Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

kinh nghiệm rèn kỹ năng làm văn nghị luận văn học cho học sinh lớp 12 trung tâm GDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.93 KB, 19 trang )

Phần một: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, làm văn nghị luận luôn là phần
khó bởi đặc trưng là yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức tổng hợp để tạo văn bản
nghị luận. Đặc biệt là dạng bài: Nghị luận văn học. Hơn nữa đối tượng học sinh của
Trung tâm Giáo dục thường xuyên, chất lượng đầu vào thấp, kĩ năng tạo lập văn bản
hạn chế, thậm chí không có khả năng viết được một văn bản hoàn chỉnh, bố cục hợp
lí, cấu trúc rõ ràng. Tóm lại, phần đa học sinh không biết viết bài văn nghị luận nói
chung và bài văn nghị luận văn học nói riêng. Học sinh hiểu biết và cảm nhận tác
phẩm văn học đã là khó, nhưng để vận dụng kiến thức văn học vào viết một bài văn
nghị luận văn học lại càng khó hơn. Bởi kĩ năng cảm thụ và phân tích tác phẩm văn
học của các em rất hạn chế.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học ở học
sinh Trung tâm GDTX là việc làm thường xuyên, nếu giáo viên có ý thức rèn luyện
ở mỗi tiết dạy, bài dạy thì sẽ có tính hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục .
Bắt đầu từ năm học 2008 – 2009, việc dạy học đối với trung học phổ thông,
trung tâm GDTX trên cả nước được thống nhất thực hiện theo chương trình chuẩn,
sách giáo khoa mới thì phần làm văn càng được quan tâm. Trong khung cấu trúc đề
thi môn Ngữ văn tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông và tuyển sinh vào Đại học,
Cao đẳng đều có câu hỏi yêu cầu vận dụng kiến thức về văn bản văn học để viết bài
văn nghị luận văn học với mức 5/10 điểm. Vì vậy học sinh cần chuẩn bị cả về kiến
thức và kĩ năng để có thể làm tốt câu hỏi này trong hai kì thi quan trọng sắp tới.
Để giúp học sinh ở trung tâm GDTX làm tốt dạng bài nghị luận văn học
là một vấn đề đặt ra cho giáo viên dạy Ngữ văn nói chung và dạy Ngữ văn lớp
12 nói riêng. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn của Trung tâm ,tôi
luôn trăn trở : làm thế nào để giúp các em có thể chủ động tiếp cận, tổng hợp
kiến thức để làm tốt bài văn nghị luận về vấn đề văn học rồi tiến hành tìm tòi,
sáng tạo, kiên nhẫn thực nghiệm và có kết quả, tôi đã thực nghiệm đề tài: “Một
vài kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học cho học sinh lớp 12
trung tâm giáo dục thường xuyên ”.
II. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:


Trong phạm vi đề tài này tôi không có tham vọng đưa ra một phương
pháp tối ưu để giúp học sinh viết văn nghị luận văn học thật hay, mà chỉ đưa ra
một vài kinh nghiệm của bản thân đã làm để giúp đối tượng học sinh lớp 12
trung tâm GDTX có kĩ năng trong việc xác định đề, tìm ý, tạo lập dàn ý, dựa vào
dàn ý để viết từng phần bài văn cho đúng với yêu cầu nội dung và hình thức của
một bài văn nghị luận văn học.
1
III. ĐỐI TƯỢNG THỰC NGHIỆM:
Đề tài chỉ thực nghiệm trên 4 lớp:
12A1, 12 A2, 12A 3,12A4 năm học 2012 - 2013
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1- Kĩ năng làm văn nghị luận văn học, gồm: Kĩ năng phân tích đề; kĩ năng lập
dàn ý; kĩ năng viết đoạn văn, bài văn.
2- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc rèn kĩ năng làm văn Nghị luận văn học
đối với hai kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một tác
phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
Phần hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được thể hiện
trong Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X
về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: “xây dựng một nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt
Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và
trên thế giới”. Văn bản đồng thời yêu cầu: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông phải quán triệt về mục tiêu, yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục của các
bậc học, cấp học quy định trong giáo dục, khắc phục những mặt hạn chế của chương
trình, sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học,
coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, bổ sung những thành tựu khoa học

và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh ”.
Cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là đổi mới sách
giáo khoa phổ thông phù hợp với mục tiêu giáo dục quy định trong luật giáo
dục. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 đã quan tâm đúng mức đến việc “dạy chữ” và
“dạy người”, dành thời lượng đáng kể cho làm văn Nghị luận văn học.
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi
mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định
trong Nghị quyết trung ương 4 khóa VII (Tháng 01 năm 1993), Nghị quyết trung
ương 2 khóa VIII (Tháng 12 năm 1996) được thể chế hóa trong luật giáo dục
(2005) được cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt là chỉ thị
số 14 (Tháng 4 năm 1999). Luật giáo dục, điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
2
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”.
Quán triệt thực hiện nghị quyết 37/2004/ QH11 ngày 03 tháng 12 năm
2004 của Quốc hội về giáo dục “Tiếp tục cải tiến công tác thi cử theo hướng
gọn nhẹ, hiệu quả, thiết thực”. Ngành giáo dục và đào tạo chủ trương: Nâng cao
chất lượng thi cử, kiểm tra đánh giá để đảm bảo đây là khâu quan trọng tác
động tích cực mạnh mẽ trong quá trình dạy và học, phải đồng thời vừa đổi mới
kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kì ở các bậc học, vừa đổi mới kì thi tốt
nghiệp THPT, thi tuyển sinh và Đại học, Cao đẳng Trong kiểm tra đánh giá ở
môn Ngữ văn 12 có 4/6 bài kiểm tra định kì thuộc nghị luận văn học. Trong các
kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng thuộc khối C, khối D
trong đề thi môn Ngữ văn có 5/10 điểm thuộc nghị luận văn học.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của trung tâm GDTX.
“Hoàn thành phổ cập chương trình giáo dục phổ thông . Cho học sinh có
kĩ năng tạo lập văn bản, biết nhận xét, đánh giá một vấn đề của tác phẩm văn

học từ đó nâng cao kĩ năng sống”.
2. Xuất phát từ thực trạng làm văn nghị luận văn học của học sinh
lớp 12 trung tâm GDTX.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, viết
đoạn văn của học sinh rất yếu, các em không có thói quen phân tích đề, lập dàn
ý trước khi viết bài, nên khi bắt tay tay vào viết rất lúng túng, viết không đúng
yêu cầu của đề bài và lạc đề. Thông thường học sinh lớp 12 trung tâm GDTX
khi viết bài văn nghị luận văn học thường mắc các lỗi cơ bản sau:
2.1: Học sinh không xác định được dạng bài, không xác định được
luận điểm, luận cứ của bài văn nghị luận văn học.
Học sinh viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy không cần biết có đúng yêu
cầu hay không. Có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà không hiểu được
học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì.
Ví dụ: Bài viết số 3 - Nghị luận văn học
Đề bài: Anh( chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
3
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
(Trích Việt Bắc - Tố Hữu)
Ở phần thân bài học sinh không xác định được trọng tâm luận đề, không xác

định được luận điểm, luận cứ nên viết: "Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết
trong những năm kháng chiến chống Pháp, những chiến thắng ở Điện Biên Phủ
là chiến thắng ác liệt nhất làm cho quân giặc tan tành mây khói. Quân ta đi từ
chiến thắng này sang chiến thắng khác. Đội quân ngày càng hùng mạnh. Đọc
đoạn thơ chúng ta tự hào về lòng dũng cảm của cha anh chúng ta. Bài thơ Việt
Bắc đã ca ngợi chiến thắng của quân đội ta, nhân dân ta.diễn tả niềm vui của
nhân dân ta "
(Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Mai - lớp 12A3 năm học 2012 -
2013)
2.2. Học sinh chưa biết phân tích làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận.
* Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ: Học sinh chủ yếu diễn xuôi đoạn thơ.
Ví dụ: Bài viết số 3 - Năm học 2012 - 2013.
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm,
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Học sinh viết: "Đoàn quân Tây Tiến của Quang Dũng có hình dáng kì lạ,
bị sốt rét rụng hết tóc, da xanh như tàu lá chuối nhưng vẫn sáng ngời một vẻ
đẹp như dáng dữ dằn của những con hổ trong rừng sâu khiến kẻ thù phải khiếp
sợ. Mặc dù gian khổ nhưng họ vẫn lạc quan yêu đời vẫn mơ màng gửi giấc mơ
về Hà Nội, mơ về những cô gái đẹp ở Hà Nội. Mặc dù cái chết luôn đe dọa,rình
rập, những nấm mồ vô danh nơi biên giới xa xôi cũng không làm những người
4
lính Tây Tiến chùn bước. Họ vẫn đi không tiếc tuổi xuân,vẫn coi cái chết nhẹ

như lông hồng "
(Bài viết của học sinh Nguyễn Văn Tuấn- Năm học 2012 - 2013)
* Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi: học sinh thường sa vào
kể lể tác phẩm.
Ví dụ: Bài viết số 5 - Nghị luận văn học
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài.
Học sinh viết: " Vợ chồng A Phủ kể về số phận bất hạnh của cô Mị. Mị
là một cô gái Hmông trẻ trung xinh đẹp, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra.Ở nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc rồi Mị cầm nắm
lá ngón về khóc lóc với cha định chết. Cha Mị nói "Mày về chào tao mà đi chết
à?. Không được đâu. Mày chết rồi ai trả nợ cho tao " Thế là Mị không dám
chết nữa, Mị lại quay trở về nhà Thống lí. Mấy năm sau bố Mị chết Mị cũng
không buồn chết nữa, sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa, đêm tình mùa xuân Mị cũng uống rượu, định đi chơi,
nhưng bị A Sử trói vào cột "
(Bài viết của học sinh Nguyễn Văn Hùng 12A4- Năm học 2012 - 2013)
Ngoài ra còn rất nhiều lỗi như: Lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, không biết lựa chon
dẫn chứng phù hợp với nội dung luận điểm Song yêu cầu khuôn khổ, dung
luợng bài viết không cho phép nên tôi chỉ đề cập đến một số kinh nghiệm rèn kĩ
năng viết bài văn nghị luận văn học .
Từ cơ sở lí luận và thực trạng viết bài văn nghị luận văn học của học sinh, tôi đã
vạch kế hoạch thực hiện đề tài "Một vài kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn nghị luận
văn học cho học sinh khối 12 trung tâm GDTX ".
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Giải pháp:
Để thực hiện được đề tài, yếu tố đầu tiên mà tôi quan tâm đó là đối tượng
học sinh. Học sinh ở các trung tâm GDTX phần đa là con em nông dân, đời
sống còn khó khăn, năng lực học tập còn nhiều hạn chế, đặc biệt là năng lực cảm
thụ văn học kém. Tâm lí chung của các em là lười suy nghĩ, ít hiểu biết các tác

phẩm văn học, không thích đọc các tác phẩm văn học. Mà muốn học sinh làm
tốt các bài nghị luận văn học đòi hỏi học sinh phải có kiến thức văn học. Nên
bước đầu tiên tôi hướng dẫn các em phải biết tích lũy kiến thức.
1.1 Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức:
- Kiến thức phải đảm bảo lấy trong tác phẩm văn học, kiến thức phải
chính xác, chọn lọc.
5
Nghị luận văn học là kiểu bài văn hướng tới các vấn đề đặt ra trong các
tác phẩm văn học: nội dung, nghệ thuật, hoặc các khía cạnh khác như tình
huống, diễn biến tâm lí của nhân vật Cho nên người viết phải hiểu biết kĩ về
tác phẩm văn học: từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đặc trưng thể loại đến nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm.
1.2. Nguồn hình thành kiến thức:
- Đối với các tác phẩm văn học được học trong chương trình.
Tôi hướng dẫn các em cách đọc - hiểu văn bản. Hình thành kĩ năng đọc
cho học sinh, tạo cho các em có thói quen đọc sách, hướng dẫn các em đọc theo
quy trình: Đọc chậm để hiểu thông suốt toàn văn bản → Đọc hiểu hình tượng
nghệ thuật → đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả → đọc hiểu để thưởng
thức văn học.
- Bên cạnh việc tìm đọc các tác phẩm văn học để tích lũy kiến thức, tôi khuyến
khích học sinh khi đọc phải có thói quen ghi chép.
Ví dụ: Sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, học sinh có thể ghi chép:
- Tóm tắt tác phẩm.
- Những chi tiết, hình ảnh chọn lọc.
- Những câu văn, thơ hay; những hình ảnh đẹp
- Có những nhận xét,đánh giá ban đầu về tác phẩm văn học đó.
2.Tổ chức thực hiện:
Các bước rèn kỹ năng làm văn nghị luận văn học:
Bước 1: Rèn kỹ năng tìm hiểu đề:
Đây là thao tác được thực hiện đầu tiên khi làm bài văn nghị luận. Để thực

hiện tốt được thao tác này học sinh cần đọc kỹ đề, tìm và gạch chân các cụm từ quan
trọng (cụm từ chứa thông tin căn bản của vấn đề: vấn đề cần nghị luận, thao tác nghị
luận, ). Học sinh phải xác định đầy đủ, chính xác các yêu cầu sau :
- Yêu cầu về hình thức: Thuộc kiểu bài nào? Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; hay nghị luận về một ý kiến bàn về văn học ?
- Yêu cầu về nội dung: Vấn đề cần nghị luận là gì?
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ những tác phẩm
văn học nào?
Ví dụ:
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài.
Với đề bài này hướng dẫn học sinh thực hiện các bước xác định đề như sau :
- Kiểu bài nghị luận : Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn xuôi
+ ( Phân tích nhân vật)
6
- Xác định trọng tâm bài viết :
+ Hình tượng nhân vật Mị .
- Phạm vi dẫn chứng : Tác phẩm Vợ chồng A Phủ( phần 1 Mị và A Phủ khi ở
Hồng Ngài)
- Xác định các thao tác chính cho bài viết : Phân tích kết hợp lập luận, chứng
minh bình luận…
Bước 2: Rèn kĩ năng lập dàn ý
Lập dàn ý là một khâu quan trọng. Dàn ý giúp người viết không bỏ sót
những ý cơ bản, trọng tâm, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết. Lập
dàn ý tốt, có thể sẽ viết dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn.
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý từng kiểu bài, tôi đưa ra mô hình
tổng quát của một bài văn nghị luận cho học sinh tham khảo:
Mô hình tổng quát một bài văn nghị luận:
Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề):
Dẫn dắt từ vấn đề rộng hơn thu hẹp

dần đến việc giới thiệu luận đề.
Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn đề):
Bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn
văn là một luận điểm. Các luận điểm
đều tập trung làm nổi bật luận đề ở
phần mở bài.
Kết bài (còn gọi là kết thúc vấn đề):
Tổng hợp lại từ các luận điểm đã
trình bày, đánh giá và gợi mở.
Thân bài
Từ mô hình tổng quát đó, tôi hướng dẫn các em lập dàn ý của từng kiểu bài.
Để lập được dàn ý tôi yêu cầu học sinh:
- Nắm vững cách làm bài của từng kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
- Xác định được các luận điểm, luận cứ. Sắp xếp các luận điểm, luận cứ
theo một trật tự lôgic, chặt chẽ.
a. Kiểu bài: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả
- Giới thiệu bài thơ, đoạn thơ (Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ)
- Trích dẫn đoạn thơ.
7
Mở bài
Luận điểm 1
Luận điểm 2
Luận điểm 3
Kết bài
Thân bài:
Luận điểm 1: Cảm nhận chung về bài thơ, đoạn thơ
- Cấu tứ

- Thể thơ
- Giọng điệu.
Luận điểm 2: Phân tích những nét chính về nội dung, nghệ thuật trong
đoạn thơ, bài thơ.
- Nghệ thuật chú trọng:
+ Thể thơ
+ Nhịp thơ, vần => Giọng điệu.
+ Các biện pháp tu từ - hiệu quả thẩm mĩ của các phép tu từ đó.
+ Hình ảnh thơ.
- Nội dung:
+ Triển khai các luận điểm theo yêu cầu của đề bài.
+ Có thể phân tích theo bố cục của văn bản (từng khổ thơ)
Luận điểm 3: Đánh giá chung về đoạn thơ. Về nội dung, nghệ thuật, so
sánh với các tác phẩm cùng đề tài, cùng tác giả.
Kết bài:
- Khái quát chung về bài thơ, đoạn thơ.
- Đóng góp của tác giả cho văn học dân tộc.
Ví dụ: Với đề bài:
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Mở bài :

Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và chương Đất nước (trích
trường ca Mặt đường khát vọng).
- Khái quát nội dung, nghệ thuật và vị trí của đoạn trích ở đề bài.
Thân bài :
8
- Luận điểm 1 :Hình tượng đất nước được thể hiện qua đoạn thơ:
* Nguồn gốc và sự hình thành của đất nước
Đất nước có từ rất xa xưa và là một giá trị bền vững, vĩnh hằng, được tạo dựng,
bồi đắp qua nhiều thế hệ và truyền nối từ đời này sang đời khác (Khi ta lớn lên
Đất Nước đã có rồi, Đất Nước có … ngày xửa, ngày xưa….).
Luận điểm 2 : Sự cảm nhận của nhà thơ về Đất Nước
- Đất nước được cảm nhận rất cụ thể, bình dị, gần gũi, thân thiết với cuộc sống
hằng ngày của mỗi người (câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, ngôi nhà
mình ở, tình nghĩa vợ chồng hạt lúa ta trồng…).
- Đất nước gắn liền với nền văn hóa lâu đời của dân tộc:
+ Gắn với những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”.
+ Gắn với truyền thống văn hóa, phong tục (miếng trầu, tóc bới sau đầu)
của người Việt.
- Đất nước lớn lên trong đau thương vất vả :
+ Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm (dân mình biết trồng tre mà
đánh giặc).
+ Gian nan vất vả trong lao động để tồn tại và phát triển (một nắng hai sương).
- Đất nước gắn với những con người sống ân tình, thủy chung trong tình nghĩa
vợ chồng (thương nhau bằng gừng cay muối mặn).
- Luận điểm 3 : Nhận xét, đánh giá chung về nghệ thuật biểu hiện
+ Đất nước: hiện lên vừa thiêng liêng vừa thân thương gần gũi. Cách cảm nhận
độc đáo, mới mẻ dưới chiều sâu văn hóa và giàu giá trị nhân văn.
+ Ngôn ngữ bình dị, dân dã nhưng giàu sức gợi.
+ Giọng thơ tâm tình thiết tha, suy tư trầm lắng.
+ Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.

Kết luận :
- Sử dụng phong phú các chất liệu văn hóa dân gian.
=>Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về Đất
nước trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân, sử
dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo
b. Kiểu bài: Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
Kiểu bài này có nhiều dạng khác nhau, chủ yếu là phân tích khía cạnh của
tác phẩm văn xuôi như: Phân tích nhân vật, phân tích giá trị nhân đạo, phân tích
tình huống,
Tôi tập trung hướng dẫn và rèn kĩ năng cho học sinh cách làm các dạng
bài thường gặp đối với đối tượng học sinh trung tâm giáo dục thường xuyên như
sau:
9
Dạng bài: Phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu nhân vật cần nghị luận.
Thân bài:
Luận điểm 1: Lai lịch, ngoại hình của nhân vật:
- Lai lịch: Tên tuổi, quê quán, làm nghề gì?
- Ngoại hình: Được miêu tả như thế nào?
Luận điểm 2: Tính cách.
Luận điểm 3: Số phận (Chú ý sự thay đổi số phận)
Luận điểm 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Kết bài:
- Thông qua việc xây dựng nhân vật, nhà văn muốn nói lên điều gì.
- Tác phẩm có đóng góp gì cho nền văn học nước nhà.
Lưu ý: Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học cũng có lai lịch, ngoại
hình nên khi phân tích học sinh phải linh hoạt.
Ví dụ :

Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng
Aphủ của Tô Hoài
Mở bài :
- Giới thiệu về Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng Aphủ.
- Vị trí, giá trị , ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị trong
tác phẩm
Thân bài:
Luận điểm1. Mị - Con người tốt đẹp bị đày đọa:
a. Mị có phẩm chất tốt đẹp:
- Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời. Cô không những
chăm chỉ làm ăn mà còn yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình.
- Phẩm chất tốt đẹp nhất của Mị là giàu lòng vị tha, đức hy sinh: Mị thà chết còn
hơn sống khổ nhục, nhưng rồi Mị chấp nhận sống khổ nhục còn hơn là bất hiếu,
còn hơn thấy cha mình già yếu vẫn phải chịu bao nhục nhã, khổ đau.
b. Mị bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần:
- Danh nghĩa là con dâu thống lý, vợ của con quan nhưng Mị lại bị đối xử như
một nô lệ.
- Mị ở nhà chồng mà như ở địa ngục với công việc triền miên. Mị sống khổ nhục
hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù
nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm.
10
- Trong cuộc sống tù hãm, Mị vô cùng buồn tủi, uất ức. Cơ muốn sống cũng
chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong, dường như Mị bắt
đầu chấp nhận thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như "con rùa nuôi trong
xó cửa".
Luận điểm2. Sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ:
a. Tâm trạng, hành động của Mị trong ngày hội xuân ở Hồng Ngài:
- Bên trong hình ảnh "con rùa nuôi trong xó cửa" vẫn đang còn một con
người khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn
được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm

hồn Mị. Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ về thời con gái, Mị
sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. Trong khi đó tiếng sáo (biểu
tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi
sâu vào tâm tư Mị.
- Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn
bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại; tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và
hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi.
b. Tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra:
- Mới đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng đêm ấy, Mị thấy
dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ của mình trong đêm mùa
xuân năm trước, Mị đồng cảm, thương xót cho A Phủ. -
- Phân tích nét tâm lý: Mị thấy cái chết sắp tới với A Phủ là oan ức, phi lý; Mị
không sợ hình phạt của Pá Tra; ý thức căm thù và lòng nhân ái giúp Mị thắng
nỗi sợ hãi, biến Mị thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây trói
cứu A Phủ.
- Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng.
Nhưng rồi khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ,
đến với tự do.
Luận điểm 3:
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật: cách giới thiệu, khắc hoạ tính cách,
diễn tả nội tâm nhân vật một cách tinh tế…
Kết luận:
- Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn đã gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến miền núi cổ
hủ, lạc hậu và tàn ác.
- Ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng và con đường đi đến với cách mạng của người
dân miền núi Tây Bắc
- Tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
11
Bước 3: Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn:
- Dựa vào khung dàn ý bài văn luyện viết từng luận điểm. Hoặc cho học

sinh lựa chọn luận điểm thích hợp để viết.
- Hướng dẫn học sinh viết theo tiến trình:
+ Thứ nhất: chuyển luận điểm thành câu chủ đề.
+ Thứ hai: Trên cơ sở phân tích các khía cạnh của luận điểm, viết các câu
triển khai.
+ Thứ ba: Viết câu có tính chất kết đoạn.
- Yêu cầu học sinh về nhà viết nốt các luận điểm còn lại, hình thành bài văn.
Lưu ý học sinh cách liên kết các luận điểm (đoạn văn) sao cho linh hoạt và phù hợp.
- Giáo viên thu một số bài để chấm, nhận xét, sửa.
Để cụ thể hóa các bước rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học, tôi thiết kế
một giáo án dạy thực nghiệm tiết tự chọn:
Giáo án thực nghiệm (Tự chọn tiết 18)
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI.
A- MỤC ĐÍCH ,YÊU CẦU :
1. Kiến thức:
- Nắm vững cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
- Thấy được đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành trong việc
xây dưng nhân vật.
2. Kĩ năng:
- Rèn kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn văn cho học sinh lớp 12.
3 Thái độ:
- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học, tình yêu đối với tác phẩm văn học Việt .
B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
- SGK, SGV, thiết kế bài dạy. Máy chiếu, một số đoạn văn mẫu.
C. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
- Phương pháp tích hợp, từ ôn tập lí thuyết vân dụng làm bài tập thực hành
D- TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :
1. Ổn định
2. Kiểm tra: Việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:

Hoạt động của
thầy
HĐ của
trò
Nội dung cần đạt
* Hoạt động 1:
- GV chép đề lên
bảng
Chép đề
vào vở
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích nhân
vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu
của Nguyễn Trung Thành.
12
* Hoạt động 2: GV
hướng dẫn các em
tìm hiểu nội dung
từng phần qua hệ
thống câu hỏi.
Hỏi: Tìm hiểu đề
gồm mấy bước? Đó
là những bước nào?
Hỏi: Mở bài cần
nêu những ý chính
nào?
Hỏi: Thân bài có
mấy luận điểm?
Hỏi: Luận điểm 1?
Đọc kỹ đề
- Suy nghĩ

và trả lời
- Suy nghĩ
Thảo luận
nhóm
-Trả lời
- Suy nghĩ
- Trả lời
-Suy nghĩ
-Trả lời
I. Tìm hiểu đề: (3 phút)
1 Kiểu bài : Nghị luận về một nhân vật
trong tác phẩm văn xuôi:
2. Xác định yêu cầu về nội dung:
Hình tượng nhân vật Tnú.
3. Xác định phạm vi tư liệu cần sử dụng:
- Tác phẩm Rừng xà nu
4. Thao tác nghị luận: thao tác phân tích
kết hợp với một số thao tác như chứng
minh, bình luận…
II. Lập dàn ý: (15 phút)
Mở bài:
- Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Trung
Thành và tác phẩm Rừng xà nu
- Vai trò, vị trí và ý nghĩa của nhân vật
Tnú trong tác phẩm.
*Thân bài: có 3 luận điểm
- Luận điểm1. Tnú – Người chiến sĩ kiên
cường
a, Khi còn nhỏ :
- Mặc cho giặc khủng bố ác liệt( anh

Xút,bà Nhan bị giặc giết) Tnú vẫn hăng hái
vào rừng nuôi cán bộ.
- Tnú có một niềm tin tuyệt đối vào cách
mạng .Anh luôn tâm niệm câu nói của cụ
Mết « Đảng còn ,núi nước này còn »
- Khi làm liên lạc, vì sự an toàn của cán
bộ, Tnú bèn chọn phương án khó khăn,
gian khổ nhất( không đi theo đường
mòn )
-Khi bị bắt, T nú kiên quyết không khai, bị
giặc tra khảo, cậu bình tĩnh lấy tay chỉ vào
bụng mình « Cộng sản ở đây »
b.Khi trưởng thành :
- Bị trói chờ hành hình, giữa thời khắc
13
Hỏi: Em hãy nêu
nội dung luận điểm
hai và tìm những
luận cứ, luận chứng
tiêu biểu
Hỏi: Nội dung luận
điểm 3 là gì?
Suy nghĩ
- Trả lời
ngắn ngủi của sự sống và cái chết, Tnú
bình thản lạ thường, anh vẫn giành cho
cách mạng « Ai sẽ làm cán bộ »
-Tư thế bất khuất của Tnú trước sự tàn ác
của kẻ thù , mười ngón tay anh biến thành
mười ngọn đuốc thế nhưng « Những người

cộng sản không thèm kêu van »
-Với hai bàn tay tàn nhưng không phế ấy,
T nú tham gia quân giải phóng và trực tiếp
bóp chết kẻ thù bằng bàn tay đầy sức mạnh
căm thù.
Luận điểm 2. Tnú là một người giàu
lòng yêu thương và có tính kỷ luật cao
a.Yêu bản làng, yêu quê hương đất nước :
- Ngày về phép, nghe tiếng chày giã gạo ,
lòng anh xao xuyến, bồi hồi « Cố giữ bình
tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi »
- Dù đã tắm ở suối rồi, nhưng khi cụ Mết
dẫn ra máng nước đầu làng, T nú vẫn xúc
động để cho vòi nước của làng dội lên
khắp người như ngày trước. Cử chỉ ấy là
sự gắn bó thắm thiết ,gần gủi.
b. Yêu thương vợ con :
- Khi thấy vợ con bị tra tấn, T nú không
kìm được căm giận, Hai con mắt là hai cục
lửa lớn, một tiếng thét dữ dội, anh đã nhảy
bổ vào bọn lính.
C.Tính kỷ luật cao :
- Mặc dù rất nhớ quê hương nhưng phải
được cấp trên cho phép về anh mới về và
chỉ về đúng một đêm như quy định trong
giấy phép.
Luận điểm 3 : Nghệ thuật xây dựng
nhân vật.
- Với ngòi bút xây dựng nhân vật độc đáo
(Đậm đà màu sắc dân tộc,cách nghĩ, nói

14
Hỏi: Trình bày nội
dung của phần kết
luận?
* Hoạt động 3:
GV cho học sinh
viết đoạn văn cụ
thể.
- Giáo viên đọc cho
học sinh nghe bài
văn tham khảo và
chỉ cho học sinh
từng luận điểm,
luận cứ, luận chứng,
cách triển khai.
- Giáo viên gọi 1 - 2
học sinh trình bày
đoạn văn của mình.
Hỏi: Hãy nhận xét
bài viết của bạn?
- Giáo viên: Nhận
xét và sửa bài cho
học sinh.
- Luyện nói: trình
bày trước lớp bài
viết
Suy nghĩ
và trả lời
,hành động ) Nguyễn Trung Thành đã
khắc họa thành công nhân vật Tnú.

-Đó cũng chính là tài năng với sự say
mê,cảm hứng về Tây Nguyên của tác giả.
*Kết luận:
- T nú là hiện thân của thế hệ trẻ Tây Nguyên
trong cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước : Bất
khuất kiên cường.
III. Luyện viết đoạn văn ngắn (10 phút)
Nhóm 1: Hãy viết đoạn văn mở bài.
Nhóm 2:Hãy chọn một ý trong luận điểm1.
Nhóm3: Hãy chọn một ý trong luận điểm2
Nhóm4:Viết đoạn văn phần kết luận.
IV. Đọc bài văn tham khảo (5 p)
V. Luyện nói (7 phút)
4. Hướng dẫn học bài:(3 phút)
- Nắm vững cách làm bài Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi.
- Dựa vào dàn ý đã lập, viết bài văn hoàn chỉnh.
15
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM:
Qua việc áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận văn học cho
học sinh. Tôi nhận thấy, học sinh đã có tiến bộ, biết cách làm bài văn nghị luận văn học.
kết quả các bài văn viết tự luận có chất lượng cao hơn.
Sau đây là bảng thống kê điểm nghị luận văn học trong bài viết 90 phút,
kiểm tra học kì .
So sánh 2 nhóm lớp:(Năm học 2012 – 2013)
Nhóm 1:12A1, 12A3- là những lớp được thực nghiệm đề tài.
Nhóm 2:12A2, 12A4- là những lớp không được thực nghiệm đề tài.
Thì kết quả các bài viết như sau:
1. Bài viết số 3- nghị luận văn học.
2. Bài viết số 5- nghị luận văn học.
3. Bài kiểm tra học kì II- nghị luận văn học.


Thực tế cho thấy: những lớp thực nghiệm đhọc sinh có kĩ năng làm văn
nghị luận văn học sẽ góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn.
Lớp
Tổng
số
Điểm
0 - 0,5 1,0- 1,5 2,0-2,5 3,0-3,5 4,0-4,5 5,0
12A1 51 0 0 26=50,98% 19=37,2% 6=11,76% 0
12A3 51 0 2=3,92% 22=43,14% 17=33,3% 10=19,6% 0
12A2 41 6=14,63% 10=19,6% 18=43,9% 5=12,2% 2=4,9% 0
12A4 51 10= 19,6% 11=21,6% 20=39,2% 7=13,7% 3=5,9% 0
Lớp
Tổng
số
Điểm
0 - 0,5 1,0- 1,5 2,0-2,5 3,0-3,5 4,0-4,5 5,0
12A1 51 0 0 19=37,2% 26=50,98% 6=11,76% 0
12A3 51 0 2=3,92% 17=33,3% 22=43,14% 10=19,6% 0
12A2 41 4=9,8% 10=19,6% 18=43,9% 5=12,2% 4=9,8% 0
12A4 51 8= 15,7% 11=21,6% 20=39,2% 7=13,7% 5=9,8% 0
Lớp
Tổng
số
Điểm
0 - 0,5 1,0- 1,5 2,0-2,5 3,0-3,5 4,0-4,5 5,0
12A1 51 0 0 20=39,2% 19=37,2% 12=23,5% 0
12A3 51 0 0 22=43,14% 18=35,3% 13=25,5% 0
12A2 41 1=2,4% 10=19,6% 18=43,9% 5=12,2% 7=17,1% 0
12A4 51 2= 3,9% 11=21,6% 23=45,1% 7=13,7% 8=15,7% 0

16
Ngoài ra còn có thể kiểm định qua kết quả thi học sinh giỏi:
- Trong kì thi học sinh Giỏi của trung tâm hai lớp được thực nghiệm đề tài có số
lượng học sinh đạt giải nhiều và cao hơn:
+Lớp 12A1:1giải ba, 1giải kk.
+Lớp 12A3: 1giải ba, 2giải kk.
+Lớp 12A2:1giải kk.
+Lớp 12A4: không có giải
- Trong kì thi hoc sinh giỏi cấp Tỉnh, có hai em của lớp 12A1 và 12A3
đạt giải kk.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tế giảng dạy tôi rút ra một số kinh nghiệm về rèn kĩ năng làm văn
nghị luận văn học cho học sinh:
- Giáo viên cần rèn cho học sinh thói quen: Phân tích đề, lập dàn ý trước khi viết bài.
- Trong giờ dạy học Ngữ văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tích luỹ
kiến thức, học cách tạo lập văn bản.
Phần ba: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh là rèn khả năng tư duy logic,
tư duy khoa học, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học, sự nhạy cảm trước
những vấn đề của đời sống xã hội. Công việc đó không chỉ làm trong ngày một,
ngày hai mà phải là một quá trình lâu dài đòi hỏi sự kiên trì và rất nhiều tâm
huyết của giáo viên.Trên đây chỉ là “Một vài kinh nghiệm rèn kỹ năng làm văn
nghị luận văn học cho học sinh lớp 12 trung tâm GDTX”, để qua đó giúp các
em có thêm kiến thức, niềm tin để đối mặt với hai kì thi quan trọng. Tuy nhiên
cũng phải thấy rằng để khơi gợi hứng thú đối với phần làm văn nghị luận văn học,
ngoài lí thuyết gọn nhẹ, dễ hiểu, các kỹ năng được chia nhỏ để học sinh rèn luyện
từng phần một cách thuần thục thì một việc không kém phần quan trọng là giáo
viên cần tìm những đề bài hay đảm bảo tính vừa sức, nhưng vẫn kích thích sự sáng
tạo, tạo cơ hội cho học sinh được phát biểu những suy nghĩ riêng, được nói bằng
tiếng nói của riêng mình. Có thế thì việc học văn, làm văn nghị luận văn học trong

các trung tâm giáo dục thường xuyên mới có kết quả.
Tôi tin tưởng rằng với nhiệt tình, tâm huyết của giáo viên và sự cố gắng,
khả năng sáng tạo của học sinh thì chất lượng môn Ngữ văn sẽ ngày càng nâng
lên. Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy.
Tôi hy vọng sẽ giúp học sinh say mê và hứng thú học văn hơn.
Kính mong sự góp ý chân thành của các đồng chí, đồng nghiệp.
17
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh Hoá,ngày 25 tháng 4 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Đỗ Thị Thuý

MỤC LỤC
Trang
18
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
I. Lý do chọn đề tài. 1
II. Nhiệm vụ của đề tài 1
III. Đối tượng thực nghiệm 2
IV. Phạm vi nghiên cứu 2
Phần 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Cơ sở lí luận của đề tài 2
II. Thực trạng của vấn đề 3
1. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của TTGDTX 3
2. Xuất phát từ thực trạng làm văn nghị luận văn học của
HS lớp 12 TTGDTX 3
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện 5
1. Giải pháp 5

2. Tổ chức thực hiện 6
IV. Kết quả thực nghiệm 16
V. Bài học kinh nghiệm 17
Phần III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ 17
19

×