Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.71 KB, 7 trang )

Phân   tích   tác   phẩm   Chiếc   thuyền   ngoài   xa   của   Nguyễn   Minh
Châu
 Bài làm 
Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết vãn từ năm 1954, nhưng chỉ thực
sự  khẳng  định được tài năng của mình kể  từ  tiểu thuyết Cửa
sông  (1967)  và  Dấu chân  người   lính (1972).  Tác phẩm  chính:
Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập
truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Lửa
từ  những ngôi nhà, Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Những người
di từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành (tập truyện, 1983), Bến quê (tập truyện ngắn, 1985),
Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), cỏ lau (tập truyện, 1989)...
Ngoài truyện ngắn, tiếu thuyết. Nguyễn Minh Châu còn viết lí luận
phê bình, phần lớn các bài viết được tập hợp trong cuốn “Trang
giấy trước đèn” (1994). Nguyễn Minh Châu ­ cây bút văn xuôi
hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, có nhiều đóng góp
xuất sắc cho văn học thời kì kháng chiến chông Mĩ. Ông “kế  tục
xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam” đồng thời
“mở đường rực rờ cho những cây bút trẻ sau này” (Nguyễn Khải).
Nguyễn Minh Châu đã được Giải thưởng Bộ  Quốc phòng năm
1984 ­ 1989 cho toàn bộ tác phẩm của ông viết về chiến tranh và


người lính; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988­1989) cho
tập truyện vừa cỏ lau. Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải
thưởng Hồ  Chí Minh về  văn học nghệ  thuật. Truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được
Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện
ngắn (in năm 1987). Chiến thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng
tác thứ  hai, tiêu biểu cho cảm hứng thế  sự, cảm hứng triết luận
về nhừng giá trị nhân bản đời thường của Nguyễn Minh Châu. 1.


Truyện  được tố  chức xung quanh một “tình huống nhận thức”
nhưng điều mà Phùng và Đẩu nhận ra không hoàn toàn giống
nhau. Trong loại hình tự  sự, tình huống truyện gắn chặt với diền
biễn của cốt truyện. Tình huống truyện có vai trò đặc biệt quan
trọng đôi với việc thể  hiện tính cách, tâm lí, số  phận nhân vật.
Tinh huông truyện làm nổi hình, nổi sắc nhân vật và những vấn
đề  tư  tưởng của tác phẩm. Tài năng của nhà văn bộc lộ  trong
việc   chọn   và   xử   lí   tình   huống.   Truyện   Chiếc   thuyền   ngoài   xa
được   tổ   chức   xung   quanh   “tình   huống   nhận   thức”.   Nếu   tình
huống   nhận   thức   lại   chú   trọng   cắt   nghĩa   giây   phút   con   người
bừng tỉnh thấu suốt chân lí. Ớ truyện này, điều mà Phùng và Đẩu
nhận ra không hoàn toàn giông nhau. Phùng được giao nhiệm vụ
đi thực tế chụp bố sung một bức  ảnh cảnh biển đẹp đẽ  để  có thể
xuất bản một bộ  lịch nghệ  thuật. Nơi anh tới có phong cảnh thơ


mộng. Chính sự  kiên nhẫn, công phu của Phùng đã khiến anh
chớp được cảnh trời cho toàn bộ khung cảnh vùng đầm phá miền
Trung “từ  đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng thỏa mãn với hình  ảnh
chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong bầu sương mù trắng một
màu sửa và pha đôi chút màu hồng hồng. Phùng “tưởng chính
mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn”. Nhưng rồi khi
chiếc   thuyền   đâm   thẳng   và   trước   chỗ   anh   đứng   thì   một   cảnh
khắc nghiệt, lam lũ lấm lem của đời thường lộ rõ. Phùng nhận ra
có một mâu thuẫn, nghịch lí đang tồn tại: giữa cái đẹp vẫn có
cảnh sông tăm tối, cực nhọc. Chiếc thuyền trước mặt Phùng giờ
đây được thay thế  băng hình  ảnh người đàn bà cam chịu đầy
nhẫn nhục và người đàn ông hùng hổ, thô bạo. Phùng được sống

trong nhiều cảm xúc mạnh, từ  ngỡ  ngàng, ngơ  ngác đến cảm
thông, rồi thấm thìa. Niềm tin của Phùng lung lay. Anh bắt đầu
ngộ  ra mối quan hệ  giữa nghệ  thuật và cuộc sống. Đẩu ­ người
bạn chiến đấu năm xưa cùng Phùng, nay là chánh án của một
toà án cấp huyện. Người đàn bà được mời đến toả  án đế  giải
quyết bi kịch gia đình. Đẩu kêu gọi hoà thuận và khuyên người
đàn bà tội nghiệp li hôn để  thoát khỏi những trận đòn nặng nhẹ
của gã vũ phu kia. Đẩu nói với vẻ  hào hứng của một người bảo


vệ  công lí. Anh tin thiện chí của mình sẽ  thay đổi chiều hướng
con đường đời của người phụ nừ làng chài khốn khổ. Nhưng anh
nhầm. Anh chưa bao giờ  thấu hết “nồi vất vả của người đàn bà
trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Kiến thức sách vở cùng
lòng tốt của Đẩu trở  nên vô nghĩa lí trước cảnh huống nhân sinh
đầy chua chát. Chỉ đến lúc này Đẩu mới hiểu người phụ nữ ấy dù
bị  đánh đập tàn bạo đến bao nhiêu đi nữa thì chị  ta cũng buộc
phải chấp nhận vì các con. Lí lẽ  thực tế  của người đàn bà làng
chài đã xô đổ  mớ  lí thuyết đẹp đẽ  củà Đẩu. Vị  chánh án huyện
vùng biển vỡ  ra nghịch lí của cuộc sông. 2. Có  nhiều nguyên
nhân dẫn tới tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài. Nguyên
nhân sâu xa là cảnh sống nghèo khổ, tăm tôi triền miên. Nguyên
nhân sâu trực tiếp là thói vũ phu của người đàn ông. Tình trạng
bạo lực trong gia đình cậu bé Phác đem lại nỗi đau khổ  nặng nề
cho người phụ  nữ  và làm tổn thương tâm hồn của đứa trẻ  con
vụng dại. Người phụ  nữ  vừa bị  hành hạ  thể  xác vừa bị  giày vò
tinh thần, vừa cam chịu vừa cảm thấy bất  ổn và nơm nớp lo sợ
con cái mình bị  tổn thương. Đứa trẻ  chứng kiến cảnh ngược đãi
của cha mình, nên một mặt căm ghét cha và phản ứng mạnh mẽ
trước hành động man rợ  của con người  ấy, mặt khác đánh mất

niềm tin vào cuộc sông hiện tại. Nguyễn Minh Châu không chỉ xót
xa thương cảm người phụ  nừ  bất hạnh mà còn lên án sự  tàn


nhẫn thô bạo của người chồng trong một gia đình. Tác giả  báo
động về  tình trạng bạo lực đang làm khô héo, rạng rỡ  tâm hồn
trong trẻo. Ông ngợi ca vẻ  đẹp của tình mẫu tử, trân trọng khát
vọng được' sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em. 3. Thói
vũ phu của người đàn ông làng chài được tác giả đặt dưới những
phán xét rất khác nhau của Đẩu, Phùrig, Phác và người dàn bà.
Đẩu nhìn sự việc qua lăng kính pháp luật và thái độ thiện chí của
mình. Phùng nhìn dưới góc của người nghệ  sĩ thấm thìa lẽ  đời
sau khi thâm nhập cuộc sống. Người đàn bà từng trải và nhân
hậu. Phác nhìn bằng con mắt thơ  ngây. Cái nhìn hiện thực đa
chiều  ở  Nguyễn Minh Châu tạo nên cấu trúc đối thoại cho thiên
truyện. Nhà văn buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải nhập cuộc. 4.
Đoạn văn cuỗi tác phẩm gợi tả   ấn tượng lạ  lùng của nhân vật
Phùng “Tuy là ảnh đen trắng nhưng mồi lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy
hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sáng sương mai lúc bấy giờ
tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng”, “và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ
tôi cũng thấy người đàn bà  ấy đang bước ra khỏi tấm  ảnh... hoà
lần đám đông”. Nguyễn Minh Châu để  cho Phùng tự  vẽ  khuôn
mặt bên trong của mình. Nhà văn tô đậm tâm trạng phức hợp  ở
nhân vật. Bức  ảnh lịch ám ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và cũng
nhờ  nó mà anh luôn được sống lại kỉ  niệm, gặp lại màn sương
hồng hồng thơ mộng. Qua tâm tư của Phùng, Nguyễn Minh Châu


khẳng định: người nghệ sĩ cần gắn bó với cuộc đời, phải kiên trì
tìm trong hiện thực vẻ  đẹp của cuộc sông, đồng thời phải dũng

cảm ghi lại những sô' phận, những cảnh đời còn lam lũ, cực khổ.
5. Qua sự   đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mà
phóng viên Phùng vừa thu vào Ống kính với hiện thực cuộc sống
nhọc nhằn, cay cực của người dân chài, ta hiểu được dụng ý của
Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu muốn nhấn mạnh nghệ
thuật không được phép xa cách con người, văn chương phải nói
được tận cùng nỗi khổ của con người để mà từ đó tìm ra lồi thoát
thực   tế   cho   những   cảnh   đời   đói   nghèo   tăm   tối.   Nguyễn   Minh
Châu không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không
chấp nhận kiểu người đứng ngoài cuộc, đứng ở trên cao để phán
xét. Nhan đề  tác phẩm một mặt gợi ra khoảng cách giữa người
nghệ sĩ và hiện thực, mặt khác cho ta biết cái mục tiêu cuối cùng
mà người nghệ  sĩ cần phải khám phá và chiếm lĩnh toàn diện.
Nguyễn Minh Châu bàn tới trường nhìn, năng lực nhìn đời, nhìn
người của nghệ sĩ. Nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, bởi vì nó hình
tượng hóa tư  tưởng chủ  đạo của Nguyễn Minh Châu. 6. Giọng
điệu   trần   thuật   của   tác   phẩm   đa   dạng.   Có   khách   quan,   ngạc
nhiên khi thuật tả  cảnh đời, cảnh biển; có lo âu khi tái hiện lời
thoại của người đàn bà; có xót thương, căm phẫn khi chứng kiến
cảnh người đàn ông ngược đãi vợ con; có day dứt khắc khoải khi


thấy người phụ nừ chưa tìm được lối thoát nào sáng sủa, có trầm
tĩnh

 

khoan

 


hoà

 



 

tỉnh

 

táo...



×