Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Nguyên nhân và giải pháp cho thực trạng đô la hoá ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.64 KB, 34 trang )

Mục Lục
A.Lời mở đầu
B.Nội dung tiểu luận
I.Một số vấn đề lí luận về hiện tượng Đô la hoá
1.Khái niệm Đô la hoá
- Khái niệm thông thường
- Khái niệm theo tiêu chí của IMF
2.Nguồn gốc xuất hiện hiện tượng Đô la hoá
3.Phân loại Đô la hoá
- Đô la hoá không chính thức (unofficial dollarization)
- Đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization)
- Đô la hoá chính thức (offcial dollarization)
4.Nguyên nhân của hiện tượng Đô la hoá
5.Các tác động của Đô la hoá
- Tác động tích cực
- Tác động tiêu cực
II.Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam và những ảnh hưởng của Đô la hoá đến nền kinh tế
1.Thực trạng Đô la hoá ở nước ta
2.Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào
- Nhân tố xác định Đô la hoá tiền gửi
- Nhân tố quyết định Đô la hoá cho vay
3.Nhận định vấn đề
4.Những ảnh hưởng của Đô la hoá đến nền kinh tế Việt Nam
- Những ảnh hưởng có lợi
- Những ảnh hưởng bất lợi
III.Nguyên nhân và giải pháp cho thực trạng đô la hoá ở Việt Nam
1.Nguyên nhân của hiện tượng Đô la hoá ở Việt Nam
2.Những giải pháp khắc phục tình trạng trên
- Những mặt bất cập của các biện pháp hành chính trước đây
- Một số biện pháp trước mắt để hạn chế tình trạng trên



C.Kết luận

Lời mở đầu

Trong thời gian qua,trên một số phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập đến vấn đề Đô
la hoá.Nội dung các bài báo đều xoay quanh việc phân tích hiện tượng Đô la hoá:nguyên
nhân,tác động,mặt lợivà hại ,những kiến nghị nhằm khắc phục Đô la hoá thể hiện một sự
quan tâm đặc biệtcủa công luận trước một hiện tượng kinh tế xã hội không bình thường
trên lĩnh vực hoạt động ngân hàng.Đô la hoá hầu như diễn ra ở các nước đang phát triển
hay có nền kinh tế chuyển đổi.Ở Việt Nam,tình trạng Đô la hoá đã diễn ra trong nhiều năm
với những mức độ khác nhau.Nguyên nhân của nó bắt nguồn từ nền kinh tế có tỷ lệ lạm
phát cao.Tuy nhiên,hiện nay Đô la hoá không thể dựa vào yếu tố lạm phát mà còn dựa vào
những nhân tố mới xuất hiện xác định hiện tượng Đô la hoá hiện nay.Bên cạnh đó,một xu
hướng hoạt động tiền tệ có tính chất nghịch lý trong năm 2000 gây được sự quan tâm rất
lớn của dư luận.Đó là một khối lượng lớn ngoại tệ đã được các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam đem gửi ở nước ngoài,trong khi đó nền kinh tế thiếu vốn,chính phủ và các doanh
nghiệp phải đi vay vốn nước ngoài.
Vậy Đô la hoá là gì?Nguồn gốc,tác động của Đô la hoá,mức độ Đô la hoá ở Việt Nam đang
ở tầm nào,nguyên nhân và giải pháp khắc phục?
Vấn đề này ngày càng được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và thu hút các
sinh viên khối kinh tế .Bài viết này của em còn thiếu sót,chưa chặt chẽ,mong thầy góp ý để
tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.


Đô la hoá ở Việt Nam
Thực trạng và một số giải pháp khắc phục

I.Một số vấn đề lí luận về hiện tượng Đô la hoá
1.Khái niệm Đô la hoá:

a) Khái niệm thông thường :
Thông thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình.Đồng tiền đó thực hiện đầy đủ các
chức năng của tiền tệ,trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm
được.Do các điều kiện chính trị,kinh tế,xã hội cụ thể mà Đô la Mỹ (USD),một loại ngoại tệ mạnh
có phạm vi giao dịch riêng lớn nhất trên thế giới,dần dần được sử dụng song hành với đồng nội tệ
của quốc gia đến một mức nào đó thì được gọi là tình trạng Đô la hoá nền kinh tế.


Như vậy,trong một nền kinh tế,khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi,thay thế cho đồng bản
tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng của tiền tệ thì theo thông lệ chung,có thể hiểu nền kinh tế
đó bị “ ngoại tệ hoá” hay “Đô la hoá”.
b)Khái niệm theo tiêu chí IMF
Theo giải thích của một số chuyên gia IMF,Đô la hoá nền kinh tế là thực trạng dân chúng nắm giữ
một tỉ lệ có ý nghĩa trong cơ cấu tài sản của họ dưới hình thức đồng Đô la.Cũng theo nhận xét của
IMF,đó là đặc điểm chung của các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra,một nền kinh tế được coi là có tình trạng Đô la hoá cao khi mà tỷ
trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2);bao
gồm :Tiền mặt trong lưu thông,tiền gửi không kì hạn,tiền gửi có kì hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Theo đánh giá của IMF, vào năm 1998,có 19 nước có mức độ Đô la hoá cao với tỉ lệ tiền gửi ngoại
tệ/M2

lớn

hơn

30%,bao

gồm

các


nước:

Argentina,Azerbaijian,Belarus,Bolivia,Cambodia,CostaRica,Croatia,Georgia,GuinBissau,Laos,Latvia,Mozambique,Nicaragua,Peru,SaoTome,Principe,Tajikistan,Turkey



Uruguay.
35 nước có mức độ Đô la hoá vừa phải với tỉ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%,bao gồm các
nước:Albania,Armenia,Bulgaria,Cộng hoà
Czech,Dominica,Honduras,Hungary,Jamaica,Jordan,Lithuania,Macedonia,Malawi,Mexico,Moldo
va,Mongolia,Pakistan,Philippines,Poland,Romania,Russia,Sierra Leone,Cộng hoà
Slovak,Trinidad,Tobago,Uganda,Ukraine,Uzbekistan,Việt Nam,Yemen và Zambia.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ,hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến
70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.Còn theo ước tính của ngân hàng Bundesbank
(Đức),người nước ngoài giữ khoảng 40% tổng số DM được lưu hành.

2.Nguồn gốc xuất hiện hiện tượng Đô la hoá:


Theo kinh nghiệm quốc tế thì hiện tượng Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỉ lệ lạm
phát cao,sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ khác,trong
đó có các đồng ngoại tệ có uy tín.Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ giá trị dần dần
đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như
làm đơn vị tính toán.
Các đồng tiền mạnh là những đồng tiền ổn định cả về đối nội và đối ngoại cũng như thông qua vai
trò quốc tế của chúng.Điều này được thể hiện bằng chỉ số độ tin cậy,mà từ góc độ của quốc gia có
đồng tiền yếu thì chỉ số này có thể hiểu là tâm lí dự đoán phá giá đồng nội tệ về lâu dài so với
đồng tiền chủ đạo.Như vậy,ngay cả khi không có tâm lí dự đoán phá giá đồng tiền trong ngắn hạn
thì lãi suất đồng tiền yếu cũng phải cao hơn lãi suất của đồng tiền mạnh

1 nội tệ = 1 USD + Z
Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì giá trị của Z vào khoảng từ 5 đến
10%/năm.Đối với ngân hàng Nhà Nước thì đây là một thông số đánh giá quan trọng trong ngắn
hạn bởi vì Z chỉ có thể thay đổi được sau một khoảng thời gian dài.Kinh nghiệm cũng cho thấy khi
lãi suất ở Mỹ tăng lên 1% thì đòi hỏi lãi suất ở các nước có đồng tiền yếu phải tăng cao rất nhiều
nhằm đối phó lại với tình trạng chuyển đổi tài sản sang USD.Do vậy,không phải ngẫu nhiên mà
hầu như tất cả các nước đang phát triển đều hạn chế hoạt động xuất khẩu vốn tư nhân,nhằm ngăn
ngừa việc đầu tư bằng ngoại tệ được trả lãi.Ngoài ra,nếu có thêm tâm lí dự đoán phá giá đồng tiền
trong ngắn hạn thì công thức lãi suất cho đồng nội tệ phải được đổi thành
1 nội tệ = 1 USD + Z + E
Với E là tỷ lệ mất giá đồng nội tệ
Khi lãi suất đồng nội tệ không đảm bảo việc bù thêm đầy đủ các yếu tố này thì dân chúng sẽ thích
cất trữ bằng đồng ngoại tệ hơn là nội tệ.
Về cơ bản,các ngân hàng thương mại có thể sử dụng khối lượng USD huy động được để cấp tín
dụng trong nước bằng USD ,bán USD lấy nội tệ,gửi USD tại các ngân hàng nước ngoài.Khi tỉ lệ
USD trong tổng nguồn vốn (bên nợ) của các ngân hàng tăng lên thì thông thường bên sử dụng vốn
(bên có ) của các ngân hàng,tỉ lệ USD cũng tang lên.Do vậy cũng có thể thấy hiện tượng Đô la
hoá tương ứng xảy ra ở bên tài sản có của hệ thống ngân hàng.


Có một thực tế là ở các quốc gia mà người dân được giữ tiết kiệm bằng ngoại tệ là ngân hàng được
cung ứng tín dụng bằng số ngoại tệ huy động được thì hiện tượng Đô la hoá càng bị khuyếch
đại.Vì song song với đồng bản tệ,hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc mở rộng khối lượng ngoại
tệ có trong nền kinh tế thông qua khả năng tạo tiền của mình.

3.Phân loại Đô la hoá:
Về cơ bản,Đô la hoá được phân ra làm 3 loại chính: Đô la hoá không chính thức,Đô la hoá bán
chính thức,Đô la hoá chính thức.
a)Đô la hoá không chính thức (Unofficial Dollarization)
Là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia đó

chính thức thừa nhận .Thuật ngữ “Đô la hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm
giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp.Ví dụ :ở một số nước,việc giữ một số tài sản
ngoại tệ là hợp pháp, như các tài khoản bằng USD tai các ngân hàng trong nước,nhưng lại không
hợp pháp khi có tài khoản tai ngân hàng nước ngoài trừ khi được cấp phép.
Đô la hoá không chính thức có thể gồm các loại sau:
+ Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài
+ Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài
+ Tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước
+ Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi
Đô la hoá không chính thức được chia thành 3 giai đoạn:
Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của Đô la hoá không chính thức là giai đoạn “thay thế tài
sản”.Trong giai đoạn này,người dân giữu trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài
như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát trong nước hay việc
tịch thu tài sản sung công mà một số nước đã làm.
Giai đoạn thứ 2 của Đô la hoá không chính thức được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế
tiện tệ”.Trong giai đoạn này,người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi


ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được phép).Lúc này,ngoại tệ vừa thực hiện chức
năng là phương tiện thanh toán,vừa thực hiện chức năng cất trữ.Tiền lương,thuế ,những chi tiêu
hằng ngày như hàng tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nội tệ;nhưng với các tài
sản có giá trị hơn như ô tô và nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối của Đô la hoá không chính thức,giá cả của hàng hoá được tính bằng nội tệ
nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái
Đô la hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
b) Đô la hoá bán chính thức (Semiofficial Dollarization):
Đô la hoá bán chính thức có ở những nước có hệ thống lưu hành chính thức 2 đồng tiền.Trên thế
giới có khoảng 12 nước được IMF xếp là nước có Đô la hoá bán chính thức.Tại các nước này,đồng
ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi
ngân hàng,nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương,thuế và những chi tiêu hàng ngày.

Tuy nhiên,không giống các nước có Đô la hoá chính thức,các nước có Đô la hoá bán chính thức
duy trì Ngân hàng Trung Ương hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn tương tự để thực hiện chính
sách tiền tệ của họ.
c)Đô la hoá chính thức(hay còn gọi là Đô la hoá hoàn toàn-Official Dollarization)
Đô la hoá chính thức xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu
hành.Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư
nhân,mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính Phủ.Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì
nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá
nhỏ.Thông thường các nước chỉ áp dụng Đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực
thi các chương trình ổn định kinh tế.
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp
pháp.Ví dụ như Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Pezota của Tây Ban Nha.Tuy
nhiên,các nước Đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp
pháp.Và ở hầu hết các nước có Đô la hoá chính thức,các đối tác tư nhân được phép đăng kí hợp
đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý.


Hiện nay,theo ước tính của IMF có khoảng 14 nước được xếp là các nước có Đô la hoá chính thức.

4.Nguyên nhân của hiện tượng Đô la hoá:
-Trước hết,Đô la hoá là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước ,đặc biệt là ở các nước chậm phát
triển.Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỉ lệ lạm phát cao,sức mua của đồng bản tệ
giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác,trong đó có các đồng ngoại tệ có uy
tín.Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ giá trị,dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh
với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Tình trạng Đô la hoá bao gồm cả 3 chức năng thuộc tính của tiền tệ,đó là:
+ Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị
+ Chức năng làm phương tiện cất trữ
+ Chức năng làm phương tiện thanh toán
-Thứ hai,hiện tượng Đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại,trong đó tiền tệ của một

số quốc gia phát triển,đặc biệt là đô la Mỹ,được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của
“tiền tệ thế giới”.Nói cách khác,đô la Mỹ là một loại tiền mạnh,ổn định,được tự do chuyển đổi,đã
lưu hành khắp thế giới,và từ đầu thế kỉ XX đã dần thay thế vàng,thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Ngoài đồng đô la Mỹ,còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như:
bảng Anh,mác Đức,yên Nhật,Franc Thuỵ Sỹ,euro của EU…nhưng vị thế của các đồng tiền này
trong giao lưu quốc tế không lớn;chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim
ngạch giao dịch thương mại thế giới).Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là “ Đô
la hoá”.
-Thứ ba,trong điều kiện của thế giới ngày nay,hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị
trường mở cửa;quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại,đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác
động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước,nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu
khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ.Đô la hoá ở
đây có khi là nhu cầu,trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
-Thứ tư,mức độ Đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào:


+ Trình độ phát triển kinh tế,cùng tính chất của nền kinh tế đó.Đô la hoá thường rơi vào các nước
có trình độ phát triển thấp,các nước đang phát triển,đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường.
+ Trình độ dân trí và tâm lí người dân.Ở các nước có trình độ dan trí chưa cao,người dân còn thói
quen nắm giữ vàng và đô la Mỹ thì thường là nền kinh tế có mức độ Đô la hoá cao .
+ Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng,nhất là hoạt động thanh toán.Rõ ràng khi hệ thống
ngân hàng còn non trẻ ,hoạt động thanh toán chưa phát triển,công nghệ thanh toán còn lạc hậu thì
thường có tình trạng Đô la hoá nền kinh tế.
+ Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lí ngoại hối,cùng mức độ bảo đảm tính nghiêm minh của cơ
chế quản lí.Nếu như đồng nội tệ ổn định,cơ chế quản lí ngoại hối chặt chẽ thì tình trang Đô la hoá
nền kinh tế đó rất khó xảy ra.
+ Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ_đồng tiền của quốc gia đó.
Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ Đô la hoá càng cao.


5.Các tác động của Đô la hoá:
Đô la hoá có thể có những tác động khác nhau ở mỗi nước.Tuy nhiên,tất cả các nước đều có điểm
chung là chịu tác động của Đô la hoá cả mặt tích cực và tiêu cực.
a)Tác động tích cực:Quá trình Đô la hoá có thể có một số tác động được coi là tích cực.

-Việc sử dụng đồng đô la sẽ tạo ra “một cái van giảm áp lực” cho nền kinh tế trong những
thời kì lạm phát cao,bị mất cân đối,các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định,kết quả của
tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch tập trung.Đồng thời,do có một lượng lớn đô la
Mỹ trong hệ thống ngân hàng nên sẽ cung cấp cho các tác nhân kinh tế một công cụ tự bảo
vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.


Tại các nước Đô la hoá chính thức,bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ,họ sẽ hạ thấp được tỉ lệ
lạm phát hiện tại và rủi ro lạm phát trong tương lai.Các nước này sẽ đảm bảo duy trì được
tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp ở các nước phát hành đồng ngoại tệ.Khi đó,lạm
phát thấp sẽ làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân,khuyến khích tiết kiệm và cho vay
dài hạn.Lạm phát thấp cũng giúp những người nghỉ hưu,những người có thu nhập cố
định,những người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và đảm bảo rằng khoản tiết kiệm
của họ được duy trì giá trị.Hơn nữa,ở những nước này,Ngân hàng trung Ương sẽ không
còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát;đồng thời ngân sách nhà nước sẽ
không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách nhà nước,kỉ
luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt.Do vậy,các chương trình ngân sách sẽ mang tính
tích cực hơn.

-Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế.Với một lượng
lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng,các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền
kinh tế bằng ngoại tệ,qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài,và tăng cường khả năng
kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ.Đồng thời,các ngân hàng sẽ có
điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại,thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong
nước với thị trường quốc tế.


- Hạ thấp chi phí giao dịch.Tại những nước Đô la hoá chính thức,các chi phí như chênh
lệch giữa tỉ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá
bỏ,do đó làm giảm chi phí giao dịch thương mại.Ví dụ :thông qua việc dùng đồng
USD,Mehicô đã giảm được một khối lượng đáng kể chi phí giao dịch thương mại với Nhật
Bản,vì khâu chuyển từ Peso sang USD đã được loại bỏ.Bên cạnh đó,các chi phí dự phòng
cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết,các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ,vì thế
giảm được chi phí kinh doanh.

-Thúc đẩy thương mại và đầu tư.Với mức độ mở cửa lớn hơn và minh bạch hơn,các nước
thực hiện Đô la hoá chính thức có thể laọi bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát
mua ngoại tệ,khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế.Các nền kinh tế Đô la hoá


có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn,chi ngân sách
giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng,đầu tư.
-Lãi suất thấp hơn,khuyến khích phát triển kinh tế.Tại các nước có Đô la hoá chính
thức,người ta sẽ thực hiện so sánh và tiếp nhận đồng tiền nào có giá trị hơn,có mặt bằng lãi
suất thấp hơn.Mặt bằng lãi suất thấp sẽ cho phép tăng trưởng kinh tế cao hơn và sẽ tạo điều
kiện để thu hẹp khoảng cách so với các nước công nghiệp.

-Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên 2 thị trường chính thức và phi chính thức.Tỷ giá chính thức
càng sát với tỉ giá trên thị trường phi chính thức sẽ tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động
từ thị trường phi chính thức(bất hợp pháp) sang thị trường chính thức(hợp pháp).
b)Tác động tiêu cực:Tuy nhiên Đô la hoá cũng bao hàm nhiều tác động tiêu cực
*)Xét về góc độ tài chính:
- Đô la hoá làm yếu kém hoạt động và hiệu quả của chính sách tài chính.
+ Nó hạ thấp doanh thu từ việc phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động của lạm phát
từ việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng.
+ Đô la hoá cũng cho phép một bộ phận nhất định các hoạt động kinh tế trốn thuế

+ Đô la hoá làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước ,xét về khả năng tạo
lợi nhuận cũng như đóng góp cho ngân sách,đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh nông
nghiệp vì nó đã góp phần làm chệch hướng sản xuất sang thị trường không chính thức
- Chi phí lớn trong việc thu hồi nội tệ và đưa đồng ngoại tệ vào lưu thông.
*) Xét về góc độ tiền tệ:
- Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.Trong một nền kinh tế có tỷ
trọng ngoại tệ lớn,việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô,đặc biệt là chính sách tiền
tệ sẽ bị mất tính độc lập và chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế,nhất là khi
xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ:
+ Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán,do đó dẫn đến
việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính
xác và kịp thời.


+ Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài,do đó những cố
gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều
chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
+ Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỉ giá.Đô la hoá có thể làm giảm
hiệu lực của chính sách tỉ giá.Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn
định,do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ,làm cho cầu của đồng
đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,thì quốc gia
bị Đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông
qua việc điều chỉnh lại tỉ giá hối đoái.
Sự yếu kém của chính sách tỉ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị
trường phi chính thức so với thị trường chính thức.
+ Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ.Ở trong các nước Đô la hoá không chính
thức,nhu cầu về nội tệ không ổn định.Trong trường hợp có biến động ,mọi người bất ngờ
chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kì lạm

phát.Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ,những thay đổi về lãi
suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang
đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỉ giá).Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho Ngân
hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất
ổn định trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao,nếu khi có biến động làm cho người dân
đổ xô đi rút ngoại tệ ,trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay,đặc biệt là cho
vay dài hạn,khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị Đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được
vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
- Chính sách tiện tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ.Trong trường hợp Đô la hoá chính
thức,chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết
định.Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kì
tăng trưởng kinh tế giống nhau,sự khác biệt về chu kì tăng trưởng kinh tế tại 2 khu vực
kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.
- Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay
cuối cùng của các ngân hàng.Trong các nước đang phát triển chưa bị Đô la hoá hoàn


toàn,mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp ,song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an
toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng.Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh
ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này.Điều này chỉ có thể làm được với đồng nội
tệ,chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ.Đối với các nước Đô la hoá hoàn toàn
,khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá
sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương
đã bị mất.

II.Thực trạng Đô la hoá ở Việt Nam và những
ảnh hưởng của Đô la hoá đến nền kinh tế
1.Thực trạng Đô la hoá ở nước ta:


Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán
...bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng
đồng đô la.Đến năm 1992,tình trạng Đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền
gửi vào các ngân hàng là bằng USD.Trước tình trạng này,ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
đã cố gắng đảo ngược quá trình Đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh
mức tiền gưỉ bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996.Nhưng tiếp theo
đó,cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị,và
Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng Đô la hoá.Đến cuối năm 2001,tỷ lệ đồng
USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7 %.Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng
kể trong những năm tiếp theo,đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là
22%.Đây là xu hướng tích cực,cho thấy tình trạng Đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân
hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả.Người dân đã có niềm tin vào
đồng tiền nội địa nhiều hơn.Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng
tăng lên,hiện nay đã đạt con số 7 tỷ USD.con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển kinh
tế,nhưng mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ Đô la hoá.


Bảng thống kê tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân hàng
Việt Nam (tính bằng % )
Năm

Tỷ lệ %

1989

28,2

1990


32,4

1991

41,2

1992

30,6

1993

22,9

1994

22,2

1995

21,0

1996

20,3

1997

23,6


1998

24,6

1999

26,1

2000

26,9

2001

31,7

2002

28,4

2003

23,6

Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi,tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so
với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên,cao
hơn cả tiền gửi đô la.Đặc biệt tại Thành Phố Hồ Chí Minh,dư nợ cho vay bằng Đô la Mỹ
cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá,dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay,quan
sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà



Nội,thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm…có thể thấy mức độ sử dụng
đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm.Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị
Đô la hoá một phần.Tuy vậy,mức độ chính xác của Đô la hoá là số liệ rất khó xác
định.Trong một số năm,khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức
cao,để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi vào ngân hàng,các ngân hàng
trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài,chủ yếu là ở
Singapore và Hồng kông,để kiếm lãi suất cao.Điều này có tác động xấu bởi vì những đồng
đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước.
Đến năm 1992,lãi suất đồng đô la giảm mạnh,các ngân hàng Việt Nam không còn thu lời
được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về,con số đó khoảng
từ 3 đến 4 tỷ USD.Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến cuối thời
điểm năm 2003.
Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về,các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cho các
doanh nghiệp trong nước vay để sinh lợi.Tính đến cuối năm 2003,khoản tiền được các
ngân hàng cho vay bằng đô la đã chiếm quá nhiều 28%.
Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều này có vẻ yên ổn đối với các ngân hàng,bởi vì họ
nhận tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro.Nhưng nếu xem xét kĩ,chúng ta
nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng Việt Nam bị giảm giá.Các
doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam,nhưng họ phải trả nợ bằng
đồng USD.Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền
Việt Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro.
Nếu đồng đô la tăng giá,nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ,khi
đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Nhưng trong thời điểm hiện tại,đang diễn ra tình trạng đồng đô la Mỹ bị sụt giá nhanh
chóng.Tỷ giá hối đoái của đồng đô la với Euro trong 4 năm qua đã sụt giảm 40%,riêng
năm 2003 sụt giá 20%.Các nhà quan sát cho rằng đồng đô la Mỹ còn tiếp tục sụt giá với
mức độ nghiêm trọng hơn trong thời gian tới vì các lí do sau:
+ Nước Mỹ đang bị thâm hụt ngân sách nặng nề ( 459 tỷ USD,bằng 3,8% tổng GDP của cả

nước)
+ Tổng số nợ của chính phủ Mỹ trong năm tài chính 2004 là 7.586 tỷ USD (bằng 67,3 %
GDP cả nước),vượt quá mức báo động quốc tế.


+ Thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai năm 2003 tăng vọt lên đến 530,7 tỷ USD
+ Lượng đầu tư nước ngoài vào Mỹ giảm sút nghiêm trọng,trong năm 2003 giảm 44,9 %
so với năm 2002
 Những vấn đề trên đã trở thành áp lực lớn làm cho đồng đô la sụt giá.Đồng thời mối
quan hệ giữa Hoa Kỳ với thế giới A rập xấu đi,làm cho một loạt nước xuất khẩu dầu mỏ
Trung Cận Đông đã giảm bớt cất giữ và sử dụng đô la,mà chuyển qua sử dụng đồng Euro
nhiều hơn trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ.Hơn nữa,Liên bang Nga và một số
nước khác cũng đã và đang có hành động tương tự.Tất cả những điều này gây thêm sức ép
đối với đồng đô la Mỹ,làm tăng khả năng sụt giá của đồng đô la.
Vấn đề đặt ra là nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục sụt giá mạnh thì những thiệt hại gì sẽ xảy ra?
Giả sử mức sụt giá là 20%,hệ quả tất yếu là thu ngoại tệ về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
tính bằng đô la của tất cả các nước trên thế giới đều bị thiệt hại theo tỷ lệ tương ứng.Ngoài
ra,kim ngạch dự trữ ngoại tệ và lượng vốn FDI của tất cả các nước tính bằng đô la cũng sẽ
tự nhiên hao hụt tương ứng.Vốn liếng kinh doanh,tiền tiết kiệm ,tiền lương,quỹ hưu trí,bảo
hiểm,phúc lợi xã hội tính bằng đô la của tất cả mọi người có liên quan đều phải chịu thiệt
hại.Ngược lại,các khoản phải trả về nhập khẩu hàng hoá,dịch vụ chưa thanh toán,các khoản
nợ vay nước ngoài bao gồm tiền gốc và lãi chưa trả tính bằng đô la đều mặc nhiên được
giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt giá của đồng đô la .
Như vậy,việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề vô cùng phức
tạp.Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có một mặt tích cực nào
đấy,nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế
và đẩy lùi tình trạng đô la hoá,tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất
được lưu hành là đồng tiền Việt Nam.
Trong thực tế,chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị Đô la hoá,như tại
Trung Quốc,các ngân hàng không được phép quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la.

Thông thường,Đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là yếu kém,và
đồng đô la được coi là phương tiện cất trữ có giá trị.Tuy nhiên,không phải bất cứ quốc gia
nào có đồng tiền yếu đều bị Đô la hoá trực tiếp.Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế
tương tự Việt Nam như ở Trung Quốc,Thái Lan,Braxin,…không cho phép thanh toán các
loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng đô la .Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp
hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản,mặt hàng điện


tử,xe cộ,phí khách sạn…đã làm tăng quá trình Đô la hoá.Như trên đã phân tích,nếu tình
hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi,có khả năng sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng
tài chính vào một thời điểm nào đấy,thật là vô cùng nguy hiểm.

2.Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào?

a) Nhân tố xác định Đô la hoá tiền gửi:
Nhân tố xác định Đô la hoá tiền gửi là gì?Vì sao lại có hiện tượng Đô la hoá tiền gửi?Đô la
hoá tiền gửi là gì?Đô la hoá tiền gửi được biểu hiện qua con số cụ thể như thế nào?
Để trả lời những câu hỏi này,ta hãy xem xét tình hình kinh tế từ trước đến nay,xem tình
trạng Đô la hoá xảy ra như thế nào?
Có thể nói dư âm của lạm phát cao trong thời kì cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90 vẫn còn
đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không
dại gi mà chuyển sang tiết kiệm bằng VNĐ.Giá trị của đồng nội tệ giảm theo xu hướng
thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách
lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ,đặc biệt là đô la Mỹ.Thêmvào đó,lãi suất tiết
kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng làm gia tăng mức độ Đô la hoá tiền gửi trong hệ
thống ngân hàng.Tỷ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại ngân hàng lớn hơn nhiều so với
việc gửi bằng 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm.
Bảng 1: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng
Đơn vị : %
1994


1995

1996

1997

1998

1999

2000

1.Ngoại tệ

39,2

33,3

31,7

33,2

33,6

39,1

45,3

2.VNĐ


60,8

66,5

68,3

66,8

66,4

60,9

54,7

Tổng

100

100

100

100

100

100

100


Các số liệu tính đến hết tháng 9/2000
Nhận xét :


Nhìn vào bảng 1 nhận thấy rằng mức độ Đô la hoá đáng kể vào năm 1999,sau khi giảm bớt
trong giai đoạn1995-1998 đã thực sự bùng nổ lại vào năm 2000.Đô la hoá không chỉ diễn
ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư,mà còn xuất hiện ở các tổ chức kinh tế-xã
hội.Tiền gửi của tổ chức kinh tế-xã hội tăng mạnh không phải do lãi suất huy động trong
năm 2000 tăng cao ,bởi lãi suất USD ngân hàng trả cho các tổ chức kinh tế gửi tại mình bị
ràng buộc bởi trần lãi suất quy định của Ngân hàng Nhà nước.Nguyên nhân chính làm tăng
tiền gửi của tổ chức kinh tế là do các công ty có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự
án tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu trong năm 2000 nhưng
công ty lại không bán mà gửi lại do tỷ giá VNĐ/USD có xu hướng tăng cao .Như vậy lãi
suất ngoại tệ doanh nghiệp thực hiện sau khi điều chỉnh sự biến đổi tỷ giá sẽ hấp dẫn hơn
gửi bằng VNĐ.Trường hợp thiếu vốn VNĐ,doanh nghiệp sẽ vay của ngân hàng với lãi suất
thật hấp dẫn vì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng khốc liệt hơn.
Với mức độ Đô la hoá tiền gửi diễn ra nhanh trong năm 2000,một loạt các giải pháp đã
được đưa ra để ngăn chặn hiện tượng này.Mặc dù vậy,tình trạng Đô la hoá chưa có dấu
hiệu thuyên giảm đáng kể.Ngân hàng Trung Ương đã can thiệp bằng một số công cụ,sự can
thiệp này một phần đã ngăn chặn làn sóng tăng lãi suất huy động tiết kiệm USD của các
ngân hàng thương mại.Một yếu tố khách quan bên ngoài cũng làm giảm bớt tình hình là
việc lãi suất USD trên thị trường thế giới bắt đầu giảm từ cuối tháng 11/2000 do dự báo
nền kinh tế Mỹ suy yếu.
Công cụ can thiệp đầu tiên của Ngân hàng Trung Ương là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
(DTBB) bằng ngoại tệ từ 5% lên 8% cho kì dự trữ tháng 11/2000.Tuy nhiên sự can thiệp
lần này chỉ tác động đến một số ngân hàng và mức lãi suất giảm không đáng kể.Can thiệp
lần 2 vào tháng 12/2000 tăng từ 8% lên tới 12 % đã thực sự gây cú sốc cho các ngân hàng
thương mại.Kết quả là đồng loạt các ngân hàng hạ lãi suất huy động tiết kiệm USD.Tuy
nhiên,sự can thiệp lần 2 này mới thực sự hữu hiệu khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt

giảm lãi suất chủ đạo xuống còn 6% vào ngày 3/1/2001, đến 31/01/2001 giảm tiếp 0,5%.tại
phiên họp của Uỷ ban tiền tệ ngày 20/03/2001 Fed cắt giảm tiếp mức lãi suất chủ đạo
xuống mức 5,0%.Can thiệp lần 3 vào tháng 4/2001,tăng tỷ lệ DTBB từ 12% lên 15%.Và
đến ngày 18/4 và 15/5/2001,Fed đã hai lần nữa giảm lãi suất chủ đạo (mỗi lần 0,5%) xuống
mức 4%.Như vậy,hàng loạt các chuỗi biến cố xảy ra tác động tới hành vi điều chỉnh lãi
suất của các ngân hàng thương mại.Đến thời điểm cuối quý I/2001,lãi suất huy động tiết
kiệm bằng USD chỉ ở mức 4,155-4,255/năm.


Kết hợp với biện pháp tăng tỷ lệ DTBB nhằm điều chỉnh lãi suất huy động tiết kiệm bằng
USD của các ngân hàng thương mại,ngày 28/03/2001,Ngân hàng Trung Ương đã giáng
một đòn mạnh vào các doanhnghiệp thiếu vốn quay vòng nhưng lại không muốn bản tệ thu
được từ hoạt động xuất khẩu hoặc có ý đồ đầu cơ ngoại tệ.Theo Quyết định số
238/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước,lãi suất tiền gửi không kì hạn của pháp
nhân tại ngân hàng là 0,1%/năm,kì hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm,kì hạn trên 6 tháng là
2,0%/năm.
Với mức lãi suất này,kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian đầu năm 2001 sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp kết hối ngoại tệ nhiều hơn tại ngân hàng,kết quả khan hiếm
cũng giảm theo.Một vấn đề khác có thể nhận thấy rằng trong môi trường tỷ giá tương đối
ổn định,lãi suất VNĐ tương đối cao,việc hạ lãi suất tiền gửi bằng USD của tổ chức kinh tếxã hội tại Ngân hàng Nhà Nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giải toả nguồn ngoại
tệ hiện đang nắm giữ.
Trên cơ sở sự ngang bằng lãi suất,một điều dễ nhận thấy lãi suất VNĐ và USD đã được
điều chỉnh cân bằng ,đặc biệt sau khi Ngân hàng Nhà Nước điều chỉnh lãi suất tiền gửi
bằng USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng thì phần lợi nghiêng về VNĐ.Cụ thể với tỷ
giá VNĐ/USD chỉ tăng 0,25% trong quý I/2001 thì chênh lệch giữa lãi suất VNĐ so với
đô la sau khi có sự điều chỉnh tỷ giá là +0,47%.Giả sử tỷ giá trong quý II/2001 tăng tương
đương quý I/2001,lãi suất VNĐ không biến động thì chênh lệch được nới rộng tới
+0,72%.Như vậy,rõ ràng các doanh nghiệp có lợi hơn khi gửi bằng VNĐ .Với chiều hướng
này,các doanh nghiệp sẽ kết hối ngoại tệ nhiều hơn.
Cũng xét trên mức ngang giá giữa lãi suất tiết kiệm VNĐ và USD sau khi điều chỉnh tỷ giá

thì thấy rằng công chúng đổ xô chuyển đổi tiết kiệm ra USD trong năm 2000 là quyết định
đúng đắn,bởi tỷ lệ lợi tức nếu đầu tư bằng USD cao hơn nhiều so với bằng VNĐ.Nhưng
trong năm 2001,hiện tượng này sẽ ngừng lại bởi Ngân hàng Nhà Nước sẵn sàng can thiệp
sâu hơn nếu xu hướng Đô la hoá lại tăng cao.
Như vậy,bằng hai công cụ can thiệp,Ngân hàng Nhà nước đã ngăn chặn được làn sóng
công chúng chuyển đổi hình thức tiết kiệm cũng như giảm bớt hiện tượng găm giữngoại tệ
của các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu.Mặt khác,các giải pháp này
không tạo ra tác động ngược đối với việc khuyến khích lượng kiều hối chuyển về nước
nhưng lại có lợi là ngăn chặn được thị trường ngoại tệ ngầm có cơ hội phát triển và gây
lũng loạn.Tuy nhiên tỷ giá ổn định,lãi suất tiết kiệm bằng USD thấp,lạm phát ở mức thấp


cũng chưa làm chuyển biến thực sự hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ của công chúng
trong thời gian một sớm một chiều .
b) Nhân tố quyết định Đô la hoá cho vay:
Trên cơ sở lí thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế Đô la hoá ,các ngân hàng cho vay
bằng USD nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn.Ngược lại,tín dụng bằng nội tệ tăng
cao.Trường hợp Đô la hoá ở Việt Nam có nằm ngoài phạm vi hay không?
Bảng 2 :Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng
Đơn vị tính :%
1994

1995

1996

1997

1998


1999

2000

1.Ngoại tệ

38,6

38,7

36,6

31,2

25,2

22,6

18,6

2.VNĐ

61,4

61,3

63,4

68,8


74,8

77,4

81,4

Tổng

100

100

100

100

100

100

100

Số liệu tính đến hết tháng 10/2000
Nhìn vào bảng 2 thấy rằng cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đến năm 2000 chỉ
chiếm chưa đầy 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng,bảng 2 mô tả
tỷ trọng cho vay bằng ngoại tệ so với tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng cho thấy
Đô la hoá ở các khoản cho vay ở mức trung bình,nhưng đánh giá qua tốc độ tăng trưởng
liên hoàn(bảng 3) Đô la hoá cho vay hầu như không diễn ra trong 3 năm qua (1998-2000).
Tại sao các doanh nghiệp lại không mặn mà với việc sử dụng vốn ngoại tệ?Như chúng ta
đã phân tích ở trên,doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ vừa phải chịu lãi suất USD khá cao so

với VNĐ,vừa phải gánh thêm phần giảm giá đồng nội tệ.Nếu trong năm 2000,khách hàng
vay ngoại tệ với lãi suất cực kì ưu đãi ở mức 5,8-6,6%/năm thì lãi suất sau điều chỉnh mức
độ giảm giá của VNĐ so với USD đã lên tới 9,2-9,4%/năm.Trong khi đó vay bằng
VNĐ,các doanh nghiệp chỉ phải trả ở mức 8,0%-8,5%/năm,mức ưu đãi là 7,58%/năm.Hơn nữa,doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu và thu lại
chủ yếu là bằng USD.Trên cơ sở đã phân tích,doanh nghiệp thấy vay bằng VNĐ sau đó
chuyển sang mua ngoại tệ nhập khẩu sẽ có lợi hơn.Ngoại trừ doanh nghiệp có nguồn ngoại
tệ để cân đối khoản vay bằng ngoại tệ.


Bảng 3:Tốc độ tăng trưởng liên hoàn cho vay ngoại tệ,VNĐ của hệ thống ngân hàng (năm
gốc 1994)
1995

1996

1997

1998

1999

2000(a)

1.Ngoại tệ

+27,0

+13,5

+4,5


-5,6

+0,2

+2,0

2.VNĐ

+26,6

+24,1

+33,0

+26,8

+12,0

+30,0

(a)

:Số liệu tính đến hết tháng 10/2000

Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi tăng lên không phù hợp với tỷ trọng gia
tăng của tín dụng bằng ngoại tệ trong tổng tín dụng ngân hàng.Do đó chênh lệch giữa giữa
vốn huy động và cho vay khách hàng được nới rộng ra.Để sử dụng phần vốn ngoại tệ dư
thừa,các ngân hàng chỉ chọn lựa danh mục đầu tư là trái phiếu chính phủ của nước phát
hành bằng ngoại tệ hay gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế.Chính vì vậy,đây là nguyên nhân

giải thích vì sao tiền gửi tại nước ngoài của các ngân hàng tăng lên.Sự đáo hối không phải
do các ngân hàng không muốn đầu tư vào trong nước mà là chính khách hàng từ chối vay
bằng ngoại tệ.Bảng 4 dưới đây chỉ rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoai tệ.
Trong giai đoạn 1994-1997,cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động của các ngân
hàng,do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này.Giai đoạn 1996-2000 có xu
hướng ngược lại,đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động,giải toả
phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa,các ngân hàng kinh doanh trên thị trường tiền tệ quócc
tế hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ
Bảng 4:Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng
Đơn vị :%

Tỷ trọng

1994

1995

1996

1997

1998

1999

135

148

141


104

73

47

Như vậy hiện tượng Đô la hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh ở trạng thái Đô la hoá tiền
gửi.Đến đây có thể khẳng định rằng việc sử dụng các công cụ hành chính để ngăn chặn Đô
la hoá tiền gửi là không hợp lí.Những giải pháp hợp lí hơn sẽ được sử dụng bảo đảm không
đi ngược xu hướng tự do hoá tài chính cũng như nới lỏng kiểm soát ngoại tệ,là Ngân hàng
Nhà nước thực hiện can thiệp bằng công cụ tỷ lệ DTBB và điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng
USD của pháp nhân tại ngân hàng.Tỷt giá VNĐ/USD ổn định,duy trì mức cân bằng lãi suất


VNĐ và USD sẽ tạo điều kiện cho công chúng mạnh dạn lựa chọn hình thức tiết kiệm
bằng VNĐ.

3.Nhận định vấn đề:

Dựa trên tình hình Đô la hoá nêu trên và các con số cụ thể thể hiện về Đô la hoá tiền gửi và
tiền vay tại Việt Nam thì thấy rằng mức độ Đô la hoá ở Việt Nam không quá trầm
trọng,mới chỉ dừng lại ở mức là công chúng lựa chọn tài sản tiết kiệm bằng ngoại tệ,bởi nó
có tỷ lệ lợi tức hấp dẫn và tự phòng ngừa được sự biến động của tỷ giá,lạmphát.Bên cạnh
những nhược điểm nếu các ngân hàng thương mại quá chú trọng tới hình thức huy động
vốn ngoại tệ,nguồn vốn ngoại tệ cũng có những ưu điểm riêng của mình.Đơn cử rằng,nếu
các ngân hàng thương mại không huy động vốn ngoại tệ thì hỏi rằng liệu các dự án cần vốn
ngoại tệ có vay được vốn ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại trong nước với lãi suất
tương đối rẻ là SIBOR 6 tháng cộng với biên độ từ +0,8%/năm đến 1,2%/năm trong thời
gian qua hay không.Lí do các ngân hàng thương mại sẵn sàng cho vay với mức lãi suất

thấp như vậy là vì các ngân hàng huy động được nguồn vốn ngoại tệ của dân cư với lãi
suất thấp.
Trong trường hợp ngân hàng thương mại không huy động vì coi nó là bất lợi thì chác chắn
các dự án này sẽ phải chịu lãi suất cao hơn bởi các ngân hàng lúc này sẽ phải đi vay ở nước
ngoài.Trong trường hợp này thì doanh nghiệp phải chịu lãi suất ít nhất ở mức SIBOR 6
tháng cộng với biên độ từ +1,8%-2%/năm.Như vậy,huy động vốn ngoại tệ cũng có lợi cho
nền kinh tế
Tuy nhiên,tỷ trọng vốn ngoại tệ trong tổng vốn huy động phải duy trì ở mức phù hợp với
nhu cầu vốn ngoại tệ của nền kinh tế để tránh hiện tượng Đô la hoá tiền gửi,nhưng không
bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.
Một vấn đề khác cũng nhận thấy là,nhờ chính sách khuyến khích nguồn kiều hối nên tốc
độ huy động vốn tăng vượt số lượng cho vay bằng ngoại tệ.Kết quả là các ngân hàng trả nợ
trước hạn hoặc không phải tìm nguồn vốn nước ngoài để tài trợ cho các dự án lớn,khách
hàng có nhu cầu vay lớn.Điều này có nghĩa là các ngân hàng giảm bớt được rủi ro bởi tác


động của nhân tố bên ngoài cũng như rủi ro của tỷ giá,gánh nặng lãi suất,sau đó các doanh
nghiệp cũng được hưởng lãi suất vay thấp hơn.
Mặc dù vậy,phần vốn ngoại tệ dư thừa chưa sử dụng trong đầu tư vào nền kinh tế được
xem như phần vốn lãng phí .Làm thế nào để nguồn vốn này được sử dụng tối đa trong
nước?Trong khi doanh nghiệp ngại vay ngoại tệ,giải pháp cần lựa chọn là làm thế nào để
giảm bớt Đô la hoá tiền gửi,đồng nghĩa với việc tăng lượng vốn huy động VNĐ hay
khuyến khích người thụ hưởng tiền hối,công chúng giữ ngoại tệ chuyển sang VNĐ.Với
công cụ can thiệp của Ngân hàng Nhà nước là duy trì tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ ở mức
cao,tỷ giá ổn định,cung cầu ngoại tệ phù hợp,lập lại lãi suất cân bằng VNĐ-USD,giữ lãi
suất tiền gửi của pháp nhân bằng USD ở tỷ lệ thấp sẽ tạo ra những phản ứng tích cực ,công
chúng có nguồn tiết kiệm bằng VNĐ sẽ không chuyển sang tiết kiệm bằng USD,thị trường
ngoại tệ ổn định sẽ không gây cho tỷ giá trên thị trường ngầm biến động mạnh,giảm bớt
hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp.Kết quả là tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại
tệ trong tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng sẽ thuyên giảm.


4.Những ảnh hưởng của Đô la hoá đến nền kinh tế Việt
Nam:
a) Những ảnh hưởng có lợi:
Nó tạo ra cơ hội tái trung gian trong nền kinh tế khi phải trải qua các thời kì lạm phát rất
cao và các điều kiện kinhtế vĩ mô không ổn định.Đó là vì có một lượng đô la Mỹ trong hệ
thống ngân hàng,cũng như không có tình trạng người dân ồ ạt đổ xô dùng nội tệ đi mua đô
la Mỹ.
Khi có một lượng lớn ngoại tệ,các ngân hàng có điều kiện mở rộng các hoạt động của
mình,nhất là hoạt động đối ngoại.Hơn nữa,sự tồn tại các khoản tiền gửi bằng đồng đô la
Mỹ tại các ngân hàng trong nước tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị truờng
khu vực và thế giới ,giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế.
Một lượng lớn đô la Mỹ được gửi trong các ngân hàng,tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để
cho vay và đầu tư cho nền kinhtế,hạn chế việc phải đi vay nước ngoài.Song trong điều kiện
cho vay bằng ngoại tệ của các ngân hàng gặp khó khăn,thì với lãi suất trên thị truờng thế
giới cao ,các ngân hàng trong nước đem gửi ở nước ngoài.Rõ ràng là giống như người dân


cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ ở nhà,các ngân hàng cũng có thu nhập về
nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích như ở phần bên.Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại
tệ.Theo số liệu của IMF,dự trữ ngoại tệ của viêt Nam hiện nay là 3.297 triệu USD,tương
đương 9,7 tuần nhập khẩu,cùng với nguồn ngoại tệ khác là gần 2,5 tỷ USD của các ngân
hàng trong nước gửi ở nước ngoài.Còn theo số liệu công bố của ADB thì năm 2000 dự trữ
ngoại tệ chính thức của Viêt Nam là 3,9 tỷ USD,tương đươnglà 13,9 tuần nhập khẩu (năm
1999 là 2,95 tỷ USD,tương đương 12,5 tuần nhập khẩu).ADB cũng dự đoán đến hết năm
2001,con số này của Việt Nam cũng tăng lên là 4,66 tỷ USD ,tương ứng với 14 tuần nhập
khẩu.
b)Những ảnh hưởng bất lợi:
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn,việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ
mô,đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn

biến kinh tế quốc tế,nhất là khi có các cuộc khủng hoảng xảy ra.Đô la làm giảm hiệu quả
điều hành chính sách tiền tệ,gây khó khăn cho việc dự báo diễn biến tổng phương tiện
thanh toán.Qua đó,việc quyết định tăng,giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và
kịp thời.
Đô la hoá cũng làm cho cầu tiền đồng Việt Nam nhạy cảm hơn đối với những thay đổi từ
bên ngoài,những cố gắng trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu
nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay đều trở nên kém hiệu quả.
Tình trạng Đô la hoá có tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá.Đô la
hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định do người cư trú có xu hướng chuyển
từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ,làm cho cầu đô la Mỹ tăng mạnh,gây sức ép đến tỷ giá.
Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi dân cư bằng ngoại tệ cao như hiện nay,thì các ngân hàng sẽ
gặp khó khăn về khả năng thanh toán .Khi có những biến động làm người dân đổ xô đi rút
ngoại tệ trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay,đặc biệt là cho vay dài
hạn.Khi đó,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức
năng phát hành đô la Mỹ

Tình trạng Đô la hoá tăng cao sẽ gây nhiều khó khăn,cản trở việcthực hiện mục tiêu quản lí
ngoại hối là “Trên đất Việt Nam chỉ dùng đồng Việt Nam”.


Tại Việt Nam,những biến động của lãi suất quốc tế có tác động đến xu hướng chuyển dịch
từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ.VD năm 2000,lãi suất đô la Mỹ trên thị trường thế giới
tăng có tác động làm tăng tiền gửi ngoại tệ của dân cư.Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho sức mua của xã hội giảm xuống,gây ra tình trạng giảm phát,thiếu tiền
đồng .

III.Nguyên nhân và giải pháp

1.Nguyên nhân của hiện tượng Đô la hoá ở Việt Nam:


Đối với Việt Nam,ngoài các nguyên nhân chung đã được nêu ở phần I.4,chúng ta cần nhấn
mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng Đô la hoá:
-

Ở Việt Nam thì tình trạng buôn lậu,nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá
phát triển,và sự quản lí lỏng lẻo của chính quyền các cấp.Tình trạng các doanh
nghiệp trong mọi thành phần kinh tế ,các cửa hàng kinh doanh,cửa hiệu vàng bạc,
…bán hàng thu bằng ngoại tệ ,thu đổi ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến.

-

Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp,đa số dân cư có tâm lí tiết kiệm và để
dành,lo xa cho cuộc sống,tĩnh dưỡng tuổi già,lo nơi an chốn ở,lo cho con cái ăn
mạc,học hành,nhất là thói quen cất trữ vàng trong thời gian bao cấp vẫn còn in
đậm trong mọi người dân cho đến nay.
Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ,xu hướng biến đổi của tỷ giá VND/USD

là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền bằng đô la.Trong các năm
đầu thời kì Đổi mới 1989-1992,lạm phát ở mức rất cao.Đồng tiền Việt Nam mất giá
mạnh so với đồng đô la Mỹ,vàng tăng giá rất lớn.Do đó,nhiều người lựa chọn đô la để
cất trữ và gửi ngân hàng.Trong các năm 1999-2001,lãi suất đô la Mỹ trên thị trường
tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao,đỉnh điểm giữa năm 2000 lên tới 6,5 % /năm.Các ngân
hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng,đầu tư trên


×