Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Phạm vi điều chỉnh của bộ luật dân sự việt nam 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.76 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM HÙNG CƯỜNG

PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2005

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Đăng Hiếu

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác./

Học viên

Phạm Hùng Cường



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG LUẬN VĂN

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 1995

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005

CHXHCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

Luật HN&GĐ

Luật Hôn nhân và gia đình

Luật SHTT

Luật Sở hữu trí tuệ


Nxb

Nhà xuất bản

Tr

Trang

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài


2

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5

4.

Phạm vi nghiên cứu

6

5.

Phương pháp nghiên cứu

6

6.

Những điểm mới của luận văn

7

7.

Kết cấu luận văn


7
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ

8

PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
1.1

Quan hệ pháp luật dân sự

8

1.2

Hệ thống pháp luật dân sự hiện hành

13

1.2.1

Bộ luật Dân sự

13

1.2.2


Các văn bản pháp luật chuyên ngành

15

1.3

Bản chất của Bộ luật Dân sự

15

1.4

Khái niệm chế định và sự tương quan giữa các chế
định trong Bộ luật Dân sự

1.5

Mối tương quan giữa Bộ luật Dân sự với các luật
chuyên ngành

19

25

1.6

Hệ thống các nguyên tắc của pháp luật dân sự

27


1.6.1

Các nguyên tắc của pháp luật dân sự nói chung

28


1.6.2

Các nguyên tắc riêng của từng chế định trong Bộ luật Dân
sự

1.6.3

Các nguyên tắc của luật chuyên ngành

31
32

Chương 2
MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG HỆ THỐNG

36

PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
2.1

Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ trong mối liên
quan đến phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự


2.2

Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong mối liên
quan đến phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự

2.3

Vấn đề mâu thuẫn giữa các quy định của Bộ luật Dân
sự với các luật chuyên ngành

2.3.1

Mâu thuẫn giữa một số quy định của Bộ luật Dân sự với
Luật Hôn nhân và Gia đình

2.3.2

Mâu thuẫn giữa một số quy định của Bộ luật Dân sự với
Luật Nhà ở

2.3.3

Mâu thuẫn giữa một số quy định của Bộ luật Dân sự với
Luật Thương mại

2.3.4

Mâu thuẫn giữa một số quy định của Bộ luật Dân sự với
Luật Đất đai


2.3.5

Mâu thuẫn giữa một số quy định của Bộ luật Dân sự với
Bộ luật Lao động

2.4

Vấn đề xây dựng hệ thống các nguyên tắc chung và
nguyên tắc riêng

36

40

45

46

49

50

57

59

60



2.5

Vấn đề điều chỉnh quan hệ nhân thân trong Bộ luật
Dân sự

64

KẾT LUẬN

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

67


1

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Pháp luật là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để phát huy vai
trò trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh và đầy
đủ cả về số lượng văn bản quy phạm pháp luật lẫn nội dung điều chỉnh của văn bản quy
phạm pháp luật đó. Một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có cùng “tính
chất” là phải (i) xác định rõ ranh giới (phạm vi) trong việc điều chỉnh các quan hệ xã

hội này; và (ii) có sự kết hợp hài hòa và thống nhất giữa các văn bản pháp luật với
nhau.
Ra đời năm 2005, BLDS được biết đến với vai trò là “luật chung”, tồn tại bên
cạnh các luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại, Luật Hôn nhân và Gia đình,
Luật Nhà ở, Luật Sở hữu trí tuệ… Về cơ bản, các quy định trong BLDS với các quy
định của luật chuyên ngành có sự thống nhất, do đó hiệu quả điều chỉnh pháp luật của
các văn bản pháp luật tương đối cao. Tuy nhiên, vẫn còn có những quy định mang tính
chất chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn giữa BLDS với các luật chuyên ngành, điều này
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mà còn làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với hệ thống pháp luật.
Đối với tình trạng trên đây ngoài nguyên nhân về kỹ thuật, trình độ lập pháp còn
phải kể đến nguyên nhân cơ bản là “chúng ta chưa nghiên cứu để xây dựng một mô
hình hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự và không xử lý nhất quán mối quan hệ
gữa cái chung với cái riêng, giữa BLDS với các đạo luật chuyên ngành”[27]. Thể hiện
rõ trong các quy định của BLDS đó là sự “ôm đồm” quá mức các quy định cụ thể mà
nếu xem xét trong luật chuyên ngành thì các quy định này đã được quy định rồi, “chẳng
hạn như vấn đề chuyển quyền sử dụng đất đã được quy định khá chi tiết trong phần V
của BLDS, trong khi Luật Đất đai lại cũng quy định về vấn đề này…”[27].


2

Mặt khác, khi xây dựng BLDS, chúng ta lại quá thiên về pháp điển hóa mà quên
đi vai trò của luật chuyên ngành, do đó “vô tình chúng ta đã lấy cái chung thay cho cái
cụ thể; đã trộn lẫn cái chung với cái riêng hay trộn cái riêng vào cái chung một cách
thiếu khoa học.”[27]. Hậu quả của việc quá thiên về pháp điển hóa dẫn tới việc không
bắt kịp được sự thay đổi của cuộc sống xã hội và vẫn giữ những quy phạm lỗi thời, lạc
hậu bởi khi đưa vào BLDS thì sự thay đổi khó khăn hơn rất nhiều so với luật chuyên
ngành vì rào cản của trình tự xây dựng, sửa đổi bộ luật phức tạp hơn so với luật hoặc
văn bản dưới luật.

Định hướng lại phạm vi điều chỉnh BLDS để từ đó xác định rõ những nội dung
cụ thể mà BLDS điều chỉnh cũng như những nội dung điều chỉnh của luật chuyên
ngành là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
chúng ta đang xúc tiến cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS. Xuất phát từ những lý do trên,
tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam
2005” cho luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật Dân sự của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Có thể nói, phạm vi điều chỉnh của BLDS là vấn đề quan tâm đầu tiên của các
chuyên gia pháp luật trong quá trình xây dựng BLDS. Đây là vấn đề được các nhà lập
pháp bàn bạc, trao đổi, thảo luận trong các cuộc hội thảo, trao đổi, đóng góp ý kiến cho
việc xây dựng BLDS 1995 cũng như sửa đổi BLDS 2005. Một trong những bài viết đề
cập khá chi tiết và có ý nghĩa rất lớn cho các nhà lập pháp khi sửa đổi BLDS 1995 là
bài “Mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự với các luật chuyên ngành và giữa các luật
chuyên ngành với nhau” của tác giả Đoàn Năng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 51, tháng 4 năm 2005. Trong bài viết này, tác giả đã nhấn mạnh vai trò của
việc xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS, sự tác động qua lại mang tính biện chứng
giữa BLDS với các luật chuyên ngành thể hiện trong mối quan hệ chung – riêng. Đồng
thời, bài viết còn chỉ rõ những bất cập, chồng chéo trong các quy định của BLDS với
các quy định của luật chuyên ngành. Ngoài ra, TS. Nguyễn Thị Quế Anh với bài viết
“Luật Dân sự trong hệ thống Luật công – Luật tư” đăng tải trên Tạp chí Khoa học Đại


3

học Quốc Gia Hà Nội số 25, năm 1999 đã đề cập một số khía cạnh lý luận của việc
phân biệt hệ thống Luật công và Luật tư dưới góc độ như là hệ thống pháp luật “tập
quyền” và “phân quyền”, tìm hiểu những yếu tố mang tính ước lệ trong các tiêu chí

phân biệt hai hệ thống pháp luật này, phân tích những mặt mạnh và điểm yếu của hai hệ
thống, trên cơ sở đó góp phần hình thành những nhận thức đúng đắn về vai trò của Luật
Dân sự trong hệ thống pháp luật. Mặc dù không đề cập cụ thể về phạm vi điều chỉnh
của BLDS nhưng những nội dung được đề cập trong bài viết với sự lập luận và lý giải
về “Luật Dân sự là gì và giới hạn ở đâu?” đã có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
phạm vi điều chỉnh của BLDS về mặt lý luận [1]. Trong khuôn khổ chương trình sửa
đổi BLDS 2005, ThS. Nguyễn Hồng Hải công tác tại Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ
Tư pháp có bài “Một số vấn đề về cấu trúc của Bộ luật Dân sự và việc cấu trúc lại
BLDS năm 2005” đăng trên trang . Nội
dung bài viết đề cập đến vai trò của cấu trúc BLDS và định hướng của việc cấu trúc
BLDS 2005 [11]. Dưới góc độ luật học so sánh, một số tác giả cũng đề cập đến phạm vi
điều chỉnh của BLDS một cách gián tiếp như tác giả Nguyễn Thị Hạnh với bài “Sự phát
triển của Bộ luật Dân sự Pháp và một số chế định pháp lý cơ bản trong BLDS Pháp,
kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình sửa đổi BLDS năm 2005” được đăng trên
trang [12]; bài “Sức sống của Bộ luật Dân sự Việt Nam từ góc nhìn so
sánh với Bộ luật Dân sự Pháp, Đức, Hà Lan” được đăng trên trang
của tác giả Bùi Thị Thanh Hằng và Đỗ Giang Nam (Khoa Luật
– Đại học Quốc Gia, Hà Nội) [13].
Không đề cập trực tiếp đến phạm vi điều chỉnh của BLDS nhưng đã có nhiều bài
viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật đề cập đến phạm vi điều chỉnh của
các luật chuyên ngành của Luật Dân sự. Có thể kể đến một số bài viết của các chuyên
gia pháp luật được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 8/2000 có đăng bài “Mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật thương mại
trước yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế” của tác giả Lê Hoàng Oanh; Bài viết “Một
số vấn đề lý luận trong xây dựng dự án Luật bồi thường nhà nước và xác định phạm vi


4

điều chỉnh” của tác giả Đinh Dũng Sỹ trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18/2008 và

cũng là của tác giả Đinh Dũng Sỹ với bài “Xác định phạm vi điều chỉnh của dự án Luật
Bồi thường Nhà nước” trên trang . Trên trang
, TS. Dương Anh Sơn và TS. Nguyễn Thành Đức cũng nhận
được nhiều ý kiến phản hồi, bình luận với bài “Xác định vị trí của Luật Thương mại
2005 và luận bàn việc có nên xây dựng một văn bản pháp luật như Luật Thương mại
hay không?”… Nhìn chung, các bài viết này xoay quanh vấn đề về phạm vi điều chỉnh
của luật chuyên ngành và mối tương quan giữa luật chuyên ngành với BLDS. Tuy
nhiên, các bài viết này cũng chưa xác định cụ thể ranh giới phạm vi điều chỉnh của luật
chuyên ngành trong mối tương quan với phạm vi điều chỉnh của BLDS và chưa đưa ra
định hướng cụ thể để giải quyết vướng mắc liên quan đến phạm vi điều chỉnh của
BLDS với luật chuyên ngành.
Ngoài ra, sau khi BLDS 1995 ra đời, có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa
học dưới dạng khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn, luận án chuyên ngành luật đề cập
đến đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của BLDS, luật chuyên ngành và giải
quyết mối liên quan giữa các văn bản này về phạm vi điều chỉnh một cách gián tiếp
như:
- Lê Huy Du, Bàn về việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế trong điều kiện
có Bộ luật dân sự, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Những mâu thuẫn trong các quy định về hợp đồng giữa
Bộ luật dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005;
- Trần Hải Hưng, Đổi mới sự điều chỉnh pháp luật về hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự năm 2005, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006;
- Nguyễn Minh Thắng, Mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự và pháp luật đất đai về
chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2001;


5


- Trịnh Thuý Hằng, Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế trong điều kiện Bộ
luật Dân sự, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Nguyễn Viết Tý, Bộ luật Dân sự - Nền tảng pháp lý cho hoạt động kinh doanh
ở nước Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996;
- Nguyễn Dũng Minh, Mối quan hệ của Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự trong
việc quy định quyền chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997;
- Nguyễn Viết Tý, Phương hướng hoàn thiện pháp luật kinh tế trong điều kiện
có Bộ luật Dân sự, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002…
Nhìn chung, các khóa luận, luận văn, luận án trên đây đã giải quyết những nội
dung cụ thể theo sự xác định khi nghiên cứu đề tài trên cơ sở coi BLDS là luật gốc với
sự đối chiếu các nội dung thuộc đối tượng điều chỉnh của luật chuyên ngành. Tuy
nhiên, các công trình khoa học trên đây mới chỉ đưa ra được những mâu thuẫn, chồng
chéo trong các quy định của luật chuyên ngành với BLDS mà vẫn chưa giải quyết dứt
điểm được phạm vi điều chỉnh của BLDS, từ đó vẫn lúng túng trong việc xử lý mối
quan hệ giữa BLDS với luật chuyên ngành về phạm vi điều chỉnh.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xác định rõ phạm vi điều chỉnh của
BLDS, trên cơ sở đó xác định ranh giới cũng như sự tương thích giữa BLDS với các
luật chuyên ngành trong việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, từ
đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, nhiệm vụ cụ thể được đặt ra trong
quá trình nghiên cứu đề tài được xác định như sau:
- Phân tích để làm rõ một số vấn đề lý luận về hệ thống pháp luật dân sự để làm
nền tảng xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS;
- Làm rõ mối tương quan giữa BLDS với các luật chuyên ngành: vị trí của BLDS
được xác định như thế nào, các luật chuyên ngành cần có trong hệ thống pháp luật dân

sự (ngoài BLDS);


6

- Khái quát được các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự và các nguyên tắc
riêng của từng luật chuyên ngành;
- Chỉ ra được những mâu thuẫn giữa các quy định của BLDS với các luật chuyên
ngành;
- Đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam.
4.

Phạm vi nghiên cứu

“Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005” là vấn đề rộng, được
khái quát tại Điều 1, BLDS 2005. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn cao
học, đề tài không đi phân tích toàn bộ các nội dung liên quan đến phạm vi điều chỉnh
của BLDS mà chỉ tập trung xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS trong ranh giới
(mối tương quan) với các luật chuyên ngành.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài “Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005”,
luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin để đánh giá sự vật
hiện tượng trong mối liên hệ biện chứng, trong quá trình vận động và phát triển, trong
mối liên quan giữa cái chung với cái riêng.
Ngoài ra, các phương pháp phân tích, so sánh cũng được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài: Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý luận về
phạm vi điều chỉnh của BLDS; phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những

điểm tương đồng và khác biệt về phạm vi điều chỉnh giữa BLDS với luật chuyên
ngành.
6. Những điểm mới của luận văn
Nghiên cứu đề tài “Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005”, luận văn
đem lại những điểm mới sau đây:
Thứ nhất: Luận văn phân tích một cách tổng quát các vấn đề lý luận về hệ thống pháp
luật dân sự và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005;


7

Thứ hai: Luận văn phân tích để làm rõ mối tương quan giữa BLDS với các luật chuyên
ngành về phạm vi điều chỉnh, từ đó chỉ rõ tính thống nhất và tính mâu thuẫn giữa BLDS với luật
chuyên ngành về phạm vi điều chỉnh;
Thứ ba: Luận văn phân tích hệ thống các nguyên tắc của pháp luật dân sự nói chung, các
chế định của luật dân sự và của luật chuyên ngành nói riêng;
Thứ tư: Luận văn chỉ ra một số vấn đề bất cập liên quan đến phạm vi điều chỉnh của
BLDS, từ đó đưa ra một số phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam nói
chung.
7.

Kết cấu luận văn

Luận văn cao học “Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005” ngoài
phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu bởi hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hệ thống pháp luật dân sự và phạm vi điều chỉnh
của Bộ luật Dân sự
Chương 2: Một số bất cập trong hệ thống pháp luật dân sự và kiến nghị hoàn thiện hệ
thống pháp luật dân sự Việt Nam



8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ
PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhưng không phải quan hệ xã hội nào
cũng được điều chỉnh bằng pháp luật. Việc lựa chọn một quan hệ xã hội nào đó để pháp
luật điều chỉnh xuất phát từ tầm quan trọng của quan hệ xã hội này đối với đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Khi một quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật thì quan hệ xã hội đó chịu sự tác động bằng pháp luật lên hành vi và xử
sự của chủ thể khi tham gia quan hệ xã hội này và theo đó, trật tự ứng xử trong các
quan hệ xã hội được Nhà nước đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Đối
với các quốc gia trên thế giới, Luật Dân sự được biết đến với tư cách là một ngành luật
thuộc hệ thống luật tư. Hệ thống pháp luật Việt Nam ghi nhận sự tồn tại của Luật Dân
sự nhưng đồng thời cũng ghi nhận sự tồn tại của các luật khác như Luật HN&GĐ, Luật
Lao động, Luật Thương mại… Vấn đề xác định ranh giới phạm vi điều chỉnh giữa các
luật này tương đối phức tạp, trong khi đó đây là vấn đề không thể bỏ qua không chỉ đối
với các nhà nghiên cứu luật học mà có ý nghĩa đặc biệt trong công tác lập pháp.
1.1.

Quan hệ pháp luật dân sự

Xét dưới góc độ lý luận, khi các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật thì
khi đó các quan hệ xã hội này được gọi là quan hệ pháp luật. Xuất phát từ sự đa dạng
của các quan hệ xã hội nên đương nhiên sẽ xuất hiện sự đa dạng của các quan hệ pháp
luật. Theo đó, tương ứng với mỗi một ngành luật sẽ xuất hiện quan hệ pháp luật của
ngành luật đó, do vậy chúng ta có thể thấy các quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp
luật dân sự, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật thương mại ...

Cơ sở hình thành quan hệ pháp luật dân sự gắn với nhu cầu điều chỉnh các quan
hệ dân sự. Vậy yếu tố nào đã góp phần hình thành quan hệ dân sự?
Sự tồn tại của con người luôn gắn liền với các lợi ích. Nói cách khác, lợi ích là


9

yếu tố quan trọng thúc đẩy các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội khác nhau. Dưới
góc độ quan hệ dân sự, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần luôn là mục đích mà các chủ
thể quan tâm, hướng tới và nhằm đạt được. Lợi ích mà các chủ thể hướng tới và nhằm
đạt được phải là những lợi ích hợp pháp mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Mọi
lợi ích vật chất và tinh thần mà chủ thể nhằm đạt được nhưng vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
sẽ không được thừa nhận và bản thân chủ thể sẽ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất
lợi nhất định.
Tương ứng với lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của chủ thể, quan hệ pháp luật
dân sự được chia thành quan hệ pháp luật về tài sản và quan hệ pháp luật về nhân thân.
Nói cách khác, cơ sở để hình thành quan hệ pháp luật dân sự về tài sản là các lợi ích vật
chất mà các chủ thể hướng tới, và cơ sở để hình thành quan hệ pháp luật về nhân thân là
các giá trị tinh thần của các chủ thể được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là đối tượng điều chỉnh của Luật
Dân sự. Khi tham gia các quan hệ này, các chủ thể đều hướng tới lợi ích vật chất (trong
quan hệ tài sản) và lợi ích tinh thần (trong quan hệ nhân thân).
Thứ nhất, quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự.
Xác định quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là vấn đề
không còn mới mẻ mà đã được thừa nhận từ xa xưa. Thậm chí, đã có giai đoạn người ta
quá chú trọng đến quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Minh
chứng cho điều này, trong bài viết “Luật Dân sự trong hệ thống Luật công – Luật tư”,
TS Nguyễn Thị Quế Anh đã dẫn quan điểm của Đ.I.Meier cho rằng “Khoa học Luật
Dân sự phải được xác định là khoa học về quyền tài sản”[1].

Quan hệ tài sản có thể được hiểu là “quan hệ giữa chủ thể này với chủ thể khác
có liên quan đến tài sản” [27]. Như vậy, yếu tố quan trọng để xác định quan hệ tài sản
là quan hệ đó phải “liên quan đến tài sản”. Tài sản là khái niệm được đề cập trong
BLDS 1995 tại Điều 172. Tuy nhiên, BLDS 2005 đã có sự sửa đổi khái niệm tài sản
này mặc dù vẫn duy trì khái niệm dưới dạng liệt kê các loại tài sản. Điều 163 BLDS


10

2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo
khái niệm này, tài sản được “liệt kê” và theo logic suy đoán thì sự liệt kê đó có thể là
chưa đầy đủ, do đó cần thiết phải xây dựng khái niệm tài sản dưới dạng bao quát vì
điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc xác định quan hệ tài sản dưới góc độ pháp luật
dân sự mà còn có ý nghĩa đối với việc xác định quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật chuyên ngành cũng như các ngành luật khác có liên quan.
Quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự có thể ở “trạng thái
tĩnh” (vật quyền) nhưng cũng có thể thể hiện dưới “trạng thái động” (trái quyền). Theo
đó, quyền của chủ thể trong quan hệ tài sản có thể là quyền yêu cầu chủ thể khác phải
chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc..., nhưng cũng có thể là quyền của chủ thể
bằng hành vi của mình để tác động tới tài sản.
Quan hệ tài sản hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người. Theo dòng lịch sử, các loại tài sản ngày càng phong phú và đa dạng nhằm
đáp ứng lợi ích cho con người và cũng chính vì lẽ đó, quan hệ tài sản giữa các chủ thể
được thiết lập ngày càng đa dạng, tương ứng với các loại tài sản đó. Đây cũng là quy
luật tất yếu, ghi nhận sự phát triển của đời sống xã hội. Quan hệ tài sản khác nhau ở các
giai đoạn của lịch sử, khác nhau trong mỗi một Nhà nước, điều này phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị ... của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn.
Trên cơ sở xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 tại Điều 1, chúng ta có
thể khẳng định rằng quan hệ tài sản không chỉ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân
sự mà còn có thể thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật chuyên ngành khác

nhau. Đây là vấn đề có ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng, liên quan đến việc lựa chọn
quy phạm pháp luật để giải quyết tranh chấp phát sinh cũng như các thủ tục tố tụng nếu
xảy ra tranh chấp.
Tuy nhiên, việc phân biệt quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Dân sự hay thuộc đối tượng điều chỉnh của luật chuyên ngành là một trong những vấn
đề tương đối phức tạp bởi sự thiếu nhất quán và minh bạch trong việc xác định phạm vi
điều chỉnh của BLDS.


11

Trên cơ sở quy định của BLDS 2005, chúng ta có thể thấy quan hệ tài sản thuộc
đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự được thể hiện ở các chế định sau:
- Chế định tài sản và quyền sở hữu;
- Chế định nghĩa vụ và hợp đồng (bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, hợp
đồng dân sự, nghĩa vụ ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng);
- Chế định chuyển quyền sử dụng đất;
- Chế định thừa kế.
Ngoài ra, trong Phần thứ Bảy của BLDS, quan hệ tài sản cũng được đề cập tới,
trong đó chủ yếu xác định các quan hệ tài sản thuộc lĩnh vực luật tư có yếu tố nước
ngoài sẽ được xác định luật áp dụng như thế nào nếu phát sinh tranh chấp.
Thứ hai, quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự.
Lợi ích tinh thần chính là mục đích mà các chủ thể nhằm đạt được khi tham gia
các quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân được xác định là đối tượng điều chỉnh của
Luật Dân sự từ rất sớm: “Bên cạnh đó, quan điểm của các học giả không thừa nhận giới
hạn đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự chỉ là các quan hệ tài sản cũng được phổ
biến và thừa nhận rộng rãi. Ngoài các quan hệ tài sản, cần thiết đưa vào phạm vi điều
chỉnh của Luật Dân sự các quan hệ mang tính chất phi tài sản”[1].
Bên cạnh đời sống vật chất, nhu cầu về tinh thần của con người là rất lớn, đó

không chỉ là những nhu cầu giải trí mà còn có nhu cầu được tôn trọng, được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín... Đây cũng chính là nội dung xuyên suốt trong các quan hệ
nhân thân do Luật Dân sự điều chỉnh. Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật Dân sự luôn xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, giá trị tinh thần này
có thể gắn liền với lợi ích kinh tế, có thể không gắn liền với lợi ích kinh tế.
Cơ sở quan trọng để hình thành quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh
của Luật Dân sự đó là các lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần là khái niệm trừu tượng,
nhưng chúng ta có thể hiểu đó là “những giá trị tinh thần được pháp luật ghi nhận và
mọi người phải tôn trọng như danh dự, nhân phẩm, uy tín... Nhưng lợi ích tinh thần đó


12

cũng có thể là kết quả của hoạt động lao động sáng tạo của con người...”[30, tr 13].
Một trong những điều đặc biệt của các lợi ích tinh thần trong các quan hệ nhân
thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là các lợi ích tinh thần luôn gắn liền
với chủ thể mà không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Đây là yếu tố khác biệt so với
lợi ích trong quan hệ tài sản (có thể chuyển giao). Ngoài ra, xuất phát từ tính “vô hình”
của các lợi ích tinh thần trong các quan hệ nhân thân do Luật Dân sự điều chỉnh mà các
lợi ích tinh thần không thể bị hạn chế hoặc bị tước bỏ, trừ những trường hợp đặc biệt do
pháp luật quy định.
Quan hệ nhân thân được chia thành hai nhóm:
- Nhóm quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản: Quan hệ nhân thân hoàn
toàn xuất phát từ giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế,
không liên quan đến tài sản. Đây chính là các quyền nhân thân do pháp luật quy định
cho cá nhân.
Đối với các quyền nhân thân, BLDS 2005 quy định từ Điều 24 đến Điều 51.
Theo quy định của BLDS 2005, rất nhiều quyền nhân thân được ghi nhận như Quyền
đối với họ tên (Điều 26), Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31), Quyền xác
định dân tộc (Điều 28), Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37),

Quyền bí mật đời tư (Điều 38), Quyền đối với quốc tịch (Điều 45), Quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32); Quyền hiến bộ phận cơ thể
(Điều 33), Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34), Quyền nhận bộ phận
cơ thể người (Điều 35), Quyền xác định lại giới tính (Điều 36), Quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở (Điều 46), Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47), Quyền tự do đi
lại, tự do cư trú (Điều 48)...
Ngoài ra, trong BLDS 2005 còn có các quyền nhân thân của cá nhân thuộc các
lĩnh vực luật chuyên ngành như: Quyền kết hôn (Điều 39), Quyền bình đẳng của vợ
chồng (Điều 40), Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình
(Điều 41), Quyền ly hôn (Điều 42), Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con (Điều 43),
Quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi (Điều 44) (thuộc lĩnh vực


13

chuyên ngành Luật HN&GĐ); Quyền lao động (Điều 49) (thuộc lĩnh vực chuyên ngành
Luật Lao động); Quyền tự do kinh doanh (Điều 50) (thuộc lĩnh vực chuyên ngành Luật
Thương mại); Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 51) (thuộc lĩnh vực chuyên
ngành Luật SHTT)...
- Nhóm quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản: Quan hệ nhân thân xuất phát
từ các giá trị tinh thần. Tuy nhiên, các chủ thể sẽ được hưởng các lợi ích tinh thần từ
các kết quả của hoạt động sáng tạo tinh thần của mình như các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, các sáng chế, … Những lợi ích tinh thần được ghi nhận cho các tác giả
sáng tạo nên các tài sản vô hình đó được pháp luật thừa nhận dưới dạng quyền nhân
thân liên quan đến tài sản như: quyền đứng tên tác giả, quyền được bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, quyền công bố, …
1.2.

Hệ thống pháp luật dân sự hiện hành


Hệ thống pháp luật dân sự được biết đến với toàn thể các ngành luật thuộc hệ
thống luật tư, trong đó Luật Dân sự được coi là luật chung, các luật khác là luật chuyên
ngành. Trong hệ thống pháp luật dân sự, các văn bản pháp luật được thể hiện một cách
bao trùm, trong đó có thể chia thành hai nhóm: Bộ luật Dân sự (luật chung) và các luật
khác (luật chuyên ngành).
1.2.1. Bộ luật Dân sự
Có thể khẳng định việc cho ra đời BLDS là một trong những thành tựu to lớn
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Xét trong
mối tương quan giữa các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ta ban hành thì
BLDS được coi là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân sự,
điều chỉnh và bao quát toàn bộ các nội dung liên quan đến quan hệ tài sản và quan hệ
nhân thân. BLDS được các nhà làm luật cũng như mọi người đánh giá là có vị trí quan
trọng thứ hai, sau Hiến pháp, được coi là nguồn chủ yếu, trực tiếp và quan trọng nhất
của Luật Dân sự.
Nghị quyết của Quốc hội về việc xây dựng BLDS xác định từ năm 1990. Qua
một quá trình nỗ lực hết sức, BLDS lần đầu tiên của nước CHXHCH Việt Nam được


14

ban hành năm 1995 với 838 điều luật được kết cấu bởi 7 phần, 36 chương, 52 mục. Sau
khi được ban hành và đi vào cuộc sống, BLDS đã khẳng định và phát huy vai trò quan
trọng của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân (vốn là
các quan hệ mang tính truyền thống) thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Về
phạm vi điều chỉnh của BLDS 1995, Điều 1 của BLDS 1995 quy định:
“Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong
giao lưu dân sự, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi
tham gia quan hệ dân sự”.
Qua một thời gian áp dụng, bên cạnh những mặt tích cực, BLDS 1995 đã bộc lộ

nhiều khiếm khuyết cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, nhiều nội dung trong
BLDS 1995 đã tỏ ra lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực dân sự ngày càng đa dạng và phức tạp, đặc biệt trong giai đoạn
chuyển mình của nền kinh tế, trong điều kiện hội nhập quốc tế, khi Việt Nam là thành
viên của WTO, khi một loạt các văn bản luật chuyên ngành khác có sự chồng chéo,
mâu thuẫn với BLDS. Xuất phát từ những lý do trên đây, yêu cầu đối với việc sửa đổi
bổ sung BLDS 1995 là hết sức cấp bách. Trong bối cảnh đó, BLDS 2005 sửa đổi, bổ
sung BLDS 1995 ra đời. BLDS 2005 của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội
khóa XI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố
ngày 27/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.
BLDS 1995 trước đây và BLDS 2005 được đánh giá là bộ luật lớn nhất của Nhà
nước ta. Phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 rất rộng, được xác định tại Điều 1, theo
đó:
“Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài
sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
(sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)...”
Xét về cơ cấu, BLDS năm 2005 được kết cấu bởi bảy phần, 36 chương với 777


15

điều.
1.2.2. Các văn bản pháp luật chuyên ngành
Bên cạnh sự tồn tại của BLDS với ý nghĩa là luật chung, theo Điều 1 của BLDS
2005 thì phạm vi điều chỉnh của BLDS rất rộng, bao gồm cả các quan hệ nhân thân và
tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự). Như vậy, ngoài BLDS được xác định là
luật chung còn có các văn bản pháp luật chuyên ngành sau đây:
- Luật Thương mại 2005;

- Luật HN&GĐ 2000;
- Bộ luật Lao động;
- Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000;
- Luật Đất đai 2003;
- Luật Nhà ở 2005;
- Luật Kinh doanh bất động sản 2006;
- Luật SHTT;
Ngoài ra, còn phải kể đến một số luật liên quan đến chủ thể của quan hệ dân sự
như Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng, Luật Hợp tác xã...
1.3.

Bản chất của Bộ luật Dân sự

Hiện nay, vẫn chưa có một sự đánh giá chính thức về vị trí của BLDS trong mối
liên quan với các luật chuyên ngành. Do đó, khẳng định bản chất của BLDS là một văn
bản pháp luật mang tính tổng hợp hay mang tính chất chung, tính chất cơ bản, tính chất
định hướng vẫn còn là một trong những vấn đề phức tạp. Trong khi đó, việc xác định
bản chất của BLDS là vấn đề có ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng, đặc biệt là liên
quan đến việc xử lý mối quan hệ chung – riêng giữa BLDS với các luật chuyên ngành
khác.
Điều 1, BLDS 2005 xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS, theo đó thì các quan
hệ tài sản, quan hệ nhân thân đang được điều chỉnh trong các luật chuyên ngành của
Luật Thương mại, Luật Lao động và Luật HN&GĐ. Ngoài ra, xét trên phương diện


16

nhất định thì chính các luật chuyên ngành đã thừa nhận vai trò luật chung của BLDS.
Điều này có thể dễ dàng thấy trong Luật Thương mại, Luật HN&GĐ. Khoản 3, Điều 4,
Luật Thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại không được quy định trong

Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.” hay
Điều 5, Luật HN&GĐ 2000 quy định: “Các quy định của Bộ luật Dân sự liên quan đến
quan hệ hôn nhân và gia đình được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình
trong trường hợp pháp luật về hôn nhân và gia đình không có quy định.”
Về bản chất của BLDS, hiện nay trong giới luật học đang tồn tại nhiều cách hiểu
không thống nhất về bản chất của BLDS.
Cách hiểu thứ nhất cho rằng BLDS là luật cơ bản, do vậy chỉ chứa đựng các khái
niệm chung và các nguyên tắc chung mà thôi. Theo cách hiểu này thì các quy định điều
chỉnh từng quan hệ cụ thể cần phải được đưa ra khỏi BLDS và sẽ được quy định cụ thể
trong các luật chuyên ngành. Do vậy việc sửa đổi BLDS sẽ phải đi theo hướng lược bỏ
các điều luật ra khỏi BLDS. Cũng theo cách hiểu này, BLDS sẽ chỉ giữ vai trò là ghi
nhận các nguyên tắc chung, chỉ là “bộ khung”, hệ thống các luật chuyên ngành sẽ phải
được ban hành rất nhiều để cụ thể hóa các nguyên tắc chung trong BLDS.
Ngược lại, cách hiểu thứ hai thì lại cho rằng BLDS là luật tổng hợp, là việc
“pháp điển hoá” nhiều văn bản rời rạc vào một văn bản chung thống nhất. Do vậy cách
sửa đổi BLDS phải đi theo hướng đưa vào nhiều hơn nữa các quy định của các luật
chuyên ngành vào trong BLDS. Quan điểm này cho rằng BLDS có 777 điều là quá ít,
trong khi các BLDS của các nước khác có khoảng 1500 – 2000 điều luật. Ví dụ: BLDS
Pháp có 2383 điều , BLDS và Thương mại Thái Lan có 1755 điều... Nếu nhìn vào số
lượng điều luật của các bộ luật này so với BLDS 2005 của Việt Nam thì BLDS Việt
Nam đứng ở vị trí quá khiêm tốn so với các các bộ luật đó.
Mỗi cách hiểu trên đây đều có những ưu nhược điểm nhất định cần đánh giá một
cách khách quan để đảm bảo việc xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS một cách
khoa học và hợp lý.


17

Nếu theo cách hiểu thứ nhất cho rằng BLDS là luật cơ bản, do vậy chỉ chứa đựng
các khái niệm chung và các nguyên tắc chung, cách hiểu này có ưu điểm là mang tính

bao quát cao và dễ bao trùm phạm vi rộng các quan hệ như quy định tại Điều 1 BLDS
2005. Khi quy định nguyên tắc chung và bao quát như vậy thì kiểu gì cũng “thâu tóm”
được toàn bộ các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân do BLDS điều chỉnh. Tuy nhiên,
nếu theo cách hiểu này thì quy định của BLDS lại quá chung chung và trở thành thứ
“hiến pháp tư”, ít được áp dụng trong thực tế và không thể dẫn chiếu trực tiếp để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống hàng ngày.
Cách hiểu thứ hai cho rằng BLDS là luật tổng hợp, là việc “pháp điển hoá” nhiều
văn bản rời rạc vào một văn bản chung thống nhất. Cách hiểu này có ưu điểm là mang
tính tiện dụng cho các chủ thể khi áp dụng, tránh được sự chống chéo, mâu thuẫn giữa
các văn bản. Tuy nhiên, cách hiểu này cũng có nhược điểm. Nếu xây dựng BLDS theo
cách hiểu này thì BLDS sẽ mang tính chất “ôm đồm”, cồng kềnh và sẽ khó sửa đổi khi
cần thay đổi cách thức điều chỉnh các vấn đề nhỏ cụ thể. Bởi lẽ theo Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật thì quy trình sửa đổi, bổ sung BLDS sẽ phức tạp hơn nhiều so
với sửa đổi các luật và văn bản dưới luật. Trong khi đó, sự đa dạng và thay đổi, phát
sinh mới của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dân sự đòi hỏi phải có sự cập nhật một
cách thường xuyên, liên tục và văn bản pháp luật phải thường xuyên được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp.
Mỗi cách trên đây đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định nhưng cả hai
cách hiểu này đều không nhìn nhận đúng vai trò, vị trí của BLDS, cả hai cách hiểu trên
đều là cực đoan và đều không phù hợp.
Chúng tôi cho rằng cần phải nhìn nhận đúng về bản chất và vị trí của BLDS
trong vai trò là luật chung và trong mối liên quan với các luật chuyên ngành. Để làm
được điều này cần xác định rõ mối quan hệ chung – riêng giữa BLDS với các luật
chuyên ngành. Một trong những giải pháp hợp lý nhất đó là sự dung hòa giữa hai cách
hiểu trên đây. Quan điểm phù hợp phải là sự kết hợp của cả 2 cách hiểu nêu trên. Điều


18

quan trọng là phải tạo được thống nhất chung về cách hiểu bản chất của BLDS thì mới

thống nhất được cách sửa BLDS.
Theo chúng tôi, trong điều kiện nước ta hiện nay, mô hình hệ thống pháp luật
dân sự hợp lý nhất là để BLDS với vai trò quy định về những vấn đề chung nhất như về
các nguyên tắc cơ bản của BLDS, về cá nhân, pháp nhân, về tài sản và quyền sở hữu tài
sản, về các giao dịch dân sự, hợp đồng…, Trên cơ sở những vấn đề chung được quy
định trong BLDS sẽ cụ thể các quy định dân sự trong các luật, pháp lệnh chuyên ngành.
Cần sửa đổi BLDS theo hướng các vấn đề dân sự vừa được quy định trong BLDS, vừa
được quy định tại các đạo luật chuyên ngành, nhưng có sự phân công hợp lý. BLDS chỉ
quy định nội dung chung của tất cả các lĩnh vực, còn đạo luật chuyên ngành cụ thể hoá
các quy định chung đó như: Luật HN&GĐ, Luật SHTT, Luật Thương mại…, nhưng
vẫn đảm bảo không có sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Nếu giải quyết được vấn đề này
sẽ đảm bảo một sự thuận lợi hơn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp
luật.
Bên cạnh đó, cần xác định BLDS là đạo luật chung nên đòi hỏi phải có sự ổn
định cao, việc sửa đổi luật chung cần có một lộ trình nhất định. Trong khi đó, các quan
hệ dân sự chuyên ngành luôn biến đổi cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống
kinh tế, xã hội nên cũng phải có sự sửa đổi cho phù hợp. Do đó, việc tập trung các quy
định dân sự cụ thể vào văn bản chuyên ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc
sửa đổi, bổ sung các văn bản này thay vì phải đồng thời sửa đổi, bổ sung cả Bộ luật và
các đạo luật chuyên ngành liên quan.
Do kỹ thuật lập pháp trong BLDS nên có thể dẫn tới cách hiểu về sự thoát ly của
các văn bản pháp luật chuyên ngành so với BLDS như các quy định “trừ trường hợp
pháp luật quy định khác” hay các nội dung mang tính “khép” (dùng thuật ngữ “hợp
đồng dân sự” thay vì “hợp đồng” – mặc dù bản chất pháp lý là một). Tuy nhiên, chúng
tôi cho rằng BLDS vẫn luôn được xác định là văn bản pháp luật mang tính chất chung,
là văn bản pháp luật chung, các văn bản pháp luật khác là văn bản pháp luật của luật
chuyên ngành.


19


1.4.

Khái niệm chế định và sự tương quan giữa các chế định trong Bộ luật

Dân sự
Hệ thống pháp luật của Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam bao gồm nhiều
ngành luật, trong đó có ngành Luật Dân sự. Như vậy, mỗi một ngành luật sẽ có nhiều
quy phạm pháp luật khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều
chỉnh của ngành luật ấy. Tập hợp một nhóm các quy phạm pháp luật có cùng tính chất
sẽ tạo thành chế định pháp luật.
Theo cuốn Từ điển Luật học thì chế định pháp luật được giải thích là “Tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi, có cùng tính chất
trong phạm vi mỗi ngành luật vốn bao gồm nhiều chế định. Ví dụ: Ngành luật dân sự
có các chế định như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định thừa kế, chế
định quyền tác giả… Ngành luật hình sự có các chế định như các tội xâm phạm an ninh
quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người;
các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…” [47, tr 122].
Trong giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì “Chế định pháp luật là một tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh một
nhóm quan hệ xã hội có tính chất giống nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau.” [45,
tr 116].
Có thể thấy rằng hệ thống pháp luật dân sự là tổng thể qui phạm pháp luật dân sự
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật dân sự.
Chế định pháp luật dân sự là một trong những thành tố cơ bản tạo thành hệ thống pháp
luật dân sự.
Cơ sở của một chế định pháp luật trong BLDS là một nhóm quan hệ xã hội. Nếu
các quan hệ xã hội không tồn tại thành từng nhóm thì không thể có chế định pháp luật
nói chung, chế định pháp luật dân sự nói riêng. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi
một chế định pháp luật dân sự liên quan chặt chẽ với nhau, có các đặc điểm chung. Việc

xác định đúng tính chất nhóm của quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong việc hình thành chế định pháp luật dân sự. Như vậy, sự phân


×