Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tập trung tổng kết đánh giá tình hình lạm phát tại Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời tìm hiểu những nguyên nhân và Giải pháp cho tình hình đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.01 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều
không thể tránh khỏi một hiện tượng: đó là sự gia tăng liên tục của mức giá
chung,hay còn gọi là lạm phát. Vậy lạm phát là gì? Nó có những tác động như
thế nào mà chúng ta phải quan tâm và theo dõi? Trong khuôn khổ bài viết này,
chúng tôi xin trình bày những vấn đề cơ bản và mở rộng về lạm phát cũng như
việc kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Viết Nam.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên đồng
loạt của giá cả và sự mất giá của đồng tiền.lạm phát mỗi lần xuất hiện đều mang
theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn, làm rối loạn nền kinh tế, làm phức tạp xã
hội,làm giảm sút mức sống của người dân,và có thể nếu ở một mức nào đó thì
lạm phát gây ra rối rên chinh trị-xã hội.
Bài viết này tập trung xem lai nền tảng của lý thuyết truyền thống về lạm
phát và xem xét ứng dụng này trong thực tế tại Việt Nam hiện nay.Cụ thể:
Phần một: Xem xét vấn đề lạm phát về mặt bản chất
Phấn hai: Tập trung tổng kết đánh giá tình hình lạm phát tại
Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời tìm hiểu
những nguyên nhân và giải pháp cho tình hình đó
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Đào Văn Hùng đã giúp
chúng em hoàn thành bài viết này.
1
PhÇ n 1
Mét sè lÝ luËn chung vÒ l¹m ph¸t
I. Khái niệm, đo lường và phân loại
1. Khái niệm
Lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của
các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa các
khaí niệm khác nhau về lạm phát.
Theo C.Mac trong bộ tư bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh,các
luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt .Ông cho
rằng ngoài giá trị thặng dư, CNTB còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao


động một lần nữa do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động
giảm xuống.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng : lạm phát biểu thị một sự tăng
lên trong mức giá cả chung .Theo ông :”Lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng -giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá
đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng.”
Còn Milton Friedman thì quan niệm :”Lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài ”. Ông cho rằng :”Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là
hiện tượng tiền tệ ”. Ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc
phái tiền tệ và phái Keynes tán thành.
Hiện nay lạm phát được định nghĩa là sự tăng lên liên tục trong mức giá
chung. Điều này không nhất thiết có nghĩa là giá cả của mọi hàng hóa và
dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá
trung bình tăng lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của
một số hàng hóa giảm, nếu như giá của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ
mạnh.
2
2. Đo lường
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ
nhất định, các nhà thầu kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng
phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính
theo công thức sau:
P t – P t-1 * 100 %
Л t = P t –1
Trong đó:
Л t : Tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quý, hoặc năm)
P t : Mức giá của thời kỳ t
P t –1 : mức giá của thời kỳ trước đó
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải
quyết định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử

dụng chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức
giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu xác định ảnh hưởng của lạm phát đến
mức sống thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế,
các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI.
3. Phân loại
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ
lệ lạm phát. Việc phân loại lạm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về
tác động của lạm phát, còn trong mục này chúng ta sẽ phân loại lạm phát
theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này các nhà kinh tế thường
phân biệt 3 loại lạm phát: Lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm
phát
Lạm phát vừa phải: là lạm phát ở mức thấp và có thể dự đoán được, lạm
phát dưới một con số và mọi người tin tưởng vào đồng tiền và sẵn sàng gửi
tiền cũng như ký hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền.
3
Lạm phát phi mã: là lạm pháp trong phạm vi hai con số hoặc ba con số
một năm. Lạm phát phi mã làm xuất hiện nhiều biến dạng kinh tế quan trọng,
có thể gây khủng hoảng các thị trường tài chính.
Siêu lạm phát: Lạm pháp xảy ra khi giá cả tăng với tỉ lệ cao tới con số
hàng ngàn, hàng triệu phần trăm một năm. Lạm pháp ở Đức trong những
năm 1992, 1923 là một ví dụ điển hình.Từ tháng giêng 1992 đến tháng 1 năm
1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 triệu lên 10 triệu. Siêu lạm pháp làm rối loạn
nền kinh tế .
II . Những quan điểm về lạm pháp
1. Quan điểm của phái tiền tệ
Thứ nhất, chúng ta hãy nhìn xem kết quả của việc cung tiền tệ tăng
lên kéo dài, khi sử dụng cách phân tích của phái tiền tệ (Hình 1). Ban đầu,
nền kinh tế ở điểm 1 với sản lượng ở mức tỉ lệ tự nhiên và giá cả tại P1
(điểm cắt nhau của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1). Nếu
cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu

di chuyển sang phải đến AD2. Trước tiên trong một thời gian rất ngắn, nền
kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1’ và sản lượng có thể tăng lên trên
mức tỉ lệ tự nhiên đến Y’, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức
tỉ lệ tự nhiên sẽ làm cho lương tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng
di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển khi nào đạt đến AS2, tại thời điểm đó
nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản lượng trên đường tổng cung
dài hạn. Ở điểm thăng bằng mới điểm 2, mức giá tăng từ P1 lên P2.
Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đường tổng cầu sẽ lại di chuyển
vào từ AS2 đến AS3, nền kinh tế sẽ chuyển động sang điểm 2’ và sau đó
sang 3, tại đây mức giá cả tăng đến P3. Nếu cung tiền tệ tiếp tục tăng trong
những năm tiếp theo thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến những mức
giá càng cao hơn nữa . Khi mà cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp
tục và lạm phát sẽ xảy ra .
Trong cách phân tích của phái tiền tệ, nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm
phát là do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy

4
AS3 AS2 AS1

P3 3’
P2 3 2’
P1 2 1’
1
AD1 AD2 AD3
Hình 1
2. Quan điểm của phái Keynes
Cách phân tích của phái Kenyes chỉ ra rằng: Cung tiền tệ tăng kéo dài sẽ có
ảnh hưởng như nhau đối với đường tổng cung và tổng cầu mà cúng ta thấy
trong hình 1: Đường tổng cầu sẽ di chuyển sang phải và đường tổng cung sẽ di
chuyển vào. Giống như kết luận của phái tiền tệ. Việc tăng nhanh cung tiền tệ

sẽ làm cho mức giá tăng kéo dài với tỉ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát.
3. Tốc độ lưu thông và phương trình số lượng
Chúng ta có thể nhìn lý thuyết số lượng tiền dưới phương diện khác bằng
cách xem xét câu hỏi sau: một đồng đô la điển hình được sử dụng bao nhiêu lần
trong một năm để mua hàng hoá và dịch vụ? Một biến số được gọi là tốc độ lưu
thông tiền tệ đem lại câu trả lời cho câu hỏi này. Trong vật lý, từ tốc độ lưu
thông được dùng để chỉ tốc độ chuyển động của một vật. Trong kinh tế, từ này
được dùng để chỉ tốc độ di chuyển của đồng đô la diển hình từ ví của người này
sang ví của người khác.
Để tính tốc độ lưu thông tiền tệ, chúng ta lấy giá trị danh nghĩa của sản
lượng (GDP danh nghĩa) chia cho lượng tiền. Nếu P là mức giá ( chỉ số điều
5
chỉnh GDP ), Y là sản lượng ( GDP thực tế ), và M là lượng tiền, thì tốc độ lưu
thông tiền tệ bằng:
V = ( P*Y)/M
Phương trình trên có thể viết lại thành:
M*V= P*Y
Phương trình số lượng cho thấy sự gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế
phải biểu hiện ở một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải
tăng, hoặc tốc độ lưu thông tiền tệ phải giảm.
Trong nhiều trường hợp, tốc độ lưu thông tiền tệ tương đối ổn định. Ví dụ
GDP danh nghĩa, khối lượng tiền tệ (M2) và tốc độ lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế Mỹ sau năm 1960. Mặc dù tốc độ lưu thông tiền tệ không hoàn toàn cố
định, nhưng không có sự thay đổi lớn. Ngược lại, cung ứng tiền tệ và GDP danh
nghĩa trong thời kỳ này tăng gấp 10 lần. Do vậy trong một số trường hợp, giả
định tốc độ lưu thông tiền tệ không đổi là một giả định hợp lý.
Bây giờ chúng ta đã có tất cả các yếu tố cần thiết để lý giải mức giá cân
bằng và tỷ lệ lạm phát. Sau đây là những yếu tố đó:
- Tốc độ lưu thông tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian.
- Vì tốc độ lưu thông tiền tệ ổn định, nên khi thay đổi khối lượng tiền tệ

(M) nó gây ra sự thay đổi tương ứng trong giá trị sản lượng danh nghĩa
( P*Y)
- Sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế (Y) được xác định bởi các
nhân tố sản xuất ( lao động , tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên
thiên nhiên ) và trình độ công nghệ hiện tại. Nhưng vì tiền có tính trung
lập, nên nó không ảnh hưởng đến sản lượng.
- Với sản lượng (Y) phụ thuộc vào các nhân tố sản xuất và công nghệ, thì
khi thay đổi khối lượng tiền tệ ( M) và gây ra những thay đổi tương ứng
trong giá trị sản lượng danh nghĩa ( P*Y) thì những thay đổi này được
phản ánh lại trong sự thay của mức giá (P).
- Do vậy, khi tăng cung ứng tiền tệ một cách nhanh chóng, thì kết quả là tỷ
lạm phát cao.
6
Năm bước này là bản chất của lý thuyết số lượng tiền tệ.
III. Nguyên nhân gây ra lạm phát :
Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, xong các nhà kinh tế vẫn
còn những bất đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm
phát mà dưới đây chúng ta sẽ giới thiệu những lý thuyết chính.
1. Lạm phát cầu kéo
Một trong những nguyên nhân chính gâ ra lạm pháp là sự thay đổi trong
đầu tư, chi tiêu của chính phủ hay xuất khẩu ròng có thể làm thay đổi tổng cầu
và đẩy sản lượng vượt quá mức tiềm năng của nó. Điều này có thể xảy ra khi
nền kinh tế quá nóng, mức đầu tư tăng quá nhanh hoặch chính phủ làm tăng
mức cung tiền quá lớn. Phải dùng quá nhiều tiền để săn đuổi lượng hàng hoá có
hạn.
Bắt đầu từ mức cân bằng ban đầu tại điểm E, giả sử có một sự mở rộng
chi tiêu làm đẩy đường AD dịch chuyển lên trên đến AD’. Trong ngắn hạn, sản
lượng chỉ có thể tăng có hạn nên đường tổng cung trong ngắn hạn có hình dạng
dốc lên như hình 2 do vậy điểm cân bằng chuyển từ E đến E’ làm cho mức giá
tăng từ P lên P’ gây ra lạm phát.

Hình 2
7
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xẩy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên
trong lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cầu - tổng cung, một cú
sốc như vậy sẽ làm giảm tổng cung, đường tổng cung dịch chuyển lên trên.
Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động
theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng.
Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm
phát kèm suy thoái.
Ba lọai chi phí có thể gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên
cao làm tăng chi phí, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm
phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên
nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiên tệ.
P AS
1
E
1
AS
0
P
1
P
0
E
0

AD
0


Y
1
Y
*

Hình 3
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản
xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu,
các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động
trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so sách với các nước phát triển là những nước
có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận định rằng ở các nước đang phát
triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì
thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
8
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu, máy móc cần
thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được thì sự thay đổi giá cả
của chúng (có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có
ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá cả của chúng
tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị
trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm
phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra
tác động tổng hợp, làm cho lạm phát ra tăng với tốc độ cao (lạm phát cao) và rất
cao (siêu lạm phát). Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các chính
sách thích nghi, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình
của nhiều nước trong những năm 1970 và 1980.
3. Lạm phát ỳ
P AS
2

AS
1
P
2
AS
0
P
1
AD
2

P
0
AD
1
AD
0
Y
*
Y
Hình 4

Trong nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm
phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên
theo tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là
loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến
khi thoả thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai. Chúng
ta có thể coi đó là tỷ lệ lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và nó sẽ được duy trì
cho đến khi có các cú sốc tác động đến nền kinh tế.
9

Biểu đồ trên cho thấy lạm phát ỳ xẩy ra như thế nào. Cả đường tổng
cung và đường tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản
lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn
định theo thời gian.
4. Lạm phát tiền tệ
Theo lý thuyết số lượng tiền tệ, lượng tiền tệ có trong nền kinh tế
quyết định giá trị của tiền và sự gia tăng khối lượng tiền tệ là nguyên nhân chủ
yếu gây ra lạm phát. Nhìn vào hình 5 ta thấy khi tăng cung ứng tiền tệ, đường
cung tiền tệ dịch chuyển từ MS1 sang Ms2. Giá trị của tiền (trục bên trái) và
mức giá (trục bên phải) điều chỉnh để làm cho cung và cầu cân bằng trở lại.
Trạng thái cân bằng chuyển từ điểm A tới điểm B. Kết quả là, giá trị của tiền
giảm từ 1/2 xuống 1/4 và mức giá cân bằng tăng từ 2 lên 4. Nói cách khác, khi
sự gia tăng của cung ứng tiền tệ làm cho lượng đô la trở nên nhiều hơn, mức giá
sẽ tăng, làm cho mỗi đồng đô la có giá trị hơn.
3/4
1/2
cao
1/4
MS
1
MS
2
1.33
2
4
1
A
B
Giá trị của
tiền(1/p)

Mức giá (p)
thấp
caothấp
cầu tiền
lượng tiền
M
1
M
2
Hình 5: sự gia tăng trong cung ứng
tiền tệ.
10
IV. Hậu quả và ảnh hưởng của lạm phát tới nền kinh tế
1. Những tổn thất xã hội của lạm phát
Tại sao người ta không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa luôn
tăng cùng với mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên luôn luôn không đổi.
Song điều này thường khó xảy ra.Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan
trọng đến những tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội.
Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát được dự tính trước và lạm phát
không được dự tính trước.
1.1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước xảy ra khi lạm phát xảy ra đúng
như tính từ trước của các nhà kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản cho
vay cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa đã được điều chỉnh cho phù hợp
với lạm phát. Loại lạm phát này gây ra tổn thất gì cho xã hội.
Tiền chi phí mòn giầy: lạm phát là một loại thuế đánh vào những người
giữ tiền. Để tránh loại thuế này, mọi người nắm giữ ít tiền hơn và đầu tư nhiều
hơn vào tài sản có lãi khi lạm phát cao và ngược lại. Kết quả là mọi người phải
đi đến ngân hàng nhiều hơn so với khi không có lạm phát. Những chi phí này
được mô tả dưới hình thức ẩn dụ là chi phí mòn giày (do giày của bạn bị mòn

khi phải đến ngân hàng nhiều lần). Chi phí thực tế của việc năm giữ ít tiền mặt
hơn là sự lãng phí thời gian và sự bất tiện. Khi tỷ lệ lạm phát cao, loại chi phí
này không phải nhỏ.
Chi phí thực đơn: có nhiều khoản chi phí gắn với sự thay đổi của giá cả
như chi phí để in các bảng thực đơn mới, bảng giá và catalo mới, chi phí bưu
điện để phân phối chúng, chi phí quảng cáo giá mới và chi phí cho việc đưa ra
quyết định về giá mới.
Biến động của giá tương đối và tình trạng phân bổ nguồn lực sai lầm: vì
việc thay đổi giá cả rất tốn kém, nên các doanh nghiệp phải hạn chế thay đổi giá
cả đến mức tối thiểu. Khi có lạm phát, giá tương đối của hàng hóa có giá cố
định trong một thời gian sẽ giảm đi so với mức giá bình quân. Điều này làm cho
sự phân bổ nguồn lực trở nên sai lầm vì các quyết định kinh tế được đưa ra dựa
trên giá tương đối. Một hàng hóa mà giá của nó chỉ thay đổi một lần trong một
năm sẽ đắt hơn một cách giả tạo vào đầu năm, và rẻ hơn một cách giả tạo vào
cuối năm.
11
Những biến dạng của thuế do lạm phát gây ra: lạm phát làm tăng gánh
nặng thuế đánh vào thu nhập từ tiết kiệm và bởi vậy gây trở ngại cho tiết kiệm
và tăng trưởng.
Sự nhầm lẫn và bất tiện: với tư cách đơn vị hạch toán, tiền là một thước
đo mà chúng ta sử dụng để đo lường và tính toán các giá trị kinh tế. Khi NHTW
tăng cung tiền và gây ra lạm phát, giá của tiền giảm và thước đo kinh tế bị co
lại. Điều này làm cho việc hạch toán lợi nhuận trở nên khó khăn hơn và việc lựa
chọn đầu tư của các doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Nó cũng làm cho các
giao dịch hằng ngày dễ nhầm lẫn hơn.
1.2. Đối với lạm phát không dự tính được
Những tác hại của lạm phát được đề cập ở trên xảy ra ngay cả khi lạm
phát có thể dự tính được. Nhưng đối với lạm phát không dự tính được nó còn
gây ra thêm sự tái phân phối của cải một cách tùy tiện, ví dụ: các điều kiện cho
vay nói chung được biểu thị bằng các giá trị danh nghĩa dựa trên một tỷ lệ lạm

phát dự tính nhất định, song nếu lạm phát cao hơn mức dự tính, nó sẽ gây ra
những sai lạc trong phân bổ, người cho vay bị thiệt và nguy hiểm nhất là rơi vào
tình trạng lãi suất thực âm. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến đời sống xã hội,
khi những người dân hưởng lương từ khu vực Nhà nước chỉ được nhận mức
tiền lương danh nghĩa. Nếu lạm phát được dự kiến một cách chính xác thì hiện
tượng tái phân phối thu nhập như vậy không xảy ra cho dù quy mô lạm phát là
bao nhiêu. Tuy nhiên lạm phát cao thường không ổn định, lạm phát thấp bao
giờ cũng tốt hơn, bởi vì nó ổn định hơn và có thể được dự kiến chính xác hơn.
2. Ảnh hưởng của lạm phát
2.1. Ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế
Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng lạm phát và
tăng trưởng kinh tế có quan hệ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm
phát. Có thể khái quát lý thuyết này qua công thức đơn giản sau:
g = GDP
1
/GDP
0
= P
1
xQ
1
/P
0
xQ
0
12
Trong đó:
g – Tăng trưởng kinh tế.
GDP

1
- tổng sản phẩm quốc nội năm tính toán.
GDP
0
- Tổng sản phẩm quốc nội năm trước năm tính toán.
P
1
- Mức giá chung năm tính toán.
P
0
- Mức giá chung năm trước năm tính toán.
Q
1
- Mức hàng hoá hiện vật năm tính toán.
Q
0
- Mức hàng hoá hiện vật năm trước năm tính toán.
Có thể viết lại công thức:
g = (P
1
/P
0
)x(Q
1
/Q
0
) = p x q
Trong đó p là mức lạm phát trong năm; q là mức tăng sản phẩm trong năm.
Với lý luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu
tố tích cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát làm tăng tiết kiệm

và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương sang tăng thu
nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm
tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương.
Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế sẽ tăng lên. Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế.
Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng lạm phát làm mức lãi
suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này làm cho cung
ngồn vốn đầu tư giảm, đầu tư tư nhân bị hạn chế. Do đó lạm phát đưa đến giảm
lãi suất thực dương và mất cân bằng ở thị trường vốn, kết quả là đầu tư và tăng
trưởng kinh tế giảm.
Kết quả nghiên cứu của Bruno (1995) cho thấy rằng tăng trưởng giảm
mạnh trong các thời kỳ lạm phát cao (khoảng hơn 40% năm). Và nhìn chung
tăng trưởng được khôi phục nhanh sau khi lạm phát được ổn định. Sarel (1996)
cũng cho rằng ảnh hưởng xấu của lạm phát vào tăng trưởng kinh tế bắt đầu
đáng kể khi mức lạm phát thấp hơn (khoảng 8-10% năm).
13

×