Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.89 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KIM HỒNG THANH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ MINH TÂM

Hà Nội, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Kim Hồng Thanh



DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT

TTLT

Thông tư liên tịch

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TTDS

Tố tụng dân sự

TGV

Trợ giúp viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................. .....................................................1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP

PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ...............................................................................................................................7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự............................................7
1.2. Nguyên tắc, hình thức và trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự............16
1.3. Những đảm bảo thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự.....................................................24
1.4. Các tiêu chí để đánh giá chất lượng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự. .......................30
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở TỈNH VĨNH PHÚC.................................................................................34

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc có ảnh
hưởng tới việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự................................................................34
2.2. Thực trạng pháp luật về trợ giúp pháp lý và pháp luật về trợ giúp pháp lý
trong tố tụng dân sự cho người nghèo và đối tượng chính sách.........................35
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở Vĩnh Phúc..........................................40
2.4. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho gười
nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở Vĩnh Phúc.....................56
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................70


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, lại bị chiến tranh tàn phá trong một
thời gian dài, vì vậy trong những năm đổi mới vừa qua, mặc dù Việt Nam đã phấn đấu
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng đất nước vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách
thức cần phải vượt qua, số đối tượng là người nghèo, người thuộc diện chính sách còn rất
lớn. Đối tượng là người nghèo và đối tượng chính sách cần Nhà nước và xã hội hỗ trợ
không những về vật chất và tinh thần mà còn rất cần đến sự trợ giúp về mặt pháp lý.
Để người nghèo và người thuộc diện chính sách được tiếp cận và sử dụng dịch vụ
pháp lý miễn phí bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã
hội, ngày 06/9/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-TTg (gọi tắt
là Quyết định số 734/QĐ-TTg) quy định về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý (TGPL)
cho người nghèo và đối tượng chính sách. Quyết định số 734/QĐ-TTg ra đời đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cơ bản trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Giai
đoạn này chức năng xã hội của Nhà nước đã thể hiện cụ thể thông qua hoạt động của các
Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước, của các cấp Hội Luật gia và các cộng tác viên là
các luật gia, luật sư và người làm công tác pháp luật khác. Hoạt động trợ giúp pháp lý đã
đóng góp quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
thể hiện giá trị đạo đức và tính nhân văn cao cả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, thực hiện dân chủ, góp phần quan trọng vào việc đổi mới đất nước, xay
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Quá trình triển khai, thực hiện trợ giúp pháp lý theo Quyết định số 734/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước
yêu cầu phát triển của kinh tế, xã hội một số quy định trong Quyết định số 734/QĐ-TTg
không còn phù hợp nữa mà cần phải có một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn và có tính
chuyên ngành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý. Vì vậy,
Năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý và được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X và có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2007.
Sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.
Luật Trợ giúp pháp lý không chỉ khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta



2

trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà còn góp phần thiết thực
vào việc hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
Luật Trợ giúp pháp lý ra đời cùng hệ thống các văn bản hướng đã tạo thành một hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý khá toàn diện và nhất quán để điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, nhất là bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho những người có hoàn cảnh đặc biệt cần được Nhà nước và xã hội quan
tâm giúp đỡ, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. Quá trình triển khai,
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân của một bộ phận không nhỏ trong xã hội có hoàn
cảnh khó khăn, không có điều kiện tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý; hoặc có điều kiện
sử dụng dịch vụ pháp lý nhưng họ lại chưa được hưởng chính sách TGPL miễn phí của
Nhà nước trong việc “đền ơn, đáp nghĩa”. Đặc biệt là những hoạt động cần thiết trong quá
trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy việc tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
cũng còn nhiều hạn chế, bất cập cần phải khắc phục.
Với đặc thù là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng bắc bộ với hơn một triệu dân, số người
nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số là 104.101 người (chiếm khoảng
10% dân số của tỉnh); những đối tượng này rất cần được trợ giúp pháp lý. Mặc dù, không
phải tất cả số người nghèo và đối tượng chính sách đều có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý
miễn phí. Nhưng thực tế đã cho thấy, có rất nhiều trường hợp không ít những người trong
số họ cần đến sự trợ giúp pháp lý miễn phí, nhưng họ không biết được những thông tin cần
thiết và bằng cách nào để có thể được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn. Kết quả khảo sát cho
thấy, đa số họ thiếu thông tin, kiến thức về các vấn đề liên quan đến pháp luật về TGPL nói
chung và TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự nói riêng
nên trong không ít trường hợp khi phiên tòa mở buổi chiều thì buổi sáng cùng ngày mới
tìm đến Trung tâm TGPL hoặc luật sư là cộng tác viên trợ giúp pháp lý để đề nghị được

trợ giúp. Bên cạnh đó một số người thuộc diện được TGPL còn thờ ở với quyền lợi của
mình bởi khi đã tìm đến TGPL nhưng không cung cấp thông tin, tài liệu cho người thực
hiện TGPL mà khi phiên tòa sơ thẩm đã kết thúc mới tìm đến với người thực hiện TGPL
điều đó gây không ít những khó khăn cho người thực hiện TGPL. Đặc biệt, có người được


3

TGPL tìm đến với Trung tâm TGPL thì thời hiệu kháng cáo, thời hiệu khởi kiện đã hết…
Do vậy gây rất nhiều khó khăn cho người thực hiện TGPL thực hiện vụ việc TGPL trong tố
tụng dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, tìm hiểu thực hiện pháp luật về trợ
giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự có ý nghĩa thiết
thực, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với những kiến thức thu nhận qua học tập và kinh
nghiệm thực tiễn trong tham mưu thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, tác giả chọn đề tài
“Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
trong tố tụng dân sự ở tỉnh Vĩnh Phúc” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm vừa qua, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý nói chung và thực
hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng nói riêng là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, quản lý, các chuyên gia
pháp luật, nhất là những người trực tiếp tham gia vào lĩnh vực trợ giúp pháp lý và đã có
không ít các công trình, đề tài được triển khai nghiên cứu và kết quả đã được công bố trong
các sách, báo pháp lý. Có thể kể đến một số đề tài, công trình khoa học có liên quan như:
- Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2012.
"Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Văn Tùng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2007...
- "Phương hướng xây dựng luật trợ giúp pháp lý" của TS. Đinh Trung Tụng, Tạp

san Trợ giúp pháp lý, 2006.
- "Khái niệm trợ giúp pháp lý một số vấn đề cần bàn thêm" của Tạ Minh Lý, Đặc
san Trợ giúp pháp lý, 2006.
- “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” Luận án tiến
sỹ Luật học – Tạ Minh Lý - Đại học Luật Hà Nội năm 2008.
- “Thực hiện pháp luật về TGPL trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam” Luận án tiến sỹ Luật học – Nguyễn Huỳnh Huyện - Học Viện chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012.


4

- "Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách" của
TS. Trần Huy Liệu, Thông tin Khoa học pháp lý, 2005.
- "Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huỳnh Huyện, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", Luận
văn thạc sĩ Luật học của Vũ Hồng Tuyến, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004.
- "Báo cáo tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách" Bộ Tư pháp, năm 2007, Báo cáo ngày 20/11/2007.
- "Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách ở Vĩnh Phúc", Sở Tư pháp Vĩnh Phúc, 2007.
- “Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Luật trợ giúp pháp lý", Bộ Tư pháp, 2012
- “Báo cáo sơ kết 04 năm thực hiện Thông tư Liên bộ số 10 về Trợ giúp pháp lý trong
hoạt động tố tụng", Bộ Tư pháp, 2012
- “Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Luật trợ giúp pháp lý", Sở Tư pháp Vĩnh Phúc, 2012
- “Báo cáo sơ kết 04 năm thực hiện Thông tư Liên bộ số 10 về Trợ giúp pháp lý trong
hoạt động tố tụng", Sở Tư pháp Vĩnh Phúc, 2012
Kết quả nghiên cứu các công trình, đề tài, bài viết của các nhà khoa học, nhà giáo, các

chuyên gia pháp lý đã được công bố từ trước đến nay đã giải quyết được nhiều vấn đề cả về
lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý được thực hiện ở nhiều lĩnh vực pháp luật,
nhiều địa bàn khác nhau nên có rất nhiều đặc điểm riêng cả về văn hóa, truyền thống nên cần
phải được nghiên cứu, làm rõ hơn để góp phần vào việc giải quyết các vấn đề cụ thể đã và
đang đặt ra trong đời sống và thực tiễn pháp luật. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp
luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở tỉnh
Vĩnh Phúc” để nghiên cứu nhằm góp phần phân tích và làm rõ hơn những khía cạnh lý luận
và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách trong tố tụng dân sự, để áp dụng cho quá trình tham mưu, giải quyết những vấn
đề này ở tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn triển khai nghiên cứu một số vấn đề có tính lý
luận liên quan trực tiếp tới việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo


5

và người nghèo và đối tượng chính sách; chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước, các
văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
đã được ban hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và
đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật trợ
giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự từ 01/01/2007
đến nay; liên hệ, khảo sát thực tiễn tổ chức và thực hiện các hoạt động này trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất
lượng và hiệu quả thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách trong tố tụng dân sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích làm rõ thêm một số vấn đề có tính lý luận về
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố

tụng dân sự; khảo sát đánh giá thực tiễn và đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực
hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Vĩnh
Phúc, thông qua đó góp phần thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và
đối tượng chính sách nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta hiện nay về pháp luật, thực hiện pháp
luật nói chung, về thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách trong tố tụng dân sự nói riêng. Luận văn cũng chú trọng tìm hiểu các quan


6

điểm, giải pháp của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Vĩnh phúc về thực hiện trợ giúp pháp
lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn tỉnh; đồng thời nghiên cứu, tham
khảo và kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến
đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, của phép biện chứng duy vật và sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là:
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn...
6. Những đóng góp mới của khoa học về luận văn
- Luận văn phân tích và góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận có liên quan

trực tiếp tới thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách trong tố tụng dân sự.
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm
bảo thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật
về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự.
- Luận văn góp phần đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong
chỉ đạo, tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong việc thực
hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng
dân sự ở tỉnh Vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
cũng như cho việc tiếp tục nghiên cứu về thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự ở tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 8 tiết.


7

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƢỜI NGHÈO VÀ ĐỐI TƢỢNG CHÍNH SÁCH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho ngƣời
nghèo và đối tƣợng chính sách trong tố tụng dân sự

1.1.1. Khái niệm về trợ giúp pháp lý
Theo các nhà ngôn ngữ học, “Trợ” là một từ có gốc Hán có nghĩa là giúp đỡ, nhưng nó
không có khả năng dùng độc lập, vì vậy trong tiếng Việt, Trợ thường được ghép với một từ
khác để biểu đạt một nội dung cụ thể như: trợ cấp, trợ lý, trợ giáo, trợ giúp1… Trong thuật
ngữ “trợ giúp”, chữ Trợ chỉ là một yếu tố được ghép với chữ Giúp và được dùng một cách
phổ biến với nghĩa là giúp đỡ. Tuy nhiên, trong các từ điển tiếng Việt, kể cả từ điển Bách
khoa Việt Nam và Từ điển Thuật ngữ Luật học cũng không thấy có sự giải thích về khái
niệm “Trợ giúp pháp lý”. Theo một số nghiên cứu, thì khái niệm “Trợ giúp pháp lý” mới
được dùng ở nước ta trong khoảng vài ba chục năm trở lại đây và được dịch từ tiếng nước
ngoài. Trong Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nxb. Khoa học xã hội, 1997 thì
“Legal aid” được dịch là “Trợ cấp pháp lý”. Trong một số tài liệu khác, nhóm từ "Legal aid"
được dịch là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”... Mặc dù có những
cách dịch khác nhau về thuật ngữ này, nhưng xuất phát từ bản chất, nội dung và hình thức
hoạt động “Legal aid” trên thế giới và thực tiễn của hoạt động này ở Việt Nam trong thời
gian qua, thuật ngữ “Trợ giúp pháp lý” được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật
và sách báo pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu
thế đã được hình thành và phát triển từ lâu và được coi là một loại hình hoạt động thuộc
chức năng xã hội của nhà nước, là một trong nhữmg yếu tố bảo đảm quyền con người trong
nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu và thực hiện các hoạt động trợ giúp
pháp lý được tiến hành có chậm hơn so với một số nước phát triển. Các tổ chức trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam được thành lập từ năm 1997, sau 16 năm hệ thống trợ giúp pháp lý
Việt Nam đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, từng bước mở rộng phạm vi và nâng
cao chất lượng hoạt động, góp phần thiết thực và việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nhân dân, bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, phù hợp với bản chất của
1

Xem đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên. NXB Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, Tr 1667



8

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới rất phong phú và
đa dạng về mô hình tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động. Sự phong phú, đa dạng
đó xuất phát từ những đặc điểm riêng về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
mỗi quốc gia; về những quan niệm và cách tiếp cận giải quyết các vấn đề của trợ giúp pháp
lý như: đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí cho các hoạt động trợ giúp pháp lý…
Mặc dù có những sự khác biệt đáng kể về cách tiếp cận và xác định nội hàm của
khái niệm trợ giúp pháp lý nhưng nhìn chung, các quan điểm đều có những điểm chung
trong nhận thức về trợ giúp pháp lý, đó là coi trợ giúp pháp lý là một loại hình hoạt động
nhằm giúp đỡ những người khó khăn, yếu thế không có đủ khả năng tài chính, năng lực để
tự mình giải quyết những vấn đề có liên quan đến pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình
trước pháp luật. Ví dụ, với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế và nhân đạo, ở Cộng hòa liên
bang Đức có quan niệm cho rằng, trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài
chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật,
đại diện hoặc bào chữa trước tòa án; Điều 2, Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp luật năm
1995 của Singapor cũng giải thích rằng: trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ những người
không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý. Với cách tiếp cận từ góc độ pháp lý và
sự công bằng, ở Úc phổ biến quan điểm cho rằng: trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một
người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với
pháp luật, tức là tạo ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật.
Như vậy, tính kinh tế, thể hiện ở việc cung cấp những dịch vụ pháp lý miễn phí là một
trong những dấu hiệu có tính đặc thù, không thể thiếu của trợ giúp pháp lý. Tiếp đó là tính
pháp lý của trợ giúp pháp lý mà sự biểu hiện cụ thể của nó thể hiện ở việc giúp đỡ những đối
tượng cần trợ giúp pháp lý để giải quyết những vấn đề, vụ, việc có liên quan đến pháp luật.
Từ những đặc trưng này, đối tượng và phạm vi của các hoạt động trợ giúp pháp lý cũng có
những giới hạn nhất định, cần được xác định cụ thể trong pháp luật của mỗi nước.
Về bản chất và mục đích, trợ giúp pháp lý là sự cung cấp những dịch vụ pháp lý
miễn phí với mục đích giúp cho người cần được trợ giúp pháp lý có điều kiện để tham gia

vào các quan hệ pháp luật, thể hiện quan điểm và chính kiến của mình về các vấn đề pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách hợp lý, hợp pháp và chính đáng. Thông
qua các hoạt động trợ giúp pháp lý và những kết quả cụ thể đạt được trong quá trình đó,


9

người được trợ giúp pháp lý sẽ cảm nhận được những giá trị của pháp luật, sức mạnh và sự
công bằng của công lý, từ đó có niềm tin vào công lý và vào chính bản thân mình. Vì vậy,
cùng với đặc tính kinh tế (các dịch vụ pháp lý miễn phí), trợ giúp pháp lý còn có tính nhân
đạo, nhân văn, và tính pháp lý đặc trưng.
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm chung về trợ giúp pháp lý như sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí do cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội tiến hành theo quy định của pháp luật dưới các hình thức tư vấn pháp luật,
tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải... nhằm giúp cho người được trợ giúp
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm
bình đẳng và công bằng xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm trợ giúp pháp lý có nội hàm rộng hơn so với khái niệm chung
về hai phương diện. Một là, đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí không chỉ là những
người thuộc diện nghèo không có khả năng thanh toán các dịch vụ pháp lý, mà còn bao gồm
các đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa..; Hai là, mục đích trợ giúp
pháp lý không chỉ là giúp đỡ về mặt kinh phí mà còn là để “nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo
vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp
luật”.
Theo đó, Điều 3 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định: “Trợ giúp pháp lý là
việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của
Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ
biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế

tranh chấp và vi phạm pháp luật”.
Việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công với
cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác ở Việt Nam xuất phát từ chủ
trương xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và
Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân. Tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước ra đời đã tạo cơ chế cần thiết để người
nghèo và người có công với cách mạng có được điều kiện và hoàn cảnh tương tự như
người khác trong tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, củng cố lòng tin của quần chúng nhân


10

dân vào pháp luật và góp phần thực hiện công bằng xã hội.
1.1.2. Khái niệm người nghèo và đối tượng chính sách
Luật Trợ giúp pháp lý và nghị định hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể người thuộc
diện được TGPL bao gồm: người nghèo và đối tượng chính sách như sau:
Người nghèo: là người thuộc hộ nghèo, được xác định theo chuẩn nghèo do Thủ tướng
Chính phủ quy định trong từng giai đoạn. Hiện nay đang áp dụng chuẩn nghèo giai đoạn 20112015 theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ, mức chuẩn
nghèo và cận nghèo được xác định, những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực nông thôn), đối với khu vực thành thị hộ
nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng; Hộ cận nghèo là
những hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu
vực nông thôn), đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm cấp giấy chứng nhận hộ nghèo theo từng năm, tức
là sổ hộ nghèo, để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước nói chung và hưởng
chính sách TGPL nói riêng.
Đối tượng chính sách: là những người có công với cách mạng, người cô đơn, không
nơi nương tựa, người tàn tật, người dân tộc thiểu số... Đây là những người Nhà nước muốn
thực hiện chính sách đền ơn, đáp nghĩa, những người không có điều kiện, họ gặp khó khăn
nếu không có sự trợ giúp thì họ không tiếp cận với pháp luật được, không hiểu được quyền

và nghĩa vụ của mình khi tham gia các hoạt động pháp luật.
Người có công với cách mạng là người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa
19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh;
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; Người hoạt động cách mạng,
hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha, mẹ,
vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ2.
Người già được TGPL là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không có nơi
nương tựa.
Người khuyết tật được TGPL là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể
2

Theo quy định tại điều 10 - Luật TGPL năm 2006


11

hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt
động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn hoặc là người bị nhiễm
chất độc hoá học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm mất năng lực hành vi dân sự mà
không có nơi nương tựa.
Trẻ em được TGPL là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa.
Người dân tộc thiểu số được TGPL là người thường xuyên sinh sống tại vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật3.
Ngoài ra pháp luật về TGPL còn quy định những trường hợp được TGPL theo điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và là thành viên.
1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự
Thực hiện pháp luật, với tư cách là một nội dung nghiên cứu của lý luận về Nhà nước

và pháp luật, là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thực
hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, tiếp sau giai đoạn xây
dựng pháp luật. Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi
nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống.
Các văn bản quy phạm pháp luật chỉ phát huy tác dụng khi được thực hiện trong cuộc
sống. Mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật đạt được một phần lớn khi các quy
phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra được tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách
nghiêm túc, đầy đủ. Tạo lập trật tự xã hội không phải chỉ là xây dựng và ban hành nhiều văn
bản pháp luật, mà quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những yêu cầu, quy định
của chúng trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Theo giáo trình lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định
của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật”. Hay diễn đạt một cách khác: “Thực hiện pháp luật là quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong
cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”.
Thực hiện pháp luật là hành vi pháp lý (hành động hay không hành động) của con
3

Điều 2 - Nghị định số 07 ngày 12/01/2007 hướng dẫn thi hành Luật TGPL


12

người phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Hành vi xử sự của con người trong hoạt động
thực hiện pháp luật có hai tính chất. Thứ nhất, nó mang tính xã hội, vì thực chất các quan
hệ pháp luật trước hết là quan hệ xã hội; thứ hai nó mang tính pháp lý vì các quan hệ xã hội
này do pháp luật tác động điều chỉnh tới.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng

pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Để bảo đảm nguyên tắc
này, Nhà nước phải có một chương trình dài hạn xây dựng hoàn thiện pháp luật hoàn
chỉnh, đủ pháp luật để quản lý mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. hoàn thiện
pháp luật hoàn chỉnh đó phải đáp ứng được yêu cầu phát triển của các quan hệ xã hội trong
giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có đủ tất cả các
ngành luật trong hoàn thiện pháp luật và những văn bản dưới luật, phải đáp ứng một yêu
cầu quan trọng khác là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với lòng
dân, xuất phát từ nguyện vọng chung của đại đa số nhân dân lao động và phải trực tiếp thể
chế hoá đường lối, chính sách của Đảng.
Từ những phân trên có thể khái niệm chung về thực hiện pháp luật như sau: Thực
hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật.
Thực hiện pháp luật được thể hiện dưới 4 hình thức đó là: tuân thủ pháp luật, chấp
hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Mặc dù thực hiện pháp luật được thể
hiện ở nhiều hình thức nhưng nó đều là hành động có mục đích nhằm đưa pháp luật vào
cuộc sống.
Trên cơ sở khái niệm thực hiện pháp luật nói chung và các nội dung pháp luật về TGPL
đã nêu ở trên, là cơ sở để nghiên cứu khái niệm thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự. Để nâng cao kiến thức pháp luật, đồng thời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người nghèo và đối tượng chính sách trong tố
tụng dân sự, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về
TGPL nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực hoạt động TGPL. Từ các quy


13


định của pháp luật về TGPL, Nhà nước giữ vai trò cốt yếu trong việc thực hiện, tổ chức thực
hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, khuyến khích tạo điều kiện
để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư, luật sư,
cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ thực hiện pháp luật về TGPL miễn phí
cho người nghèo và đối tượng chính sách. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, trong phạm vi quyền
hạn của mình khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức, hội viên và các cá
nhân khác tham gia làm cộng tác viên TGPL; các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, các tổ
chức khác có liên quan đến hoạt động TGPL phối hợp tạo điều kiện, cung cấp thông tin, tài
liệu để thực hiện pháp luật về TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Pháp
luật về TGPL quy định cụ thể đối tượng được hưởng quyền từ việc thực hiện pháp luật về
TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự và một số đối
tượng khác.
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự là một trong
những loại hình TGPL cơ bản nhất và liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người nghèo và đối tượng chính sách. Theo quy định tại khoản 2 điều 29 Luật TGPL năm
2006 quy định: trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc dân sự, vụ án
hành chính.
Pháp luật dân sự cụ thể là Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được ban hành, có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ
dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết
các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và
trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại Toà án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa
vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan nhằm bảo đảm cho việc


14

giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, Pháp luật về TGPL không cho phép thực hiện TGPL trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại.
Vậy nên có thể đưa ra định nghĩa: Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự là quá trình hoạt động có mục đích
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các chủ thể khác nhằm đưa pháp luật về trợ
giúp pháp lý đi vào cuộc sống bằng các phương thức cung cấp dịch vụ pháp lý (tư vấn,
tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải...) miễn phí cho người nghèo, người có
công với cách mạng và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật nhằm giúp người
được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong các tranh chấp dân sự,
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
1.1.4. Đặc điểm thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự
Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố
tụng dân sự là một trong những loại hình thực hiện pháp luật, vì vậy nó cũng mang và bị
chi phối bởi các đặc điểm cơ bản của thực hiện pháp luật nói chung. Tuy nhiên, xuất phát
từ tính chất, nội dung và yêu cầu của trợ giúp pháp lý, các quan hệ pháp luật về TGPL
cùng với trình tự thủ tục pháp luật tố tụng dân sự trong TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách có những đặc điểm riêng, đòi hỏi phải được xem xét, nghiên cứu và vận
dụng trong quá trình thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý, trong đó có những điểm cơ
bản như sau:
Thứ nhất, tiếp cận từ góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách là hoạt động nghề nghiệp, đòi hỏi người thực hiện các
hoạt động TGPL phải có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn, trong đó tiêu chuẩn chuyên môn,

nghiệp vụ, kỹ năng cung cấp các dịch vụ pháp lý cho đối tượng được trợ giúp pháp lý là yêu
cầu bắt buộc. Theo đó, chủ thể thực hiện TGPL có thể là các tổ chức TGPL Nhà nước, các tổ
chức xã hội, nhưng những người trực tiếp làm việc cho các tổ chức đó phải là những người
được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về luật, có đủ kiến thức, kinh nghiệm và đạo đức nghề
nghiệp. Ở Việt Nam, bên cạnh hệ thống các cơ quan trợ giúp pháp lý của Nhà nước còn có
nhiều tổ chức khác tham gia vào thực hiện trợ giúp pháp lý như các trung tâm tư vấn pháp


15

luật của Hội Luật gia, các tổ chức hành nghề luật sư, và tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ
chức chính trị xã hội chính trị xã hội khác. Chức danh của cán bộ thực hiện trợ giúp pháp lý
là Trợ giúp viên pháp lý, đồng thời tham gia vào các hoạt động trợ giúp pháp lý còn có các
cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước, các luật gia, luật sư, tư vấn viên pháp luật của
các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức chính trị xã hội nghề nghịêp.
Thứ hai, tiếp cận từ góc độ chính trị, thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách là một trong những phương thức thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo, giúp đỡ pháp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật, giải quyết
các tranh chấp, để họ thể hiện quan điểm và chính kiến của mình về các vấn đề pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách hợp lý, hợp pháp và chính đáng. Thông qua các
hoạt động trợ giúp pháp lý và những kết quả cụ thể đạt được trong quá trình đó, người nghèo
và đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý sẽ cảm nhận được những giá trị của pháp luật,
sức mạnh và sự công bằng của công lý, từ đó có niềm tin vào công lý và vào chính bản thân
mình, tin tưởng và đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, tiếp cận từ góc độ kinh tế, thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và
đối tượng chính sách là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL
(người thuộc hộ nghèo; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số thường
trú ở các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; người già cô đơn, người tàn

tật, người nhiễm HIV, nhiễm chất độc hóa học, trẻ em không nơi nương tựa) bằng các hình
thức như: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải và hướng dẫn
thủ tục hành chính, khiếu nại. Việc cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí, người được
TGPL không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí hay thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào,
tạo cơ hội cho những người nghèo, người yếu thế trong xã hội có điều kiện bảo vệ quyền
và lợi ích của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn kinh phí cho các hoạt động trợ giúp
pháp lý do ngân sách Nhà nước cấp cũng rất hạn chế, vì vậy mở rộng việc huy động các
nguồn kinh phí khác như nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước,
cũng như động viên, khuyến khích các tổ chức và cá nhân luật gia, luật sư tự nguyện tham
gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí, thực hiện xã hội hóa công tác trợ giúp pháp lý
là rất cần thiết.


16

Thứ tư, tiếp cận từ góc độ thẩm quyền và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp, hoạt
động thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
trong tố tụng dân sự mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc; tổ chức trợ giúp pháp lý, cá
nhân Trợ giúp viên pháp lý và các cộng tác viên không có thẩm quyền áp dụng pháp luật
để đưa ra các quyết định giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật dân
sự, mà chỉ cung cấp cho người được trợ giúp những dịch vụ pháp lý, dựa trên nguyên tắc,
quy định của pháp luật để tác động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ
giúp pháp lý. Vì vậy, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách đòi hỏi tính trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp rất cao từ hai phía, phía
những người làm công tác trợ giúp pháp lý và những công chức có thẩm quyền áp dụng
pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong tố tụng dân sự.
Thông qua các đặc điểm cơ bản nêu trên thì hoạt động TGPL còn hướng đến một
mục đích cao cả đó là giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật

góp phần bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, góp phần thực hiện
công bằng xã hội.
1.2. Nguyên tắc, hình thức và trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật về trợ giúp
pháp lý cho ngƣời nghèo và đối tƣợng chính sách trong tố tụng dân sự
1.2.1. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự
Hệ thống các nguyên tắc cơ bản về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách
trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại điều 4 Luật TGPL năm 2006, nội dung của
chúng thể hiện các nguyên tắc của TGPL là: Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được
trợ giúp pháp lý; trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; sử dụng các biện pháp phù hợp
với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ
giúp pháp lý; tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý và nguyên tắc chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý. Nguyên tắc cơ bản về Luật
TGPL là nền tảng, cốt lõi của pháp luật về TGPL, nên việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản
về Luật TGPL được coi là vi phạm nghiêm trọng pháp luật về TGPL. Nội dung của những
nguyên tắc đó như sau:


17

Thứ nhất: Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý đây là
nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cơ bản thể hiện rõ bản chất của TGPL là miễn
phí, không thu phí. Người thực hiện TGPL, Tổ chức thực hiện TGPL không được thu tiền
(phí, lệ phí, thù lao) từ người được TGPL; không được nhận bất kỳ một khoản tiền hay lợi
ích nào cũng như không được sách nhiễu đối với người được TGPL.
Thứ hai: Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, đây là một nguyên tắc rất quan
trọng, thể hiện đặc trưng của nghề TGPL với tư cách là một nghề Luật, gắn với quá trình
thực thi pháp luật theo đó người thực hiện TGPL phải luôn trung thực, tôn trọng sự thật
khách quan của vụ việc tránh những sai sót không đáng có hoặc TGPL không đúng gây
thiệt hai cho người được TGPL cũng như các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy

người thực hiện TGPL phải thu thập đầy đủ, toàn diện các thông tin cần thiết về vụ việc
TGPL và các tài liệu khác có liên quan, khi cần thiết phải tiến hành xác minh tính chính
xác, khách quan của thông tin do người được TGPL cung cấp và kịp thời báo cáo tổ chức
thực hiện TGPL có trách nhiệm sử dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm thuận lợi cho
người thực hiện TGPL có trách nhiệm sử dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời hỗ trợ
người thực hiện TGPL trong việc thu thập đầy đủ các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ
việc TGPL, không can thiệp trái pháp luật vào quá trình thực hiện vụ việc của người thực
hiện TGPL hoặc có hành vi khác làm ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ việc TGPL.
Thứ ba: Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất
quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Nguyên tắc này giữ vài trò quyết
định, chi phối các nguyên tắc khác. Bởi lẽ, suy cho cùng thì nguyên tắc hoạt động TGPL
được xây dựng là để nâng cao trách nhiệm của tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện
TGPL và hướng đến một mục tiêu là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người
được TGPL, lấy lợi ích của người được TGPL làm mục đích hoạt động của tổ chức mình.
Người thực hiện TGPL có trách nhiệm sử dụng các biện pháp hợp pháp, kiến thức xã hội,
hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của người được TGPL bảo đảm thời gian, tiến độ thực hiện vụ việc hoặc phối hợp với đồng
nghiệp thực hiệnvụ việc khi cần thiết. Bảo đảm vụ việc do mình thực hiện đạt chất lượng
theo tiêu chuẩn đã được quy định tại thông tư số 02/2013/TT-BTP ngày 05/01/2013 của Bộ
Tư pháp ban hành bộ tiêu chẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL. Trường hợp phải từ chối
hoặc không được tiếp tục thực hiện vụ việc nếu phát hiện có mâu thuẫn về quyền lợi hoặc có


18

lý do khách quan thì người thực hiện TGPL phải thông báo cho người được TGPL và báo
cáo kịp thời với tổ chức thực hiện TGPL để phân công người khác thực hiện.
Tổ chức thực hiện TGPL có trách nhiệm phân công người thực hiện TGPL có đủ
năng lực, trình độ phù hợp với tính chất vụ việc. Nếu phải thay thế người thực hiện TGPL
thì người thay thế phải có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của vụ việc và được người thực

hiện TGPL chấp nhận nếu phải chuyển vụ việc cho tổ chức thực hiện TGPL khác thì phải
thông báo ngay cho người được TGPL và chỉ chuyển khi có khả năng bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
Thứ tư: Tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp
pháp lý và tuân thủ quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý. Đây vừa là nguyên tắc hoạt động
TGPL và cũng là quy tắc thực hiện của người thực hiện TGPL, bởi lẽ là người hành nghề
Luật, lấy pháp luật làm công cụ hành nghề nên người thực hiện TGPL phải là người tuân thủ
nghiên chỉnh các quy định của pháp luật. Bảo đảm nội dung TGPL phải đúng và phù hợp với
các quy định của pháp luật. Người thực hiện TGPL phải giải thích, hướng dẫn và cung cấp
thông tin pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL nắm rõ về tình trạng pháp lý
của vụ việc và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước các tổ chức thực hiện TGPL về tính đúng đắn, nội dung
TGPL do mình thực hiện.
Nếu thuộc trường hợp phải từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL thì người
thực hiện TGPL phải báo cáo kịp thời và có trách nhiệm bàn giao đầy đủ các tài liệu có liên
quan đến vụ việc TGPL cho tổ chức thực hiện TGPL, khi thực hiện vụ việc mà phát hiện
hành vi vi phạm pháp luật có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân thì báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền xử
lý theo quy định.
Để đảm bảo thực thi nguyên tắc này, pháp luật có quy định cụ thể về tổ chức thực
hiện TGPL như phải thụ lý và phân công người thực hiện TGPL kịp thời theo đúng quy
định của pháp luật; sử dụng các biện pháp cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho người
được TGPL, người thực hiện TGPL thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật; thường xuyên kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về TGPL; kịp thời phát hiện, xử
lý và kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về TGPL.


19


Tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL có trách nhiệm tuân thủ quy tắc
nghề nghiệp TGPL. Trong trường hợp người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL có
hành vi vi phạm nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự;
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm Hình sự theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách trong tố tụng dân sự
Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
trong tố tụng dân sự là một trong những loại hình thực hiện pháp luật có tính chất đặc thù,
vì vậy, về mặt hình thức, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách cũng được tiến hành theo bốn hình thức chung. Tuy nhiên, trong mỗi
hình thức đó, thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách lại có những đặc điểm, khía cạnh riêng về nội dung, cách thức thực hiện, phù hợp với
tính chất, yêu cầu của trợ giúp pháp lý và của pháp luật về trợ giúp pháp lý. Có thể khái
quát về các hình thức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách như sau:
- Tuân theo các quy định pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách trong tố tụng dân sự. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp
pháp lý, người thực hiện TGPL đồng thời cũng quy định những hành vi bị nghiêm cấm
như: xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL;
phân biệt, đối xử với người được TGPL; Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền lợi ích từ
người được TGPL...Cho nên, TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố
tụng dân sự cũng tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật về TGPL yêu cầu các chủ thể
thực hiện pháp luật về TGPL không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm.
- Chấp hành các quy định của pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách trong tố tụng dân sự là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó chủ thể pháp
luật tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Pháp luật về TGPL
cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng dân sự quy định nghĩa vụ của người
được TGPL; tổ chức thực hiện TGPL; người thực hiện TGPL. Vì vậy, người được TGPL
phải trung thực cung cấp các tài liệu, chứng cứ một cách trung thực, khách quan. Chấp

hành nội quy, quy chế của tổ chức thực hiện TGPL và pháp luật về TGPL. Bên cạnh đó


20

pháp luật cũng quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại do lỗi của tổ chức thực hiện
TGPL gây ra và những trường hợp từ chối hoặc không thực hiện TGPL theo quy định của
luật TGPL. Nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ này, các cơ
quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các chế tài người được TGPL, người thực hiện và tổ chức
thực hiện TGPL phải thực hiện các nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định.
Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
có nghĩa vụ thành lập, chỉ đạo các tổ chức TGPL. Tuân thủ các quy định về chức năng,
nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ, các tổ chức chính trị xã hội và UBND tỉnh thực
hiện. Bên cạnh việc thực hiện thẩm quyền của các tổ chức thực hiện TGPL thì phải thực
hiện các nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về TGPL do luật định.
TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách thực hiện bằng hình thức tham gia tố
tụng thì Trung tâm TGPL có các nghĩa vụ như: Đề nghị cơ quan tổ chức hữu quan phối hợp,
cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc TGPL; bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi
thực hiện TGPL; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL; giải quyết khiếu nại theo quy
định tại Khoản 1 Điều 49 Luật TGPL; giải quyết tranh chấp trong TGPL; kiến nghị những
vấn đề có liên quan đến thi hành pháp luật.
Đối với các tổ chức hành nghề luật sư có luật sư là CTV của Trung tâm TGPL khi
tham gia TGPL đó là: thực hiện TGPL theo giấy đăng ký tham gia TGPL; đề nghị cơ quan
tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc TGPL; bồi thường thiệt
hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện TGPL; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê;
giải quyết tranh chấp trong TGPL; kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp
luật.
- Sử dụng các quy định của pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính
sách trong tố tụng dân sự là một hình thức thực hiện pháp luật về TGPL. Trong đó người
được TGPL sử dụng các quyền mà pháp luật quy định cho mình để bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Vì các quyền này là những hành vi mà pháp luật cho phép thực
hiện nên người được TGPL có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền đó, tuỳ theo ý
chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.
Pháp luật về TGPL quy định người được TGPL có quyền: Tự mình hoặc thông qua
người thân thích, người đại diện yêu cầu trợ giúp pháp lý; Lựa chọn người thực hiện trợ
giúp pháp lý; yêu cầu thay đổi người thực hiện TGPL; Thay đổi, rút yêu cầu TGPL; Yêu


21

cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc TGPL; Được bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật; Khiếu nại, tố cáo về TGPL. Vì vậy người được TGPL khi biết được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm mà không đề nghị tổ chức thực hiện TGPL đại diện để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền lựa chọn người trợ giúp pháp lý: Khi yêu cầu thực hiện TGPL trong tố
tụng dân sự, người được TGPL có quyền lựa chọn người thực hiện TGPL, thực hiện
TGPL cho mình. Trường hợp người được TGPL không lựa chọn được người TGPL
cho mình thì Trung tâm TGPL sẽ cử người thực hiện TGPL cho người được TGPL.
Trong quá tình thực hiện TGPL, người được TGPL có quyền yêu cầu thay đổi người
thực hiện TGPL cho mình trong các trường hợp sau: Người thực hiện TGPL đã hoặc
đang thực hiện TGPL cho người được TGPL là một bên có quyền lợi đối lập với mình
trong cùng một vụ việc, trừ trường hợp hoà giải, giải đáp pháp luật; Người thực hiện
TGPL có quyền và lợi ích hợp pháp hoặc có người thân thích liên quan đến vụ việc
TGPL; Người thực hiện TGPL đã từng là người giải quyết vụ việc của mình; Có căn
cứ cho rằng người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể không khách quan trong việc thực
hiện TGPL.
- Áp dụng pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong tố tụng
dân sự là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước, thông qua các cơ quan nhà
nước hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy
định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định

làm phát sinh, chấm dứt hay thay đổi những quan hệ pháp luật cụ thể.
Nhà nước cho phép thành lập và cấp phép hoạt động TGPL cho các Trung tâm TGPL,
các công ty tư vấn, công ty luật, văn phòng luật sư. Bãi bỏ các hành vi của các tổ chức, cá
nhân không đủ điều kiện thực hiện TGPL. Cấm các tổ chức không đủ điều kiện hoạt động
TGPL hoặc hoạt động TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách nói chung và trong
tố tụng dân sự nhưng thu phí. Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động TGPL; yêu
cầu xử lý hoặc trực tiếp xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động TGPL. Cưỡng chế
hành chính đối với các hoạt động TGPL như cưỡng chế phòng ngừa, ngăn chặn, phạt tiền,
thu hồi giấy phép hoạt động, cưỡng chế bồi thường thiệt hại do hoạt động TGPL gây ra.
Yêu cầu xử lý hình sự đối với việc lợi dụng hoạt động TGPL dẫn đến tội phạm.
Thực hiện pháp luật về TGPL, trong đó các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các


×