Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.69 MB, 36 trang )

Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy văn nói chung, dạy phân môn giảng văn (phần truyện) nói riêng ở trường
THPT là dạy cho các em học sinh biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn chương nghệ
thuật. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân
văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của GV dạy Ngữ Văn. LepTôn-xTôi nói : “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được
quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý hơn nhiều. Vì
thế, cái khó trong việc dạy văn, nhất là dạy tác phẩm truyện là làm sao hướng cho học
sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm. Thực trạng trong những năm gần đây,
học sinh khi cảm thụ về tác phẩm truyện thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy
móc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay
do chính bản thân các em cảm nhận.
Trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, tác phẩm truyện ngắn chiếm
một số lượng khá lớn. Điều này phản ánh đúng mối tương quan của thành tựu truyện
ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của chúng ta.
Kiến thức tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ văn THPT. được đưa vào
giảng dạy một cách có hệ thống. Những tác phẩm truyện đặc sắc, có giá trị được chọn
lọc đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn THPT đem lại hứng thú cho giáo
viên và học sinh, có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao nhận thức thực tiễn, giúp học sinh
có thêm kiến thức, hiểu biết thêm về đời sống xã hội và con người.
Một trong những vấn đề gây khó khăn không nhỏ cho thầy và trò của chương
trình Ngữ văn ở trường phổ thông là tiếp nhận, cảm thụ các tác phẩm truyện. Do đặc
trưng của thể loại truyện khác với các văn bản thơ trữ tình nên khi cảm thụ, đọc – hiểu
văn bản truyện học sinh thường tỏ ra lúng túng. Tiếp nhận tác phẩm truyện đòi hỏi
không chỉ có khả năng tư duy lo gich mà cả khả năng tư duy trừu tượng. Vì vậy cảm
thụ các tác phẩm truyện quả là khó khăn và đầy thách thức đối với cả giáo viên lẫn học
sinh. Về phía học sinh, các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác
phẩm, trong khi một số tác phẩm truyện trong SGK Ngữ văn THPT chỉ là đoạn trích mà


muốn đọc – hiểu và cảm thụ hiệu quả buộc phải đặt trong hệ thống toàn văn bản.
Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo dục đã
từng bước tiến hành cải cách giáo dục, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở các
cấp học phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo. Trong xu hướng chung ấy, tại hội nghị
chuyên môn Ngữ văn được tổ chức hàng năm, chúng ta đã trao đổi, bàn luận, rút kinh
nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học
sinh.
Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu ra một số ý kiến cùng trao đổi với quý đồng
nghiệp về vấn đề hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm truyện trong chương trình Ngữ
văn THPT. Vấn đề là cần có những phương pháp đọc – hiểu phù hợp khắc phục được
những khó khăn, hạn chế trước mắt để tiết học đạt hiệu quả giáo dục cao. Trên cơ sở đó,
xin đưa ra một số ý kiến để chúng ta cùng bàn bạc, trao đổi tìm ra phương hướng giải
quyết vấn đề.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm cảm thụ tác phẩm truyện
trong chương trình Ngữ văn THPT., chúng tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp về
phương pháp tạo hứng thú cho HS trong mỗi giờ Đọc văn (phần truyện), từng bước

1


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

khắc phục tình trạng HS coi giờ học Đọc văn là giờ "ru ngủ", HS chỉ việc ngồi nghe
thầy "thôi miên", tay ghi chép, về nhà học thuộc, đi thi chép y nguyên lại lời thầy, nhiều
khi có không đồng ý với một số nhận định của thầy đã "áp đặt" cũng không dám nói. Hi
vọng đề tài này sẽ được đồng nghiệp đón nhận để góp phần cải thiện tình trạng dạy học
Ngữ văn hiện nay.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Có nhiều biện pháp góp phần tạo hứng thú cho HS THPT trong việc cảm thụ tác

phẩm truyện, nhưng trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ tập trung vào các biện pháp
thông dụng nhất: dẫn nhập, đọc diễn cảm – tóm tắt tác phẩm, phân tích tình huống
truyện và các chi tiết tiêu biểu, phân tích nhân vật, sử dụng lời bình hay hợp lí, vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, gắn bài giảng với thực tế đời sống.
Dù vấn đề này cũng đã có người nghiên cứu, song đây là kinh nghiệm mà chúng tôi rút
ra từ thực tiễn dạy học. Điều quan trọng là góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong
việc cảm thụ tác phẩm truyện.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thu thập thông tin, đúc kết kinh nghiệm từ
thực tế giảng dạy Ngữ Văn từ các đồng nghiệp trên nhiều đối tượng HS qua các năm
học và thực nghiệm đối chứng trong năm học 2013-2014.
Phần thứ hai: NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận:
Luật Giáo dục, Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho HS”.
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây
dựng thư viện câu hỏi và bài tập cũng đã viết: "Hoạt động giáo dục chỉ đạt hiệu quả cao
khi tạo lập được môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân thiện, phát huy
ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS".
Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú, con người sẽ làm việc tự nguyện có
hiệu quả hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng chống lại sự mệt mỏi. HS
cũng vậy, Khi có hứng thú, các em sẽ kiên trì làm bài tập, không nản chí trước câu hỏi
khó, không những thế còn hăng hái trả lời, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn, chủ
động nêu câu hỏi, đưa ra những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải thích thấu
đáo.
Điều kiện đầu tiên của mọi sự phân tích, đánh giá, thẩm định giá trị của tác phẩm
truyện là người đọc có cảm thấy văn bản đó hay, hấp dẫn và xúc động thực sự hay

không. Nghĩa là trong đọc hiểu tác phẩm truyện, người đọc, dù ít hay nhiều phải huy
động tri giác và sau đó là liên tưởng, tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật
của tác phẩm. Nếu quá trình này không xảy ra thì người học, dù bằng cách nào đi nữa,
cũng khó có thể hiểu được sâu sắc tác phẩm. Quá trình tâm lí nói trên chính là cảm thụ
tác
phẩm
truyện.
Cảm thụ văn học nói chung, tác phẩm truyện nói riêng là hoạt động mang tính đặc
thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá,
chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh

2


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

tế cho học sinh. Với quan niệm như trên về cảm thụ, chúng tôi nhận thấy việc xác lập
các biện pháp rèn luyện cách cảm thụ cho học sinh khi dạy tác phẩm truyện ở trường
phổ thông có ý nghĩa quan trọng. Theo chúng tôi, cảm thụ tác phẩm truyện là cơ sở để
xác lập các biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc. Do đó, phần
đề xuất các biện pháp của chúng tôi khác về nội dung của từng biện pháp. Cũng không
là tiến trình của một tiết dạy trên lớp
2. Cơ sở thực tiễn:
Luận ngữ viết: “ Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không
bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc đẩy, nuôi dưỡng
sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với vai trò tổ chức,
hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều
biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, gây niềm hứng thú
say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi GV.
Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng trong thời kì đất nước đang chuyển mình

hội nhập, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít những khó khăn
thách thức. Theo đó, hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em mình lựa
chọn các môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí HS, làm
giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Càng học lên lớp trên, các
em càng chán học môn Ngữ văn. Đứng trước bối cảnh đó, bên cạnh việc trau dồi nâng
cao năng lực chuyên môn vững vàng, Người GV dạy Ngữ văn cần thiết phải có nghệ
thuật đứng lớp cao hơn, linh hoạt hơn mới có thể tạo được niềm hứng thú cho HS.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS THPT không hứng thú trong giờ
học Đọc văn (phần truyện), theo tôi có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Về chương trình có một số điều bất cập. Thiết kế chương trình chưa thật hợp
lý. Có nhiều tác phẩm lượng kiến thức cần khai thác rất lớn như Hạnh phúc một tang
gia - Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo - Nam Cao, hay các tác phẩm văn xuôi (phần truyện)
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 thời lượng phân phối lại rất ít (2 tiết/bài), GV chỉ lo
dạy không kịp bài thì làm sao tạo được hứng thú cho HS.
- Về phía GV: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới
phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các GV dạy Ngữ văn còn gặp khá
nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được
kết quả mong muốn. Do vậy, ngoài các tiết dự thi, thao giảng, dạy tốt, thanh tra, đa
phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ là thuyết giảng.
Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào hứng, sáng tạo của HS. Một nguyên nhân
nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của GV, nhất là đa số những GV mới ra trường,
mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiên thức, chỉ lo làm sao truyền thụ hết những gì đã
soạn từ giáo án đã thấy khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, kích thích sự hứng thú
của HS.
- Về phía HS: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù. Trong mỗi
giờ học Đọc văn (phần truyện), HS phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực
cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm - Yêu cầu này,
đâu phải HS nào cũng có đủ khả năng. Hơn nữa, đa phần HS hiện nay đã quen với lối
học thụ động, đi thi thì cũng chỉ chép lại lời thầy, bởi các em có tâm lí nếu làm khác đi
chưa chắc gì thầy đã cho điểm cao, do vậy cũng chẳng muốn bộc lộ suy nghĩ cảm thụ

riêng của bản thân làm gì.
Có rất nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng nêu trên, nhưng theo chúng
tôi, làm thế nào để nâng cao cảm thụ tác phẩm truyện cho học sinh trong giờ

3


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

đọc hiểu môn văn? làm sao để HS yêu thích môn Ngữ văn hơn, làm sao để kết quả
học tập của HS được cải thiện hơn. Đó là vấn đề luôn băn khoăn trăn trở của nhiều GV
giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT
III. CÁC BIỆN PHÁP GÓP PHẦN TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG VIỆC
CẢM THỤ TÁC PHẨM TRUYỆN

I. Phương pháp dẫn nhập:
1. Khái niệm dẫn nhập
Dẫn nhập còn gọi là “lời mở đầu”, là một phương thức dẫn dắt học sinh một
cách có ý thức, có mục đích đi vào tri thức mới, là khâu mở đường, bắt đầu của dạy học
trên lớp.
Dẫn nhập (theo nghĩa chữ): “nhập” (vào) và “dẫn” (hướng dẫn, dẫn dắt). Vậy
nhập có nghĩa là đưa vào, tiến vào để cho học sinh từ từ đi vào tinh thần tâm thái, sự
chú ý đều được đưa vào trong quá trình giảng dạy bài mới, càng nhập càng tốt.
2. Yêu cầu đối với phương pháp dẫn nhập
Thời gian lên lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, nên khi soạn giảng cũng như
tiến trình lên lớp người dạy không được “rộng rãi”, và công phu ở bước này. Thông
thường, người dạy chỉ giành khoảng 2-3 phút để dẫn vào bài mới (bằng nhiều cách).
Vậy nên, yêu cầu đầu tiên của lời dẫn cần ngắn gọn, súc tích, khái quát cao, lời gọn ý
sâu, lấy ít dẫn nhiều chứ không dài dòng, tùy tiện. Nội dung dẫn nhập cần khái quát, cô
động nhưng phải phong phú. Ngôn ngữ cần trong sáng, tinh tế, súc tích. Sự tinh luyện

của nội dung, sự tinh tế của hình thức ngôn ngữ sẽ làm cho lời dẫn tự nhiên, lôi cuốn.
3. Các biện pháp cụ thể
Dẫn nhập chỉ là khâu nhỏ, không nằm trong trọng tâm bài dạy, nhưng lại ở vào
vị trí mở đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại. Vậy nên,
người dạy không thể bỏ qua. Xuất phát từ những lí do trên, trong phạm vi cho phép,
chúng tôi xin đề cập đến một số biện pháp dẫn nhập trong giảng dạy tác phẩm truyện
như sau:
3.1 Trích dẫn danh ngôn
Danh ngôn là những lời răn dạy và những câu triết lí hàm nghĩa sâu sắc, có tác
dụng răn dạy, được mọi người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống như: “Học, học nữa,
học mãi” (Lê – nin); “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn khó chữa”
(M. đơ Mông – te – nhơ); “Tình yêu là niềm say mê đem lại hạnh phúc cho người khác”
(F.Sile); “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại
núi e sông” (Nguyễn Bá Học)…Cũng có danh ngôn là thành ngữ, tục ngữ như “Giấy
rách phải giữ lấy lề”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Ở hiền gặp lành”, “Uống nước nhớ
nguồn”,….
Trích dẫn danh ngôn để vận dụng vào dẫn nhập khi dạy học trên lớp có thể thu
hút được sự chú ý của học sinh, tạo sự mới mẻ, khác lạ, kích thích và nâng cao hứng thú
học tập ở học sinh.
Ví dụ:
Bài Tấm Cám (truyện cổ tích) [trang 65, Ngữ Văn 10 - tập 1]
- GV: Trong quan niệm của dân gian, chúng ta thường nghe “ác giả ác báo – gieo gió
gặp bão”, hoặc “ở hiền gặp lành”,… những triết lí đó chúng ta vẫn gặp trong cuộc sống
thường nhật, đã trở thành triết lí nhân sinh được ông cha ta đúc kết mà nên. Những triết
lí sống đó, được đúc kết trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu là truyện “Tấm Cám”. Truyện
Tấm Cám cho thấy sự chiến thắng trọn vẹn của cái thiện đã chứng minh cho quy luật
“ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành” của dân gian. Muốn hiểu tình tiết của câu chuyện
như thế nào – chúng ta cùng đi vào bài học.

4



Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Khi dẫn nhập trong dạy học, nếu giáo viên vận dụng đúng mức phương pháp
trích dẫn danh ngôn, sẽ khiến ngôn ngữ có sức mạnh hơn hẳn những lời nói tản mản,
vụn vặt. Có một số tục ngữ, thành ngữ có thể phát huy được những khả năng không
ngờ, kích thích trí tưởng tượng của học sinh – và như thế người dạy vừa truyền đạt
được kiến thức, vừa rèn luyện khả năng tiếp thu ở các em. Dẫn nhập như thế sẽ thu hút
sự chú ý của các em ngay từ đầu tiết học, hứa hẹn một tiết dạy hấp dẫn, sôi nổi.
3.2 Kết hợp thực tế
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp giữa thực tế học tập – cuộc sống – xã hội.
Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thiết thực hơn, gần gũi hơn. Vừa làm
phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của
người dạy.
Ví dụ:
Bài Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu [trang 69, Ngữ Văn 12- tập 2]
- GV: Nền kinh tế càng phát triển sẽ kéo theo nhiều sự đổi thay trong cuộc sống. Và
một trong những vấn đề đó là sự suy đồi về đạo đức, xuống cấp trầm trọng của các mối
quan hệ vợ - chồng, cha – con, anh – em,… Vậy, trong đời thường, đã bao giờ các em
chứng kiến cảnh một người chống vũ phu đánh vợ? Một đứa con bất chấp đạo lí đánh
lại cha không? Đúng vậy. Thực trạng đau lòng đó đã được Nguyễn Minh Châu khám
phá trong bình diện của nền văn học mới – bình diện đạo đức thế sự thông qua tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa.
Do yêu cầu về mặt thời gian của phương pháp dẫn nhập phải ngắn gọn, giản dị
dễ hiểu nhưng phải đầy đủ mang tính thuyết phục cao, tránh dài dòng làm phân tán sự
chú ý của học sinh. Mẫu dạy này hết sức hiệu quả. Chỉ trong thời gian ngắn, giáo viên
đã đặt học sinh vào tình thế “phán – xử”, vừa là người thách thức, vừa lấy chính mình
để đi tìm câu trả lời.
3.3 Nêu câu hỏi (Nêu ra nghi vấn)

Nội dung câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau
nhưng chỉ cần phù hợp với nội dung bài học là được. Đây là phương pháp dẫn nhập đơn
giản được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giảng dạy.
Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những kiến thức quen thuộc
với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế khi giải đáp thắc mắc sẽ có tính nhất
quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo.
3.4 Sử dụng tranh ảnh minh họa
Sử dụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ khi
tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong giảng dạy
nói chung. Biện pháp này có thể thay cho lời dẫn để tạo cảm giác chân thực, tăng thêm
tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.
Ví dụ:
Bài tùy bút: Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân [trang 185, Ngữ Văn 12- tập
1]
- GV: (cho học sinh xem hình ảnh của con sông Đà – chú ý chọn hình ảnh con
sông vừa hung bạo vừa trữ tình). Sau đó, để học sinh tự phát hiện vẻ đẹp của con sông
rồi giáo viên dẫn vào bài mới.
- GV: Nếu như sông Hương được ví như người con gái của Huế, đẹp cổ kính
trầm mặc thì sông Đà lại mang một vẻ đẹp “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc
Bắc lưu”. Chúng ta cùng đi vào tìm hiểu nội dung bài học để thấy được vẻ đẹp của con
sông vừa hung bạo vừa trữ tình.

5


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Bài ký: Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường [trang 197,
Ngữ Văn 12 - tập 1]
- GV: (cho học sinh xem hình ảnh con sông Hương – chú ý chọn được hình ảnh

sông Hương ở thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố và ở giữa lòng thành phố). Không
phải lấy hình ảnh sông Hương để dạy học mà chỉ minh họa để học sinh phát hiện vẻ đẹp
sông Hương tinh tế, trầm mặc cổ kính như thế nào?
- GV: Chúng ta đã từng biết đến con sông Đà hung bạo qua ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Tuân, và chúng ta cũng đã tựng nghe “Con sông dùng dằng sông không chay –
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu bài mới để có cái
nhìn so sánh đối chiếu về vẻ đẹp của hai con sông này.
Khi tranh ảnh treo lên, học sinh quan sát có thể tăng thêm tính trực quan rõ ràng.
Sự giảng giải sau dẫn nhập vẫn có thể kết hợp với nó, dùng tranh ảnh dẫn dắt học sinh
tiếp cận nội dung văn bản là một hướng tiếp cận mới, quán xuyến cả quá trình dạy học.
3.5 Sử dụng máy chiếu, video
Sử dụng máy chiếu là một loại dạy học trực quan so với sử sụng tranh ảnh minh
họa, băng ghi hình,… Dù hình thức có khác nhau nhưng đều đem lại hiệu quả tích cực
trong dạy học. Sử dụng máy chiếu có phạm vi tương đối rộng. Tiêu đề, các mục đề, tóm
tắt nội dung, từ vựng, hình tượng trong bài, hiệu ứng,… đều có thể chiếu. Sử dụng máy
chiếu so với việc dạy học truyền thống sẽ tiết kiệm thời gian, sức lực và học tập có phần
hiệu quả nhanh gọn, khoa học hơn.
Ví dụ:
Bài Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân [trang 107, Ngữ Văn 11-tập 1]
- GV: Sử dụng 3 bức ảnh chiếu: 1. Chữ thư pháp, 2. Hình ông đồ ngồi viết thư
pháp, 3. Hình Huấn Cao cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang cho chữ. Chiếu bức ảnh
thứ nhất: Các em có biết đây là loại chữ gì không?
- HS: trả lời.
- GV: Chiếu bức ảnh thứ 2. Các em biết, trước đây viết thư pháp là một nét đẹp
truyền thống, thể hiện văn hóa của dân tộc. Nay nó chỉ còn “vang bóng” – “ông đồ vẫn
ngồi đó; qua đường không ai hay”. Chiếu bức ảnh thứ 3. Hình người tù cổ đeo gông,
chân vướng xiềng đang cho chữ trong bức tranh, các em có biết ai không?
- HS: trả lời
- GV: Nhìn hình ảnh chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng xưa nay chưa từng có như
thế. Vậy vì sao lại gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có, chúng ta cùng tìm hiểu để có

câu trả lời.
Hoặc:
Bài Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành [trang 37, Ngữ Văn 12 - tập 2]
- GV: (Sử dụng 2 bức ảnh chiếu: 1. Cây xà nu, 2. Rừng xà nu). Chiếu bức ảnh
thứ nhất. Các em đã bao giờ trông thấy loại cây này chưa?
- HS: trả lời
- GV: Chiếu bức ảnh thứ 2. Thiết vấn: Đây là hình ảnh rừng xà nu, một loại cây
phổ biến của núi rừng Tây Nguyên. Các em có nhận xét gì về đặc điểm chung của loại
cây này?
- HS trả lời: Cây thẳng, ngọn, lá và cành đều vươn lên thẳng tắp,...
- GV: Các em trả lời đều có ý. Chúng ta sẽ mang những câu trả lời này vào bài
học để chiếu ứng tới con người Tây Nguyên xem họ có những đặc điểm gì nhé!
Dẫn nhập bằng máy chiếu khi giảng dạy môn Ngữ Văn sẽ làm cho bài giảng
thêm sinh động hơn. Khi dẫn nhập lại chèn thêm những bức ảnh chân thực làm tăng

6


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

thêm sự thu hút mạnh mẽ ở học sinh. Có thể tạo cho học sinh một ấn tượng tổng thể,
khắc sâu hơn nhận thức của học sinh.
3.6 Thảo luận có chủ đề
Phương pháp dẫn nhập thảo luận có chủ đề là lúc giáo viên vừa bước vào lớp,
đúng lúc học sinh đang chờ đợi giáo viên giảng bài; hoặc khi lớp chưa ổn định, chưa
chú ý thì lúc này giáo viên có thể áp dụng.
Ví dụ:
Bài Vợ nhặt - Kim Lân [trang 23, Ngữ Văn 12 - tập 2]
- GV: Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân sau CM.T.Tám. Vậy nhan đề
Vợ nhặt cho chúng ta liên tưởng đến những ý nghĩa nào? Chúng ta có thể hiểu như thế

nào?
- HS trả lời: Vợ nhặt có nghĩa là người ta nhặt được ở ngoài đường hơặc ở đâu đó như
một vật vô chủ... có nghĩa là bất kì ai cũng có thể nhặt được. Người vợ mất hết cả giá trị
đáng quí = người theo không....giá trị con người bị rẻ rúng như rơm rác, có thể nhặt
được ở bất kì đâu,....
- GV: Đó đều là những ý kiến làm cơ sở để chúng ta xây dựng nội dung bài học này. Vợ
nhặt có ý nghĩa gì – chúng ta cùng phân tích bài học.
Cách dẫn nhập ở trên, học sinh thông qua thảo luận bước đầu vạch ra được tư
tưởng của tác giả muốn truyền đạt, giúp học sinh nhìn thấy được “đốt sống” của tác
phẩm văn học. Điều này cung cấp tiền đề và trải đệm cho việc giảng dạy được thuận lợi
hơn.
4. Hiệu quả mang lại
Khi xác định được trọng tâm dạy – học như vậy, kết hợp với việc áp dụng 6 biện
pháp dẫn nhập như trên. Bước đầu, cả người dạy và người học khi bắt đầu một tiết học
đã phá bỏ được sự nhàm chán, uể oải khi tiếp cận văn bản. Giáo viên truyền được niềm
đam mê và hứng thú học tập cho HS. Đây được xem như một bước khởi sắc của việc
dạy học Ngữ Văn.
II. Đọc diễn cảm và tóm tắt tác phẩm:
1. Đọc diễn cảm:
Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến
nhấn mạnh yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng
giọng điệu của tác phẩm. Theo ông, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm
đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn là năng lực bắt được
trúng cái giọng của văn bản mình. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh
cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài
tình của giáo viên…”
Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực đọc diễn cảm, không
tìm được ngữ điệu thích đáng trong giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy
văn. Có nhiều giáo viên có kiến thức, nhưng khi giảng bài, học sinh thấy
chán, buồn ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa tìm

được ngữ điệu, giọng điệu thích đáng cho mình. Như vậy, người dạy văn
giỏi, ngoài kiến thức cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù hợp, đa dạng. Có
như vậy tác phẩm mới tác động sâu vào cảm nhận của học sinh. Và đây là
một phần quan trọng để phát huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn của
học sinh.
Ngữ điệu và giọng điệu trong dạy học môn văn trước hết được thể
hiện ở khả năng đọc diễn cảm và ngữ điệu giảng bài của giáo viên. Vậy đọc
diễn cảm là gì? Ngoài việc đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng đặc trưng thể

7


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

loại. Mỗi tác phẩm có một giọng điệu riêng. Nắm bắt đúng giọng điệu của
tác phẩm chính là nắm bắt đúng tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tác phẩm
tự sự cần đọc khác với tác phẩm trữ tình; đọc đoạn đối thoại khác đoạn độc
thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc văn kể, văn tường thuật; đọc văn chính
luận khác với đọc bài tùy bút… Tuỳ từng văn bản cụ thể mà giáo viên và
học sinh có thể chọn cho mình một “tông giọng” phù hợp.
1.1. Đọc là cơ sở thâm nhập tác phẩm:
- Muốn cảm thụ được nội dung tác phẩm truyện nhất thiết phải đọc. Đọc sẽ kích
thích quá trình tâm lí cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm, đưa người đọc vào thế
giới tác phẩm.
- Đọc tác phẩm truyện là đọc cho sáng rõ ý nghĩ, tình cảm, thái độ của nhà văn,
giáo viên dẫn dắt học sinh vào thế giới của tác phẩm truyện một cách dễ dàng. Hướng
dẫn học sinh đọc đúng giọng điệu là thể hiện được cung bậc cảm xúc của tác giả.
1.2. Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo:
a) Phương pháp đọc sáng tạo: là phương pháp tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ một cách sáng tạo chủ yếu bằng sự cảm thụ trực tiếp tác phẩm. Bản chất của

đọc sáng tạo trước hết là đọc lời văn, đọc văn bản ngôn từ của tác phẩm
b) Nội dung của phương pháp đọc sáng tạo: có 3 mức độ đọc đó là đọc đúng,
đọc hay, đọc diễn cảm.
- Đọc đúng: là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải quyết kĩ
năng, năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được đọc sai văn bản, là quá trình tri
giác chính xác văn bản.
- Đọc hay: là bước đầu chuyển tiếp từ lĩnh vực ngôn ngữ sang lĩnh vực văn
chương. Đọc đúng có nghĩa là đọc nghĩa còn đọc hay là đọc ra ý.
- Đọc diễn cảm: là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của đọc sáng
tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá trị nội dung và hình
thức của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có cảm xúc.
Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mĩ cho các
em học sinh, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học làm cho các em
yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm.
1.3. Các biện pháp rèn luyện phương pháp đọc - đọc diễn cảm
1.3.1 Đọc diễn cảm của thầy:
Việc đọc diễn cảm của người giáo viên dạy văn có vai trò quan trọng trong việc
hướng dẫn học sinh thâm nhập tác phẩm, nên người thầy cẩn phải có sự chuẩn bị kĩ,
thầy phải đọc đúng, đọc hay, đọc thật diễn cảm, bộc lộ được cảm xúc của nhà văn.
Người giáo viên có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh đọc: đọc mẫu, hướng
dẫn học sinh đọc, vừa đọc vừa bình vừa tóm tắt tác phẩm, đọc phân vai.
1.3.2 Đọc diễn cảm của học sinh:
- Yêu cầu học sinh phải đọc đúng, đọc diễn cảm ở nhà trước, khi đến lớp thầy
hướng dẫn học sinh cách đọc, khơi gợi cảm xúc của các em, khích lệ các em đọc một
cách hứng thú
Có thể xem đọc diễn cảm là nghệ thuật của trình diễn. Đọc diễn cảm
không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Diễn
cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những
cảm xúc nội tại của tâm hồn.
Có thể nói, rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm là biện pháp hữu hiệu trong

rèn luyện cảm thụ tác phẩm truyện cho học sinh.
2. Tóm tắt tác phẩm truyện:

8


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Sau khi HS đã đọc và nắm được nội dung tác phẩm, GV hướng dẫn HS tóm tắt
VB đây là một khâu không thể thiếu trong việc cảm thụ tác phẩm truyện.
2.1. Một số lưu ý khi tóm tắt tác phẩm truyện:
- Diễn đạt càng ngắn gọn, càng súc tích càng tốt, loại bỏ những thông tin không
cần thiết khi tóm tắt.
- Văn bản tóm tắt phải luôn phản ánh trung thực nội dung văn bản gốc, không
thêm thắt những nội dung không có trong văn bản gốc.
- Người tóm tắt cần diễn đạt theo cách riêng của mình, tránh đến mức tối đa
dùng lại các câu, đoạn trong văn bản gốc. Nên dùng câu đủ thành phần.
2.3. Một số kĩ năng cần áp dụng trong tóm tắt văn bản:
- Xác định ý chính, nội dung của mỗi đoạn văn và văn bản.
- Diễn đạt lại các ý chính và nội dung đó bằng một vài câu thích hợp.
- Dùng từ ngữ thích hợp để liên kết các câu lại với nhau thành một văn bản
nhỏ.
Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ tương
tác giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có vai trò
chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể hiện nội dung, bộc lộ chủ
đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những bước ngoặt trên đường đời nhân vật
chính.
Ví dụ: Cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục hai
nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giữa hai nhân vật này.
Tóm tắt cốt truyện của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận của Chí từ một đứa bé

bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù, dựa vào những lần Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá trình tha hóa tất yếu của Chí khi gặp
phải kẻ thống trị xảo quyệt như Bá Kiến, thấy được số phận bi thảm của kẻ trượt quá xa
khỏi xã hội loài người. Mặt khác, khi tóm tắt truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến
thời điểm Chí Phèo tình cờ gặp Thị Nở, được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc.
Người cố nông lương thiện với những ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong
con quỉ dữ Chí Phèo sống dậy… Năm ngày đêm được làm người… Rồi Thị Nở đột
ngột cự tuyệt chung sống. Sự kiện này khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị
cự tuyệt quyền làm người ở mình để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối tác
phẩm.
Cần chú ý rằng các sự kiện, bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật không phải bao
giờ cũng được bố cục theo trình tự thời gian bởi phụ thuộc vào cách tổ chức nghệ thuật
của nhà văn.
Ví dụ: Kim Lân mở đầu Vợ nhặt bằng miêu tả cuộc trở về lạ lùng của Tràng với
người phụ nữ lạ tới căn nhà tồi tàn cuối xóm ngụ cư lúc cuối chiều. Sự xuất hiện của
người phụ nữ đi sau Tràng đã khuấy động không khí tối sầm của xóm ngụ cư nghèo
khổ, khiến mọi người phải chú ý, ngạc nhiên. Rồi chính Tràng cũng ngạc nhiên với việc
mình đã có vợ. Tại sao có cuộc trở về ấy? Tại sao có những ngạc nhiên ấy? Đặt người
đọc trước sự chờ đợi, từ đó, như để giải đáp, Kim Lân mới ngược dòng thời gian kể lại
hai lần tình cờ gặp gỡ, tầm phơ tầm phào mà được vợ của Tràng. Cốt truyện được nhà
văn tổ chức làm sao thể hiện có hiệu quả nghệ thuật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, làm
sao lôi cuốn, hấp dẫn được người đọc. Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện, kết cấu tác
phẩm thường gắn với sự lựa chọn điểm nhìn, lựa chọn nhân vật trần thuật. Nguyễn
Trung Thành không đóng vai người kể chuyện để dựng lại trang sử bi hùng của làng Xô
Man mà dành cho cụ Mết – một già làng, chính người trong cuộc - kể lại cho con cháu
nghe (truyện ngắn Rừng xà nu).

9



Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Nguyễn Thi cũng chọn tình huống người lính trẻ Việt bị thương nặng sau trận
đánh ác liệt, lúc mê, lúc tỉnh trên đường tìm về đơn vị, hồi tưởng lại những câu chuyện,
những người thân trong gia đình mình (truyện ngắn Những đứa con trong gia đình). Đó
là biện pháp xóa nhòa khoảng cách giữa người trần thuật với nội dung câu chuyện được
trần thuật, đem đến cho người đọc cảm giác gần gũi, tin cậy. Gặp những cốt truyện như
thế, người tóm tắt có thể tháo dỡ, sắp xếp, tổng hợp lại theo trình tự thời gian. Mặt
khác, cũng có thể bám vào bố cục tác phẩm mà tóm tắt. Dù bằng cách nào cũng cần làm
nổi bật được các sự kiện quan trọng, các chặng đường phát triển của nhân vật chính để
giúp HS hình dung ra chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.
Đọc diễn cảm và tóm tắt văn bản có tác dụng quan trọng trong việc cảm thụ một
tác phẩm truyện, góp phần không nhỏ trong việc mang lại hiệu quả cho giờ văn.
III. CẢM THỤ TRUYỆN NGẮN TỪ GÓC ĐỘ TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày
30/11/1991), Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một
tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc
lộ một tâm trạng”. Nhà văn Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng đối với
truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn,
NXB VH, H. 1999, tr.43). Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng quan niệm truyện ngắn phải “tạo
ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện
ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên cứu đến người sáng tác đều
thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự thành công của một truyện ngắn.
Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện
chưa được sự quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ tác
phẩm truyện ngắn của người học chưa được sâu sắc.
1. Khái quát về tình huống truyện trong truyện ngắn
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó
chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó,
cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét

nhất.
Phân loại tình huống cơ bản có 3 loại: tình huống hành động, tình huống tâm
trạng, tình huống nhận thức.
2. Phương pháp tiếp cận tình huống
2.1. Xác định tình huống truyện :
- Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này? Hay sự
kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?...
- Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một trong
các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là
những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm
lên tất cả?
- Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích
hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.
2.2. Phân tích tình huống: Phân tích trên các bình diện cơ bản sau:
- Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)
- Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
- Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ
chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
2.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống:
- Về quan niệm: Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?

10


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

- Về cảm xúc: Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ?
Khi giảng dạy một tác phẩm truyện ngắn, sau phần Giới thiệu chung (giới thiệu
về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả; giới thiệu về hoàn cảnh ra đời tác phẩm),
trong phần Đọc – hiểu văn bản, GV thường hướng dẫn học tìm hiểu về tình huống

truyện. Xuất phát từ tình huống truyện, tiến hành khai thác tác phẩm về các khía cạnh:
nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật,… Từ đó, hướng dẫn học sinh rút ra chủ đề tác
phẩm.
Ví dụ:Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
1. Xác định tình huống
Sau khi lướt qua các tình tiết chính của truyện này, ta dễ dàng thấy rằng hạt nhân
của truyện ngắn Vợ nhặt là một cuộc hôn nhân oái ăm, kì lạ. Và đó chính là cái "tình
thế nảy ra truyện", cái tình huống của câu chuyện: Tràng – anh nông dân nghèo thô
kệch, dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
2. Phân tích tình huống truyện
- Việc Tràng “nhặt vợ” tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên đối với tất cả mọi người:
+ Khi Tràng dẫn vợ về thì cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Trước hết là lũ trẻ. "Lũ
ranh" ấy bỗng nhiên mất hẳn đi một bạn chơi, khi có đứa chợt nhận ra quan hệ của họ là
"chông vợ hài". Người lớn thì ngớ ra "không tin được dù đó là sự thật". Khi đã rõ, họ tò
mò thì ít mà ái ngại nhiều hơn: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về".
+ Tiếp đến là bà cụ Tứ cũng quá đỗi ngạc nhiên: hoàn toàn không tin nổi - không
tin vào mắt mình, không tin vào tai mình (quái, sao lại chào mình bằng "u").
+ Ngay cả Tràng vẫn không hết ngạc nhiên vì mình được vợ: chẳng những cứ
đứng "tây ngây" giữa nhà tối hôm trước mà đến tận hôm sau, qua một đêm có vợ rồi
nhưng "hắn cứ lơ lửng như người đi ra từ trong một giấc mơ".
- Tình huống “nhặt vợ” là tình huống oái ăm, kì lạ:
+ Tràng - một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, bỗng
dưng "nhặt" được vợ, mà lại là vợ theo không.
+ Tràng lấy vợ vào lúc không ai lại đi lấy vợ - giữa những ngày nạn đói đang lăm
le cướp đi mạng sống của mỗi người.
+ Một đám cưới thiếu tất cả mà lại như đủ cả (thiếu tất cả những lễ nghi tối thiểu
nhất của một đám cưới, nhưng nó lại có cái quan trọng nhất, cốt lõi nhất: sự thương
yêu gắn bó thực lòng).
- Tâm trạng của những nhân vật trước tình huống này chứa đầy những cảm xúc
ngổn ngang, mâu thuẫn và các nhân vật có sự thay đổi về tính cách:

+ Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trêu của
số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo
nặng trĩu những lo âu cho tương lai con “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được
cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang,
ám ảnh của kiếp nghèo không lối thoát. Trong lời nghẹn nghào tâm sự có cả sự xót xa,
một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con.
+ Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục. Lúc đầu Tràng tỏ ra lo lắng trước
cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng”. Sau đó, Tràng chấp nhận đưa vợ về ra
mắt với tâm trạng lâng lâng hạnh phúc, ngượng ngịu, bối rối. Sau một ngày có vợ,
Tràng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc và “nên người”. Tràng nhận ra được trách nhiệm
của bản thân đối với gia đình, với mẹ, với vợ và những đứa con sau này. Tràng tin
tưởng sự đổi đời ở tương lai.

11


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

+ Người vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị liều lĩnh, chao chát. Khi về làm
vợ, chị tỏ ra lễ phép, đảm dang, hiền hậu, biết thu vén gia đình và có hiểu biết về thời
sự.
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
- Tố cáo được tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói
khủng khiếp, không chỉ cướp đi sinh mệnh của mấy triệu người Việt Nam, mà còn hạ
thấp giá trị con người.
- Phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của con người: ngay
trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương
yêu đùm bọc lẫn nhau.
Ví dụ: Tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
1. Xác định tình huống

Đây là câu chuyện về gia đình của anh Giải phóng quân tên Việt. Nhân vật này
rơi vào tình huống đặc biệt: trong một trận đánh, Việt bị thương phài nằm lại giữa chiến
trường. Anh nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, tỉnh lại rồi ngất đi. Trong những lúc tỉnh lại
ngất đi đó, bao nhiêu kí ức về gia đình, về đồng đội, về bản thân cứ mồn một hiện về
lung linh sống động trong tâm trí Việt.
2. Phân tích tình huống
- Nhờ tình huống truyện, tác phẩm có một lối tự sự riêng. Lối tự sự, kể chuyện
không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu theo dòng hồi tưởng miên man đứt
nối của Việt lúc bị thương nằm lại giữa chiến trường mênh mông bóng tối - bóng tối
của màn đêm, bóng tối do đôi mắt bị thương không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Chính
nhờ cách trần thuật này mà mạch truyện đi về thoải mái giữa quá khứ và hiện tại; giữa
cái đang ở trước mặt với cái đã thành kỉ niệm xa xưa.
- Dòng ý thức của Việt chập chờn giữa những lần tỉnh, ngất ấy đã lần lượt tái
hiện những gì đã qua, đang có trong đời anh. Dòng nội tâm anh đứt nối, nối đứt đã tái
hiện bao nét sinh động cụ thể về chú Năm, má, chị Chiến:
+Má:
* Có cuộc sống cơ cực, nhọc nhằn, khổ đau.
* Rất mực yêu thương chồng con và căm thù giặc sâu sắc: đi đòi đầu chồng;
thương con hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Việt, má hiện
lên đầu tiên: ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…); luôn luôn nhắc nhở
con về truyền thống gia đình và mối thù dân tộc; hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến
đấu không mệt mỏi.
+ Chú Năm:
* Có giọng hò: tiếng hò vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về
quê hương khó nghèo nhưng bất khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân
thúc giục động viên thanh niên ra trận.
* Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến -> giữ lửa yêu
nước truyền cho các thế hệ.
* Yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc sâu sắc.
+ Chị Chiến:

* Yêu thương và luôn nhường nhịn Việt, trừ việc giành đi bộ đội với Việt.
* Mang những phẩm chất của má: đảm đang, tháo vát, sắp xếp chu đáo mọi việc
trước khi lên đường nhập ngũ; bộc trực, quyết liệt, gan góc, quyết không đội trời chung
với kẻ thù.

12


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

- Qua dòng hồi ức của nhân vật Việt, người đọc thấy hiện lên hình ảnh của một
chàng trai mới lớn rất hồn nhiên, vô tư mà dũng cảm, gắn bó với những người thân và
giàu tinh thần trách nhiệm với truyền thống của gia đình, quê hương:
+ Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư: tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị; trong
khi chị Chiến lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe
vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết; đi
đánh giặc vẫn đeo ná thun; không sợ giặc nhưng lại sợ ma; mỗi lúc tỉnh lại ngoài chiến
trường, Việt nhớ về gia đình, thèm được má cưng chiều…
+ Tình cảm gắn bó và ý thức trách nhiệm với truyền thống gia đình:
* Gắn bó, yêu thương những người thân: tình cảm gia đình được thể hiện qua
dòng hồi ức của Việt về ba má, chú Năm, chị Chiến…
* Có ý thức trách nhiệm thiêng liêng của một đứa con với truyền thống gia đình:
lòng căm thù giặc, khát vọng cầm súng chiến đấu trả thù cho ba má, bảo vệ gia đình,
quê hương…
* Chiến đấu gan góc, quả cảm: diệt được xe bọc thép của giặc; bị thương nặng,
lạc đồng đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với anh em,
để tiếp tục đấu tranh; một mình ở lại giữa chiến trường nhưng vẫn sẵn sàng trong tư thế
chiến đấu…
- Cách trần thuật này rất hữu hiệu trong việc thể hiện nội dung tư tưởng chủ đạo:
gia đình là cội nguồn sâu thẳm nhất của con người, và truyền thống gia đình là thực sự

thiêng liêng, vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.
- Cách kể chuyện này có hai tác dụng về nghệ thuật: câu chuyện vừa được kể,
cũng là lúc tính cách nhân vật được khắc họa; câu chuyện trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì
được kể qua con mắt, tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
Nhà văn dựng tình huống tâm trạng nên trần thuật theo dòng ý thức của nhân
vật. Qua đó thể hiện:
- Phẩm chất anh hùng của người nông dân Nam Bộ với ý tưởng nghệ thuật:
người anh hùng là sản phẩm của một thời đại, đồng thời là sản phẩm của một truyền
thống gia đình.
- Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
- Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, giữa truyền thống
gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người
Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ví dụ: Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
1. Xác định tình huống
Truyện ngắn xoay quanh một tình huống chủ chốt: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm
vào vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã
thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc
mơ. Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo
hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những ngày sau,
cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa
án để giải quyết chuyện gia đình của chị.
2. Phân tích tình huống
- Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền
ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày
“phục kích”, Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh

13



Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

mực tàu của một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh
đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ
thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn; một
cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ,
đánh lại cha.
- Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình
huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ
để khuyên chị ly hôn nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ
chối, thậm chí van xin tòa án cho chị không bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa
quan trọng của người phụ nữ làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị
còn có những đứa con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ không thể sống vì bản
thân. Và trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ.
Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về nguyên nhân
bi kịch và tính cách của các nhân vật:
+Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ hiền lành
sang thô bạo. Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm
gây ra nỗi đau cho vợ và con.
+Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao dung, giàu
lòng thương con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.
+Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa
con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh hiểu rằng, con người
và cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý giải và can thiệp như anh
tưởng lúc ban đầu.
+Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở
rất gần. Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có thể che khuất cái bề bộn,

ngổn ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực lại có thể chứa đựng
những vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện
giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh
hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn
về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật
với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý. Cần nhìn
nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong mối quan hệ với
nhiều yếu tố khác nữa.
+ Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức sách vở
mà phải thấu hiểu cuộc sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
+ Con người ta luôn phải nhìn lại mình. Hoạt động tự ý thức khiến con người
ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật chân chính
là cuộc sống và phải luôn luôn vì cuộc sống.
Tóm lại:
- Giảng dạy tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện có nhiều ưu
điểm:
+ Giúp học sinh cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc theo đặc trưng thể loại.

14


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

+ Học sinh nắm được những nét riêng của từng truyện, đồng thời thấy được tài
năng và cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
- Giảng dạy tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện cần lưu ý:

+ Nghệ thuật tạo dựng tình huống là tạo hoàn cảnh đặc trưng, đặt nhân vật vào
một hoàn cảnh đặc biệt nào đấy để nhân vật bộc lộ hết tính cách, tâm trạng của mình.
+ Khi phân tích tình huống cần theo các bước:
* Xác định tình huống.
* Phân tích diễn biến tình huống.
* Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện.
+ Hạt nhân của thể loại truyện ngắn là tình huống truyện nhưng cũng không phải
là yếu tố duy nhất để thể hiện hết chủ đề, tư tưởng và ý dồ nghệ thuật của nhà văn. Do
đó, khi phân tích tình huống truyện cần phải phân tích nhân vật, giọng điệu, kết cấu…
để có sự đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
+ Khai thác và giảng dạy truyện ngắn từ góc độ tình huống không phải là một
hướng đi mới mà chỉ là một phương pháp hiệu quả để khám phá tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
IV. Phân tích chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
Trong một tác phẩm thường có nhiều chi tiết nhưng không phải mọi chi tiết đều
có giá trị ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể lướt qua hoặc bỏ đi cũng không sao.
Có các chi tiết thể hiện thần thái nhân vật, cô đọng nội dung, giá trị của tác phẩm, như
một giọt nước mà qua đó có thể thấy cả cốc nước. Bởi thế, người đọc văn, phân tích văn
phải biết lướt qua những chi tiết vụn vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm bắt lấy và tập trung
phân tích các chi tiết tiêu biểu, đắt giá nhất.
Cảm thụ tác phẩm truyện, GV và HS phải ý thức rõ đâu là điểm chính, biết dừng
lại phân tích sâu một số chỗ mình tâm đắc. Đã không ít người viết về Vợ chồng A Phủ,
phân tích quá trình trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị vào đêm mùa
xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình nhưng mấy ai cảm nhận hết ý nghĩa của hành động Mị
uống rượu trong đêm ấy. Tiếng sáo gọi bạn tình ngoài đầu núi vọng tới bắt đầu đánh
thức nỗi nhớ hạnh phúc thời tuổi trẻ, ý niệm về thời gian trong người phụ nữ đang sống
trong đắng cay, bất hạnh. Mị thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người
đang thổi sáo. Khi từ trong buồng bước ra (căn buồng chật hẹp, tối tăm, chỉ có một lỗ
cửa sổ vuông bằng bàn tay bấy lâu nay giam hãm tuổi xuân của người phụ nữ xinh đẹp,
tài hoa) Mị thấy xung quanh mình đang rất ồn ào. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong

bữa cơm Tết cúng ma, đang đánh chiêng, ốp đồng, nhảy múa và lại uống rượu bên bếp
lửa. Nhìn mọi người như thế, Mị nghĩ “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Cô lén lấy hũ
rượu, uống ực từng bát.
Cần lí giải hành động uống rượu của Mị lúc ấy thế nào? Đó chính là một phản
ứng từ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy. Là con người, ai chẳng có quyền uống chút
rượu ngày Tết. Người ta uống thì Mị cũng phải uống để chứng tỏ mình còn là một con
người. Thế là ý thức về quyền làm người, quyền bình đẳng đã trở lại trong Mị. Mị uống
đến thế để dằn nén xuống nỗi uất ức và cả khát vọng sống đang trỗi lên trong mình. Mị
uống đến thế cho bõ tức, bõ hờn, uống như sự trả thù lũ người độc ác kia. Chi tiết trong
văn chương là thế – vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều ý nghĩa. Lắm khi qua một chút
bên ngoài ta phải đọc ra thế giới nội tâm của nhân vật.
Chúng ta cũng có thể nói như trên chẳng hạn với chi tiết Tràng khoe chai dầu với
người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân). Bấy lâu nay tối đến mẹ con Tràng nào có dầu mà
thắp đèn. Nhưng hôm nay được một người phụ nữ theo mình về nhà làm vợ, người đàn
ông này mới quyết định mua hai hào dầu trên chợ tỉnh. Vậy mà Tràng đâu đã dám nói

15


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

với người vợ nhặt. Mãi đến khi đi đến chỗ khuất, không có ai nhìn theo nữa, Tràng mới
chậm bước lại, đi sát người vợ nhặt rồi giơ cái chai dầu vẫn cầm lăm lăm một bên tay
lên khoe… Kim Lân đã miêu tả hành động, những lời trêu đùa của Tràng và người vợ
nhặt khi ấy bằng đôi mắt nheo cười thật hóm hỉnh. Phải thấu hiểu, trân trọng niềm vui
hạnh phúc bình dị ở người dân nghèo đến chừng nào mới viết nổi chi tiết ấy, mới để
Tràng chặc lưỡi nói: “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa
tối đã rúc vào ngay, hì hì…”. Cũng thế, không sống sâu sắc với nhân vật của mình, làm
sao diễn tả được cảm giác: “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông
nghèo khổ ấy, nó mơn man, ôm ấp khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ

trên sống lưng.” Khi phân tích chi tiết, cần đặt nó trong dòng cốt truyện, trong nội dung
phản ánh của tác phẩm để xác định đúng vị trí, ý nghĩa của chi tiết ấy. Cảm nhận được
giá trị của các chi tiết tiêu biểu rồi thì phải tập trung phân tích, bàn luận về nó.
V. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang
chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con
người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan
trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng
thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một
quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai
cấp, thậm chí một thời đại nào đó.
Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng
hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Phân
tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị
khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ.
Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân
tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại mấy điều này,
chúng tôi xin lưu ý các bạn hai nhược điểm mà không ít người phân tích nhân vật
thường mắc phải:
Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con
người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm
chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ,
đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây không nên hiểu
chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà bao hàm cả sự nhận
xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình.
Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm
khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng một
nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó một cách
nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở
nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác

phẩm.
Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời
vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách
riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm
sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào
tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác
phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện người đọc, người
phân tích cần lưu ý.
1. Lai lịch

16


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối
con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí
lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy.
Hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị
đuổi ra khỏi nhà) cùng những thành tích bất hảo trong cuộc sống lang thang hè đường
xó chợ của Xuân Tóc Đỏ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau
này (Số đỏ Vũ Trọng Phụng).
Ngay từ khi được sinh ra đã bị vứt khỏi lề cuộc sống, được người ta nhặt về nuôi
rồi hết đi ở cho nhà này sang nhà khác, không bà con thân thích, không thước đất cắm
dùi – hoàn cảnh xuất thân ấy là một nguyên nhân tạo nên số phận cô độc thê thảm của
Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao).
Tính cách nhân vật được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh
gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
2. Ngoại hình
Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích.

Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể
lẫn vào các nhân vật khác). Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản
chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá
có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật
nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người
kia, con người nọ…
Trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh niên
người Pháp đi trên toa xe điện ngầm), tác giả Nguyễn ái Quốc đã phác họa chân dung
Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như
vỏ chanh ấy đấy à?”. Các chi tiết này vừa có giá trị tả thực về Khải Định vừa ám chỉ
thật sâu cay tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương của ông vua bù nhìn An
Nam.
Đến với Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), chúng ta ấn tượng bởi hình ảnh một cô gái
lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Nhà văn đặc tả một hình dáng khi nào cũng
cúi mặt nhìn đất mà không dám ngẩng cao, nhìn xa một chút. Một khuôn mặt xinh đẹp
là thế mà mang nỗi u sầu thăm thẳm. Chi tiết này khiến ta ấn tượng với thân phận tủi
nhục của người con dâu gạt nợ.
Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp,
đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có
những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm chí trái
ngược nhau. Lão Hạc (truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao) thân hình nhỏ thó, bộ mặt
nhăn nheo như quả trám nhưng lòng tự trọng, tình thương yêu thì lớn lao, cao cả ít ai
bằng.
3. Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có
thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy. Ngôn
ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang
đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm
bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ.
Nhắc tới nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ của Vũ Trọng

Phụng chúng ta nhớ ngay đến câu gắt đầu cửa miệng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” mặc
dầu ông ta chẳng biết cho ra đầu ra đũa việc gì cả. Cho đến khi trở thành “nhà cải cách
thẩm mĩ”, “đốc-tờ Xuân”, “giáo sư quần vợt”, “cố vấn báo Gõ mõ”… được cả xã hội

17


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

thượng lưu thành thị trọng vọng, Xuân Tóc Đỏ vẫn đầu cửa miệng mấy chữ “mẹ kiếp”,
“nước mẹ gì”. Điều ấy chứng tỏ cái bản chất lưu manh, vô học của y không sao gột rửa
nổi.
Trong Rừng xà nu ngôn ngữ của nhân vật Tnú nhiều khi ngắn gọn, chắc nịch,
chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, dứt khoát: “Chỉ còn thằng chỉ huy dưới hầm. Kêu nó
không lên. Bỏ lựu đạn, nó có ngách. Người chỉ huy mình hỏi: Ai xuống? Tôi xuống. Tối
lắm. Tôi mò thấy nó. Nó bắn. Tôi giật được súng nó. Nó vật tôi. Nhưng tôi mạnh hơn.
Tôi tống đầu gối lên ngực nó. Tôi bóp đèn pin lên mặt nó: Dục, mày còn nhớ tau
không? Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chứ? Tau vẫn cầm
được súng! Mắt nó trắng giã. Tôi nói: Này, tau có súng đây, tau có cả dao găm đây.
Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao nghe chưa! Dục!
Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày thôi!”. Quả là đôi bàn
tay dồn nén căm hờn, đôi bàn tay quả báo. Con người miền núi là thế: yêu ai, yêu hết
lòng, ghét ai, ghét tận độ. Từ ngày thằng Dục dẫn lính về đàn áp dân làng, đánh đập
chết mẹ con Mai, Tnú khắc sâu mối thù. Cái tên thằng Dục in đậm trong tâm khảm…
Anh muốn chứng tỏ với kẻ thù rằng đôi bàn tay từng bị hành hạ dã man trước đây để
dập tắt mộng cầm súng, mỗi ngón đã bị cụt một đốt, lúc này vẫn thừa sức trả thù. Ngôn
ngữ ấy, những lời hỏi, lời cảnh cáo cùng cách trả thù ấy chứng tỏ một tính cách mạnh
mẽ, một hành động quyết liệt.
4. Nội tâm
Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm

xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác với thế giới bên
ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi
của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận động riêng của nó.
Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí
con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài
nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này
cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm.
Bố cục truyện ngắn Hai đứa trẻ vận động theo dòng cảm giác bâng khuâng, tâm
trạng buồn man mác của nhân vật Liên trong không gian phố huyện nhỏ trước giờ khắc
ngày tàn rồi dần về đêm. Tính trữ tình, sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thể hiện qua
việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng của cảnh vật và sự hòa điệu của lòng người.
Cũng tương tự như thế, hãy chú ý hành động thắp sáng thêm đĩa đèn của người
phụ nữ này sau đó: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Hành động này có ý nghĩa gì? Bấy
lâu nay Mị có bận tâm gì đến bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu. Cuộc đời
đối với người con dâu gạt nợ chỉ như một đêm dài thăm thẳm. Nhưng giờ đây có lẽ Mị
không còn chịu nổi bóng tối đang vây bọc quanh mình nữa. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay
là người phụ nữ này đang muốn thắp sáng lại cuộc đời mình? Tiếp theo hành động uống
rượu để lòng càng nhớ về ngày trước, để thấy mình còn trẻ, hành động này chứng tỏ
phản kháng âm thầm mà quyết liệt, chứng tỏ sóng cuộn trong chiều sâu tâm trạng từ khi
nghe tiếng sáo gọi bạn yêu lấp ló ngoài đầu núi, lửng lơ bay ngoài đường. Đến khi diễn
tả tâm trạng, hành động nhân vật Mị ở đêm mùa đông giá lạnh sau đó, ngòi bút Tô Hoài
như hồi hộp dõi theo nỗi lòng người phụ nữ này để dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến
bất ngờ khác. Chúng ta vừa bất ngờ trước hành động táo bạo cắt dây trói cho A Phủ lại
ngỡ ngàng trước việc Mị vùng chạy theo (dù trước đó vài giây vẫn đang nghĩ chuyện ở
lại mà chết thay) với câu nói trong cơn gió thốc lạnh buốt “ ở đây thì chết mất!”. Nhưng

18



Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

ngẫm ra thì những hành động bất ngờ này lại rất tự nhiên và hợp lí bởi đúng với hoàn
cảnh cụ thể ấy, với tính cách ấy.
5. Cử chỉ, hành động
Bản chất của con người được bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành
động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. Đó là sự
thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân
vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa.
Nam Cao đã dựng lên trước mắt ta một Chí Phèo bằng xương bằng thịt với tính
cách điên khùng, uất ức, với số phận tuyệt đối cô độc và bi thảm không thể lẫn với bất
kì một ai khác. Quả là rất Chí Phèo từ bộ mặt đầy những vằn ngang vạch dọc, dáng đi
ngật ngưỡng đến cách chửi, từ kiểu rạch mặt ăn vạ, kiểu uống rượu đến lối làm tình với
Thị Nở, Từ hành động xách dao ra đi trả thù đến cách đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu
đời mình.
6. Lời các nhân vật khác về nhân vật
Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời
đánh giá của các nhân vật khác.
Viết Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo tạo tình huống lầm lẫn thú vị để
mượn cuộc đối thoại của đôi nam nữ thanh niên người Pháp trên xe điện ngầm ở Pa ri
mà dựng chân dung, đả kích ông vua bù nhìn Khải Định. Qua những lời đối thoại ngắn
gọn, sinh động mà hình ảnh ông vua An Nam lần lượt hiện lên khá toàn vẹn (từ lối ăn
mặc, trang sức xa hoa, lòe loẹt, khoe của một cách kệch cỡm đến điêu bộ nhút nhát,
lúng ta lúng túng, từ cái mũi tẹt, đôi mắt xếch, cái mặt bủng như vỏ chanh đến hành vi
ám muội…). Tác giả đã mượn lời đôi nam nữ thanh niên Pháp mà bàn luận, định giá
thật đích đáng về Khải Định. Ông vua này được xem như một trò giải trí, mua vui cho
người dân Pháp giữa lúc mọi trò quảng cáo trên báo chí đương thời không hấp dẫn được
công chúng nữa. Mỉa mai thay trò giải trí này lại không hề tốn một đồng xu (không
bằng vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công
Gô). Thậm chí, Khải Định được ví như vai rối mà ông bầu nhà hát Múa rối có định kí

giao kèo thuê. Đã là con rối thì không thể tự thân chuyển động mà phải tuân theo sự
điều khiển, giật dây của những ai đó. Khải Định chỉ là một con rối trên sân khấu chính
trị đương thời. Mọi hành động, mọi lời nói của ông vua này đều nhất nhất tuân theo sự
điều khiển của quan thầy Pháp!
Đến với truyện ngắn Rừng xà nu, lời cụ Mết nói với con cháu Xô Man lại cho ta
hiểu được phần nào hoàn cảnh gia đình và tính cách của Tnú: “Anh Tnú mà tau đã kể
cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh
giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ kí người chỉ
huy, chị bí thư coi rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô
Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta…”. Trong tác
phẩm văn học, các nhân vật thường ở giữa những mối quan hệ tương tác, ràng buộc
nhiều khi rất phức tạp, thường nhận (hoặc chịu) sự nhận xét, đánh giá của các nhân vật
khác. Tất nhiên, không phải lời nhận xét, đánh giá nào cũng đúng và đều là ý kiến của
nhà văn.
Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, GV cần lưu ý:
Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ
các phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua lời
các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi
thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần biết tập trung, xoáy sâu vào
các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần tự theo sáu

19


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, làm sao cho bài văn của mình hấp
dẫn.
Thứ hai: Tránh lầm lẫn cấp độ của những phương diện phân tích. Có thể xem sáu
phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách, số

phận nhân vật.
Thứ ba: Nắm vững sáu phương diện cơ bản đã nêu khi phân tích nhân vật có ý
nghĩa định hướng cho việc cảm thụ tác phẩm truyện.
VI. Phân tích điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm truyện
Trong tác phẩm truyện, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm nhìn. Xác
định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả
sự vật, tường thuật câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là cách kể, phương thức kể.
Khi nghiên cứu một cấu trúc văn bản, chúng ta cần quan tâm đến điểm nhìn, chỗ đứng
mà tác giả lựa chọn. Chính điểm nhìn, chỗ đứng này chi phối cách miêu tả, đánh giá sự
việc, câu chuyện và thành cơ sở để người đọc chúng ta cân nhắc, lựa chọn thái độ đối
với hiện thực, nhân vật được phản ánh.
Ở đây, người kể chuyện là người toàn thông, nắm rất rõ và biết tất cả về nhân
vật, về nội dung câu chuyện. Trong khi kể, họ đưa ra những nhận định, đánh giá về
nhân vật, sự kiện Phân tích tác phẩm văn học hiện đại cần chú ý đến sự dịch chuyển,
kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn trần thuật. Lắm khi, nhà văn “trao bút” cho nhân vật,
để nhân vật tự kể, tự nói về mình. Ở đây, nội dung nghệ thuật không chỉ được truyền
đạt duy nhất từ người kể chuyện mà còn bởi các nhân vật khác, bằng cả những tiếng nói
bên trong mang nhận thức, tình cảm của nhân vật. Chúng tôi xin tiên cử điều này bằng
phân tích một chi tiết trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Ai từng đọc Vợ chồng A Phủ chắc đều thấm thía ý nghĩa của tiếng sáo gọi bạn
tình vào đêm mùa xuân. Từ khi hiểu rằng mình chưa thể chết, đành chấp nhận kiếp nô
lệ để cứu bố, Mị cứ lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Tuổi xuân của người phụ nữ xinh
đẹp, tài hoa ấy bị giam hãm trong những không gian chật hẹp, tăm tối, trong căn buồng
chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài kia cứ thấy một màu mờ mờ
trắng trắng không biết là sương hay là nắng.
Mị xem mình sống mà như đã chết, xem cuộc đời mình như một đêm dài bất tận.
Ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen cái khổ rồi. Thậm chí, đến khi người bố già chết đi,
cô cũng chẳng nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà thống lí nữa. Ai ngờ tiếng sáo gọi bạn tình
trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ý niệm về thời gian, đánh thức hoài niệm về tuổi
trẻ cùng khát vọng hạnh phúc trong con người tưởng đã chai lì, câm lặng đi trong đau

khổ. Ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng Mị để diễn tả quá trình trỗi dậy
của một sức sống tiềm tàng theo các bước ngày càng cao, càng nồng nàn.
Cũng từ đây, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật của nhà văn bắt đầu
chuyển đổi. Không hoàn toàn khách quan nữa mà lúc này có sự kết hợp với điểm nhìn
trần thuật từ nhân vật, xuất hiện lời trần thuật nửa trực tiếp. Thử đọc lại một đoạn văn
của Tô Hoài: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết,
Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước
ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị
cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị đã ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ cửa sổ vuông mờ
mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng
như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Trong
đoạn văn này, đang trần thuật khách quan (từ chỗ đứng người kể chuyện) đến ba câu
cuối có sự dịch chuyển, kết hợp tự nhiên các điểm nhìn, giọng điệu. Tô Hoài đã viết
liên tiếp ba câu văn ngắn cùng một chủ ngữ là Mị. Lời văn từ đây bỗng hối hả, bỗng

20


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

dồn dập như cùng khát vọng sống đang trào dâng trong lòng Mị. Lời nhà văn hay lời
nhân vật? Không thể phân định rạch ròi. Tô Hoài không đứng bên ngoài mà tả, mà kể
nữa, lại nhập thân vào Mị, thổn thức cùng Mị ở thời khắc ấy.
Khi trần thuật bằng lời nửa trực tiếp như thế, ý thức của nhân vật được hiện diện,
người đọc được thâm nhập vào ý nghĩ thầm kín của nhân vật, được sống cùng nhân vật.
Trong sáng tác của Nam Cao, sự dịch chuyển linh hoạt điểm nhìn thần thuật, sự đan xen
nhiều giọng điệu trần thuật trở thành một đặc điểm nổi bật, một nét thú vị của phong
cách.
Hãy ngẫm nghĩ chẳng hạn từ đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo hay đoạn nhân
vật Hộ tự cảm nhận, xỉ vả mình là một kẻ khốn nạn, bất lương trong nghề văn trong Đời

thừa… ở những đoạn này, lời người trần thuật (tác giả) và lời nhân vật trong sự đối chọi
với chính mình, đối thoại với người đời không thể tách rời. Nam Cao thường rất tự
nhiên trao quyền trần thuật cho nhân vật và người đọc văn ông cũng được tự nhiên hòa
vào, sống trong dòng ý thức ấy.
Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật như trên tất yếu liên quan với lời văn, giọng điệu của
tác phẩm. Mọi nhân vật, mọi sự kiện, chi tiết, hình ảnh… trong tác phẩm văn xuôi đều
được diễn tả bằng lời văn, bằng giọng điệu. Bởi thế, lời văn là một căn cứ tin cậy để
chúng ta nhận ra chỗ đứng, nhận ra ý đồ của nhà văn khi xây dựng tác phẩm.
Khi viết Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã không đóng vai người kể chuyện
mà dựng lại lịch sử bi hùng của làng Xô Man. Nếu làm thế, giữa người kể và câu
chuyện được kể sẽ có một khoảng cách. Nhà văn đã trao quyền kể cho nhân vật cụ Mết
– một già làng, một người trong cuộc. Cụ Mết là người từng chứng kiến bao biến cố
trọng đại của làng Xô Man, là người phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa bất khuất đầu
tiên của làng. Hơn nữa, chính cụ là người trực tiếp trừng trị thằng Dục ác ôn. Có thể
xem cụ Mết như một pho sử sống của làng Xô Man, là cây xà nu cổ thụ vững chãi của
đất rừng Tây Nguyên. Cụ như chiếc gạch nối giữa truyền thống bất khuất tự ngàn xưa
với hiện tại đau thương, hùng tráng. Chỉ con người như thế mới đủ uy tín, uy quyền
dựng lại lịch sử quê hương và răn dạy con cháu. Việc chọn cụ Mết làm nhân vật người
kể chuyện đã tạo nên giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt cho thiên
truyện. Giọng nói của cụ trầm ấm, vang vọng như tiếng nói của núi rừng. Nhờ thế, tác
phẩm thâm trầm với chiều sâu triết lí sử thi, có khả năng lay động lòng người.
VII . Đưa vấn đề vào trong tiết học tác phẩm truyện (Câu hỏi nêu vấn đề)
Trong các giờ học tác phẩm truyện, giáo viên khéo léo dẫn dắt học sinh, biết đặt ra
các vấn đề kích thích học sinh tham gia thảo luận sẽ tạo được một không khí hết sức sôi
nổi. Chúng ta có thể thực hiện việc giáo dục kĩ năng sống thông qua những câu hỏi ở
từng tác phẩm cụ thể như sau:
Ví dụ:
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
- Cảnh hai chị em Liên và An trong truyện cố thức khuya để được nhìn chuyến tàu là
một chi tiết đặc sắc. Nếu đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ em có đồng cảm với hai

chị em Liên không?
Ở tình huống này, học sinh có thể tích luỹ thêm cho mình kinh nghiệm sống khi phải
đối diện với hoàn cảnh u tối, buồn tẻ.
- Bối cảnh trong truyện này gợi cho em những hiểu biết và suy nghĩ gì về một thời đã
qua của đất nước ta ? Ngày nay nhìn lại cuộc sống của nhân dân ta thời đó em cảm
thấy bản thân mình có trách nhiệm gì?
Đây là câu hỏi vừa mang tính chất khơi gợi cách nhìn nhận lịch sử dân tộc vừa có tính
chất giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cho học sinh.

21


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

- Nếu bản thân mình bị rơi vào hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng nhất em sẽ sống như thế
nào? Nếu còn một chút ánh sáng của hi vọng như chị em Liên, em cảm thấy cần phải
làm gì?
Điều quan trọng mà chúng ta cần hướng đến ở câu hỏi trên là học sinh có cách giải
quyết tốt nhất khi bị đẩy đến tình cảnh éo le nhất.
Tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
- Nhân vật Huấn Cao khi vào tù vẫn ngang nhiên không sợ bất cứ thứ quyền lực nào,
em thấy con người như vậy có đáng được ca ngợi không? Nếu em phải ở trong hoàn
cảnh của Huấn Cao, em có cách giải quyết nào khác?Vì sao em chọn cách đó?
Câu này giúp học sinh học tập cách sống biết tự trọng, không cúi đầu trước các thế
lực đen tối, sống đúng với đạo lý, đúng với chính mình.
- Nếu có được một tài năng bẩm sinh như Huấn Cao, nhưng lại bị giam cầm trong nhà
lao, em có đem tài năng đó hiến tặng cho người mà em đồng cảm không?
Qua câu hỏi này chung ta có thể giúp học sinh hình thành ý thức, quan niệm đúng đắn
về tài năng và nhân cách con người.
- Thư pháp là một thú chơi tao nhã và phong lưu trong xã hội nước ta thời xưa, và ngày

nay vẫn còn tồn tại. Vậy theo em, viết thư pháp cần đảm bảo ngững điều kiện nào? Em
có suy nghĩ gì về tình trạng viết thư pháp tràn lan ở các cổng đền, chùa nhiều nơi tại
nước ta hiện nay?
Ở tình huống trên,học sinh sẽ bộc lộ được thái độ,quan điểm trước những truyền
thống đẹp đẽ của văn hoá dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị “thương mại hoá”
Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng.
- Những người như nhân vật Xuân Tóc đỏ nhờ vào sự gian giảo mánh lới mà vươn lênhiện nay trong xã hội ta cũng không ít. Điều này làm em nghĩ thế nào về xã hội nước ta
hồi đầu thế kỉ 20 và xã hội hiện nay? Em nghĩ sao về tình trạng dựa vào “số đỏ” mà
người ta có thể tiến nhanh trên bậc thang danh vọng?
Qua vấn đề đặt ra trên đây, chúng tôi muốn học sinh phải có thái độ rõ ràng về hàng
loạt các hiện tượng tiêu cực trong xã hội các em đang sống, để có cách đẩy lùi nó.
- Những người trong gia đình cụ cố Hồng, ai cũng tìm được cho mình một niềm hạnh
phúc khi cụ cố tổ chết. Tình cảnh này gợi cho em thấy được những hạng người nào
trong xã hội ta?
- Câu chuyện gia đình cụ cố Hồng không may rơi vào hoàn cảnh của em, em sẽ có
những cách xử trí thế nào? Quan điểm của em về việc chia tài sản của ông bà cha mẹ
để lại như thế nào?
Đây là một vấn đề thuộc phạm trù đạo đức, thời đại nào cũng có, vì vậy giáo viên cần
khai thác được ở học sinh cách nhìn nhận, giải quyết có thiên hướng tích cực, hợp đạo
lý.
- Nếu là thành viên trong một gia đình bề thế, giàu có em có tán thành quan điểm phải
tổ chức một đám ma thật to để mọi người phải thán phục không?Vì sao?
Khía cạnh này lại hướng đến giáo dục tinh thần gìn giữ thuần phong mĩ tục, bài trừ
lạc hậu, suy đồi đạo đức, văn hoá.
Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
- Nếu bị rơi vào tình cảnh nghèo đói, rồi bị kẻ khác đẩy vào tù như Chí Phèo thì sau khi
ra tù trở lại cuộc sống bình thường anh(chị) có tìm đến kẻ thù để trả thù như Chí Phèo
không? Vì sao? Trả thù có phải là việc cần thiết phải làm không?
- Niềm khao khát cuộc sống gia đình của Chí Phèo khi gặp Thị Nở khiến em hiểu thêm

điều gì về con người , mặc dù đã bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng?

22


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Những nội dung đặt ra trên đây yêu cầu học sinh trình bày được cách xử sự hợp tình
hợp lý và qua đó bồi dưỡng tình yêu gia đình,yêu con người theo truyền thống dân tộc.
- Hãy thử đặt bản thân anh (chị) vào vị trí của Chí Phèo để giải quyết mâu thuẫn gay
gắt giữa Chí Phèo và Bá Kiến? Ngoài việc giết chết kẻ thù và tự kết liễu đời mình như
Chí Phèo, có còn cách giải quyết nào tốt hơn không?
- Trong xã hội ngày nay những mâu thuẫn giai cấp như Chí Phèo và Bá Kiến có còn
tồn tại không? Nếu phải đối mặt với những người bị tha hoá như Chí Phèo anh (chị )sẽ
xử lí thế nào?
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
- Nhân vật Mị là nhân vật trung tâm trong truyện, cô đã hết sức dũng cảm đắn đo và
quyết định cắt dây trói cho A Phủ. Nếu ở vào tình cảnh của Mị anh (chị) có thể thực
hiện hành động này không?Vì sao?
Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
- Nếu anh (chị) phải đối mặt với cái đói, cái chết như nhân vật Thị trong truyện, anh
(chị) có dám trơ trẽn ngồi xuống ăn chỉ với mấy câu nói đùa như nhân vật đã làm
không? Giữa cái đói, cái chết và thể diện, lòng tự trọng của bản thân anh(chị) chọn
điều gì?
- Hành động “lấy vợ” của Tràng là một hành động táo bạo, liều lĩnh, nếu bản thân
anh (chị) là Tràng, anh(chị) có thực hiện việc này không?
Ở bài Vợ nhặt (những câu hỏi như trên) sẽ giúp học sinh có được những tri thức về
phong cách sống: lòng tự trọng, thể diện là cái quan trọng của con người
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
- Nếu là một vị Chánh án có quyền trong tay, anh (chị) sẽ xử lí nhân vật lão đàn ông

đánh vợ như thế nào? Vì sao anh (chị) đề nghị cách xử lí như vậy?
- Phải đối mặt với cuộc sống đói khổ cùng với vợ và những đứa con nheo nhóc như lão
đàn ông hàng chài, anh (chị) có cách giải quyết nào tốt nhất để tình trạng bạo lực gia
đình không xảy ra?
- Hàng ngày phải chứng kiến cảnh người cha đánh đập hành hạ mẹ như nhân vật Phác
trong truyện. Nếu là em, em sẽ xử lí thế nào? Em thấy tình trạng bạo lực gia đình có
ảnh hưởng như thế nào đối với bản thân mình?
…..vv…vv…….
Những tình huống trong truyện của Nguyễn Minh Châu sẽ giúp học sinh có
được cách xử lí các vấn đề gặp trong cuộc sống gia đình một cách hài hoà khôn khéo
nhất.
Nhìn chung trong biện pháp này giáo viên càng suy nghĩ trăn trở nhiều để soạn
được những câu hỏi có sự tích hợp cao thì hiệu quả càng tốt. Những ví dụ trên đây cũng
đã có thể giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, xử lí các tình huống cuộc sống ở
nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau cho học sinh
VIII. KẾT HỢP BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM TRUYỆN
BĐTD là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung tâm. Ý
tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho
các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến dần từ trung tâm
ra xung quanh, BĐTD khiến tư duy con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó, các
ý tưởng của con người sẽ phát triển. Hiểu một cách khác, BĐTD là trình bày một cách
tóm tắt ngắn gọn nhất, khoa học nhất bằng các biểu tượng (các mô hình, các hình ảnh,
các nhánh..) trên một mặt phẳng thể hiện sự liên quan giữa các đơn vị kiến thức và trật
tự logic giữa chúng.

23


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12


Vận dụng BĐTD trong tiếp cận truyện ngắn nghĩa là chúng ta phải chuyển hoá
những thông tin liên quan trong bài học lên các mô hình, các hình ảnh, các nhánh của
bản đồ.
Công việc chuẩn bị
- Giáo viên: Để vận dụng BĐTD vào bài học, giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài
học, chuyển hoá được các ý chính mang tính trọng tâm lên một bản đồ sao cho logic
khoa học. Nếu giáo viên không sử dụng máy chiếu phục vụ cho tiết dạy thì sử dụng
bảng phụ và vẽ các BĐTD lên bảng phụ đó. Nếu giáo viên sử dụng máy chiếu phục vụ
cho tiết dạy thì bài học sẽ tiến hành thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều. Trên BĐTD
được trình chiếu, những thông tin chính không thể hiện đầy đủ mà để trống, hoặc phát
bảng phụ cho học sinh và yêu cầu học sinh tự hình dung rồi liên kết các tri thức để vẽ
bản đồ.
- Học sinh: Nghiên cứu sách giáo khoa. Soạn kĩ các câu hỏi hướng dẫn học bài
vào vở bài tập. Suy nghĩ, thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi của giáo viên.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh cảm nhận truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
I. TIỂU DẪN
Sau khi đặt câu hỏi để học sinh nắm được hai đơn vị kiến thức trong phần tiểu dẫn
(tác giả và tác phẩm), giáo viên trình chiếu chân dung nhà văn Kim Lân và hình ảnh tác
phẩm Vợ nhặt (qua BĐTD có các nhánh trung tâm), yêu cầu học sinh theo dõi sách giáo
khoa và chuẩn bị trả lời bằng cách hoàn thiện nội dung bản đồ

Giáo viên diễn giải nội dung trên BĐTD để học sinh nắm được kiến thức phần Tiểu
dẫn
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Đọc - hiểu khái quát
a. Tóm tắt
GV yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tóm tắt văn bản (phần này yêu cầu học sinh làm việc
theo nhóm trong thời gian 5phút, ghi nội dung lên bảng phụ). Giáo viên yêu cầu nhóm 1
cử đại diện trình bày bằng cách treo lên bảng và thuyết trình. Các nhóm 2, 3, 4 nhận


24


Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

xét, bổ sung (có thể tóm tắt theo hướng khác) sau đó giáo viên kết luận, trình chiếu bản
đồ để học sinh tham khảo:

2. Đọc - hiểu chi tiết
a. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”
Giáo viên đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh thảo luận phát, biểu theo cách hiểu của
mình. Giáo viên nhận xét và đi đến kết luận:

25


×