hiện còn thấp, có năm không giải ngân được đồng nào. Kể từ năm 1999, sau
khi Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP về một số biện pháp
khuyến khích ĐTRNN, thì ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có
sự tăng trưởng ổn định. Năm 1999 có 10 dự án, năm 2000 tăng lên 15 dự án và
tăng trưởng đều đặn về số lượng dự án kể từ đó đến nay. [11]
Ngày 30/8/2001 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số
05/2001/TT- BKH hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 02/08/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/2001/QĐ TTg 02/08/2001 về một số ưu đãi, khuyến khích ĐTRNN trong lĩnh vực hoạt
động dầu khí. Ngày 19/01/2001 NHNN Việt Nam ban hành Thông tư số
01/2001/TT - NHNN của NHNN Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối
với ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy Nghị định số 22/1999/NĐCP cùng với một số văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành liên quan
chính là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
ra nước ngoài cho đến trước thời điểm Luật Đầu tư có hiệu lực.
Cùng với quá trình hoàn thiện các văn bản mang tính pháp quy, số lượng các
doanh nghiệp cũng như quy mô dự án đầu tư của các doanh nghiệp cũng tăng lên
rất nhanh. Cụ thể, trong năm 2002, Việt Nam đã có 15 dự án ĐTTTRNN với tổng
số vốn đăng kí khoảng 150,9 triệu USD. Trong đó, đáng chú ý là dự án khai thác


15

dầu khí ở Iraq và Angieri với tổng vốn đầu tư trên 120 triệu USD. Cuối tháng
10/2002, công ty gạch Thạch Bàn - Hà Nội cũng được cấp giấy phép ĐTTTRNN

với vốn đầu tư là 15 triệu USD tại Nga. Năm 2002, số vốn ĐTTTRNN của các
doanh nghiệp Việt Nam tăng 4 lần tổng số vốn các năm trước cộng lại, quy mô
đầu tư lớn kỷ lục đạt trung bình 12,6 triệu USD/ dự án. Năm 2003, Việt Nam có
thêm 25 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký là 27.309.485 USD. Năm 2004 chỉ
có 17 dự án được cấp phép ĐTRNN với tổng số vốn là 11 triệu USD. Tính đến
hết năm 2006, cả nước có 184 dự án FDI vào 33 nước và vùng lãnh thổ với tổng
số vốn đạt 968 triệu USD. [11] Trong 16 năm qua, Việt Nam đã có sự gia tăng cả
về số lượng dự án và số vốn đăng ký, đặc biệt là sau khi Nghị đính số
22/1999/NĐ-CP được ban hành. Vì thế có thể nói Nghị định số 22/1999/NĐ-CP
và các văn bản hướng dẫn đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hình thành cơ
sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam, thổi một
luồng sinh khí mới vào hoạt động đó, tạo điều kiện cho việc ra đời nhiều dự án
ĐTTTRNN của doanh nghiệp Việt Nam hoạt động đạt hiệu quả nhất định. Đồng
thời là minh chứng cho sự trưởng thành về nhiều mặt của doanh nghiệp Việt Nam
từng bước hội nhập đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Các chế định cơ bản
trong các văn bản pháp luật trên bao gồm:
- Phạm vi điều chỉnh;
- Chủ thể của hoạt động đầu tư ra nước ngoài;
- Hình thức đầu tư ra nước ngoài;
- Điều kiện để được đầu tư ra nước ngoài;
- Thủ tục đầu tư ra nước ngoài;
- Quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài
Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, các nội dung pháp lý được ghi nhận tại các
văn bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều bất cập, có những điểm không phù hợp với
tình hình mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế của đất nước như:


16

Tuy nhiên sau sáu năm thực hiện các nội dung pháp lý được ghi nhận tại các

văn bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, có những điểm không phù
hợp với hình thức mở cửa, hội nhập và đời sống kinh tế của đất nước như:
- Nhiều quy định trong Nghị định số 22/1999 còn thiếu cụ thể, đồng bộ và
nhất quán, nhiều điều khoản đến nay không còn phù hợp, không bao quát hết
được sự đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước ngoài;
- Thủ tục đầu tư phức tạp, rườm rà, thủ tục đầu điều chỉnh giấy phép đầu tư
chưa rõ ràng, không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
- Thiếu các quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư ra nước ngoài;
- Các quy định về chế độ báo cáo thông tin không phù hợp khiến thông tin
về tình hình đầu tư ra nước ngoài hầu như không được cập nhật;
- Các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn
chế, chưa lường hết được vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, thẩm định,
cấp giấy phép và triển khai dự án đầu tư. Chẳng hạn, như một số dự án thuộc
diện đăng kí cấp giấy phép đầu tư nhưng trong quá trình xử lý vẫn chậm do gửi
giấy lấy ý kiến của các bộ, ngành liên quan làm kéo dài thời gian cấp phép;
- Các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài chưa có các
quy định để tạo ra cơ chế phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan chức
năng của Chính Phủ.
Nghị định số 78/2006/NĐ-CP được ban hành với 4 mục tiêu chủ đạo là (i)
phù hợp với thực tiễn hoạt động; (ii) quy định rõ ràng, cụ thể hơn; (iii) tăng
cường hiệu quả của quản lý nhà nước và (iv) đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Đồng thời, kế thừa và phát huy có chọn lọc những mặt tích cực, cũng như khắc
phục những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành về đầu tư ra nước ngoài
nhằm mở rộng và phát triển quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghị định số 78/2006/NĐ-CP còn quy định các nhà đầu tư và doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, đều có quyền đầu tư ra nước ngoài, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm



17

trong hoạt động kinh doanh, được lựa chọn hay thay đổi hình thức tổ chức quản
lý nội bộ, hình thức đầu tư thích ứng với yêu cầu kinh doanh và được pháp luật
Việt Nam bảo hộ. Giảm thiểu tới mức tối đa các quy định mang tính “xin-cho”
hoặc “phê duyệt” bất hợp lý, không cần thiết, trái với nguyên tắc tự do kinh
doanh, gây phiền hà cho hoạt động đầu tư, đồng thời, có tính đến với lộ trình cam
kết trong các thoả thuận đa phương và song phương trong hội nhập kinh tế quốc
tế, nhất là các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc. Bên cạnh đó, Nghị
định số 78/2006/NĐ-CP còn quy định rõ về trách nhiệm, các quan hệ giữa cơ
quan nhà nước đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp, về việc thực hiện các mối
quan hệ đó cũng như chế tài khi có những vi phạm từ hai phía (nhà đầu tư và cơ
quan, cán bộ, công chức nhà nước) nếu không thực hiện đúng các quy định của
pháp luật.
Năm 2007, chính phủ ban hành Quyết định số 1175/2007/QĐ-BKH ngày
10/10/2007 nhằm hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, đơn giản hơn về thủ tục đầu tư ra
nước ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ còn ban hành các văn bản hướng dẫn khác
quy định hoạt động ĐTTTRNN trong các lĩnh vực cụ thể như: Nghị định số
121/2007/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong hoạt động dầu
khí.
Hoàn thiện chính sách với mục tiêu khắc phục sự thiếu thống nhất, tạo lập
tính cụ thể, rõ ràng giữa các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTRNN theo hướng
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTRNN. Đồng thời có chính sách khuyến
khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư ĐTRNN trong những lĩnh vực, ngành
nghề mà chúng ta có kinh nghiệm, có thế mạnh. Do đó, việc sửa đổi căn bản
những quy định tại Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có
liên quan về hoạt động đầu tư ra nước ngoài bằng cách pháp điển hóa vấn đề này
vào Luật Đầu tư (2005) là rất cần thiết. Những quy định về ĐTTTRNN trong
Luật Đầu tư (2005) là những vấn đề mang tính nguyên tắc làm cơ sở pháp lý để
Chính phủ hướng dẫn thi hành hoạt động ĐTTTRNN cho phù hợp với tình hình

thực tiễn của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Nghị định số 78/2006/NĐ-CP


18

quy định về ĐTTTRNN đã đánh dấu một mốc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về
đầu tư nói chung và ĐTTTRNN nói riêng của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
1.4. Nội dung của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam.
a. Các quy định về chủ thể của ĐTTTRNN
Theo quy định tại Nghị định số 22/1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì chỉ các nhà đầu tư là doanh nghiệp Việt Nam mới được đầu tư ra nước ngoài.
Quy định này đã hạn chế một số lượng lớn các nhà đầu tư muốn được đầu tư ra
nước ngoài và còn tạo sự phân biệt đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu rư.
Do đó quy định này cần được sửa đổi để tạo ra sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư
và qua đó nâng cao hiệu quả đầu uuw. Theo đó Luật Đầu tư hiện nay quy định
chủ thế của quan hệ đầu tư ra nước ngoài được mở rộng cho tất cả các nhà đầu tư
Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt nhà đầu tư là doanh
nghiệp hay không phải là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn
gốc vốn đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài.
b. Các quy định về điều kiện để ĐTTTRNN:
Hiện nay Luật Đầu tư đã có những quy định thông thoáng và tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư ĐTTTRNN. Theo đó nhà đầu tư tiến hành hoạt động
ĐTTTRNN sẽ phải đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam,
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư. Hiện nay xu hướng
của hầu hết các quốc gia trên thế giới là ngày càng nới lỏng điều kiện đầu tư để
nâng cao sức hút đối với hoạt động đầu tư này.
c. Các quy định về thủ tục ĐTTTRNN
Quy định về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với sự vận động và

phát triển của ĐTTTRNN. Đó chính là quá trình đăng ký, thẩm định cấp giấy
chứng nhận ĐTTTRNN. Nếu thủ tục đơn giản sẽ khuyến khích cho các doanh
nghiệp thực hiện việc đầu tư còn nếu thủ tục rườm rà sẽ tạo tâm lý nản lòng các


19

doanh nghiệp, thậm chí từ bỏ ý định đầu tư. Vì vậy cần có một thủ tục đầu tư đơn
giản tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.
d. Các quy định về hình thức ĐTTTRNN
Pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư sẽ quy định cụ thể về hình thức đầu tư
và nội dung hình thức đó. Nhìn chung pháp luật các nước đều quy định các hình
thức ĐTTT cơ bản như: liên doanh, độc doanh, hợp doanh, sáp nhập, mua lại…
Các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong những hình thức trên.
e. Các quy định về lĩnh vực ĐTTTRNN
Việc doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nào của nước tiếp nhận đầu tư còn
phụ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư. Do đó theo thông lệ quốc tế, luật đầu tư của
các quốc gia đều quy định các lĩnh vực mà họ cấp phép đầu tư nước ngoài vào
các lĩnh vực mà họ không cấp giấy phép đầu tư nước ngoài. Theo pháp luật Việt
Nam, các doanh nghiệp được ĐTTTRNN trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề
của nền kinh tế quốc dân. Để đảm bảo cho lợi ích quốc gia, Nhà nước không cho
phép đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án gây phương hại đến bí mật, an ninh
quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hóa, thuần phong mĩ tục của Việt Nam.
f. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp ĐTTTRNN
Theo quy định của pháp luật về đầu tư thì tất cả các doanh nghiệp dù là đầu
tư ra nước ngoài hay đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và các nhà đầu tư trong
nước đều có những quyền và nghĩa vụ giống nhau.
Ngoài quy định những quyền lợi mà mọi nhà đầu tư khi tham gia quan hệ
này được hưởng, pháp luật về ĐTTTRNN còn đặt ra các nghĩa vụ về trách nhiệm
của doanh nghiệp đối với nhà nước khi tiến hành hoạt động ĐTTTRNN. Để có

được quyền lợi của mình thì các doanh nghiệp trước tiên phải chấp hành đầy đủ
nghĩa vụ của mình.
1.5. Pháp luật của một số nƣớc về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của
các doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1.5.1. Pháp luật của một số nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.


20

Trước đây ĐTTTRNN tập trung chủ yếu ở các nước tư bản phát triển như
Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… do có lợi thế về nguồn vốn, công nghệ, năng lực cạnh
tranh… Trong những năm gần đây ĐTTTRNN của các nước đang phát triển cũng
đang tăng lên một cách nhanh chóng. Như vậy cùng với quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa nền kinh tế các nước đang phát triển đã biết tận dụng những cơ hội
cùng với việc thay đổi chính sách, pháp luật để mở rộng quy mô ĐTTTRNN. So
với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam tham gia vào quá trình
ĐTTTRNN khá muộn vì vậy việc nghiên cứu một số nét về pháp luật về
ĐTTTRNN của một số nước sẽ giúp cho Việt Nam học hỏi một số kinh nghiệm
để hoàn thiện pháp luật về ĐTTTRNN.
a. Hàn Quốc: Qua các nghiên cứu về hoạt động ĐTTTRNN của Hàn Quốc,
có thể thấy rằng năm 1968 Hàn Quốc đã có Điều lệ về đầu tư ra nước ngoài.
Nhưng trước năm 1975, vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nước này bình
quân mỗi năm chỉ đạt 6 triệu USD. Sau đó có sự sửa đổi các thể chế liên quan
đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như: Ủy quyền phê chuẩn và quản lý các hoạt
động đầu tư ra nước ngoài, đứng đầu là Thống đốc đầu tư ra nước ngoài. Ngoài
ra Hàn Quốc đã nới lỏng các hạn chế về vốn đầu tư ra nước ngoài đối với các
công ty, các biện pháp, chính sách đều tập trung mở rộng khả năng đầu tư ở các
nước chưa có quan hệ ngoại giao; bãi bỏ các điều luật và điều lệ gây hạn chế đầu
tư ra nước ngoài. Tháng 4/1982, hệ thống quản lý vốn đầu tư ra nước ngoài với
giá trị 100.000 USD trở lên đều do Ngân hàng Hàn Quốc phê chuẩn. Năm 1986,

Hàn Quốc ở trong tình trạng dư thừa ngoại tệ, giá nhân công trong nước tăng vọt
làm cho chi phí sản xuất trong nước tăng theo. Các công ty Hàn Quốc trong nước
được khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các ràng buộc về vốn đầu tư
và rất nhiều các quy định khác đối với công ty ĐTTTRNN đều được bãi bỏ.
Chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, hợp tác khu vực và tiến tới
toàn cầu hóa là động lực to lớn thúc đẩy nguồn vốn ĐTTTRNN. Như vậy với
nhận thức về vai trò quan trọng của hoạt động ĐTTTRNN, với những chính sách
pháp luật thông thoáng của hoạt động ĐTTTRNN là động lực to lớn trong thúc


×