Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ

NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số

: 60.38.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI – 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc thực hiện
một cách trung thực, không sử dụng bất hợp pháp công trình của bất cứ tác giả nào.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
BLDS


: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP TANDTC

: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

NLHVDS

: Năng lực hành vi dân sự

NLHVTTDS

: Năng lực hành vi tố tụng dân sự

NLPL

: Năng lực pháp luật

NLHV

: Năng lực hành vi

UBND

: Ủy ban nhân dân


UNDP

: Ủy ban về đảm bảo pháp lý cho ngƣời nghèo

PLTTTTGQCVADS

: Pháp lệnh trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVALĐ

: Pháp lệnh trình tự thủ tục giải quyết các vụ án lao động

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh trình tự thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

TA

: Tòa án

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VA


: Vụ án

VVDS

: Vu việc dân sự


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS 5
1.1.1. Khái niệm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS

5

1.1.2. Đặc điểm của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS

7

1.1.3. Vị trí, vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS

9

1.2 Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện

11


của đƣơng sự trong TTDS
1.3 Lƣợc sử pháp luật TTDS Việt Nam về ngƣời đại diện
của đƣơng sự trong TTDS

17

1.3.1 Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945

17

1.3.2 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1989

17

1.3.3 Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

19

1.3.4 Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

20

1.4 Pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS
1.4.1 Quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS trong BLTTDS Pháp

21

1.4.2 Quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS trong BLTTDS
Liên Bang Nga


22


1.4.3 Quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS trong BLTTDS
của Cộng hòa Trung Hoa.

24

Kết luận chƣơng 1

25
Chƣơng 2:

PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
2.1. Quy định về các loại đại diện trong TTDS

26

2.1.1. Ngƣời đại diện theo pháp luật

26

2.1.2. Ngƣời đại diện theo ủy quyền

27

2.2. Quy định về điều kiện trở thành ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong TTDS.


27

2.2.1. Điều kiện về nội dung

27

2.2.2. Điều kiện về hình thức

32

2.3. Quy định về phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện

33

của đƣơng sự trong TTDS
2.3.1. Phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật

33

2.3.2. Phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo ủy quyền

35

2.3.3. Vƣợt quá phạm vi đại diện và hậu quả pháp lý

36

2.4. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS

36


2.4.1. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong TTDS

37

2.4.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự
trong TTDS

41

2.5. Chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý

42

2.5.1. Chấm dứt đại diện theo pháp luật

42

2.5.2. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền

43

2.5.3. Hậu quả pháp lý của chấm dứt đại diện

44


Kết luận chƣơng 2


46
Chƣơng 3:

THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH
VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện

47

của đƣơng sự trong TTDS
3.1.1. Một số vƣớng mắc tồn tại trong thực tiễn thực hiện các quy định về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS
3.1.2. Nguyên nhân của những vƣớng mắc tồn tại

47
57

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về ngƣời đại diện
của đƣơng sự trong TTDS.

59

Kết luận chƣơng 3

69

Kết luận chung

70



1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật không chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ về dân sự cho các chủ thể mà
còn ghi nhận các phƣơng thức nhằm bảo đảm thực thi các quyền, nghĩa vụ đó. Một
phƣơng thức hiệu quả và kịp thời đó là yêu cầu TA bảo vệ quyền lợi của mình theo thủ tục
TTDS. Trong phƣơng thức này, đƣơng sự là chủ thể không thể thiếu, họ có vai trò vô
cùng quan trọng TTDS. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau đƣơng sự có thể không thể
tự mình tham gia tố tụng trƣớc TA. Trong những trƣờng hợp này việc ghi nhận cơ chế
tham gia tố tụng thông qua ngƣời đại diện của đƣơng sự là hết sức cần thiết.
BLTTDS 2004 đã đƣợc Quốc hội khóa XI thông qua tại Kỳ họp thứ Năm ngày 15
tháng 6 năm 2004. Ngƣời đại diện của đƣơng sự đƣợc quy định tại Mục 2 Chƣơng VI (từ
Điều 73 tới Điều 78) và các quy định có liên quan của BLTTDS 2004. Các quy định về
ngƣời đại diện của đƣơng sự tại BLTTDS 2004 đã khắc phục đƣợc đáng kể những hạn
chế, bất cập trong các văn bản tố tụng trƣớc đó. Tuy nhiên, một số quy định về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong BLTTDS 2004 còn chƣa đầy đủ, nhiều quy định còn thiếu tính
cụ thể, rõ ràng, có những vấn đề cần thiết nhƣng chƣa đƣợc luật hóa…
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thƣơng mại và lao động trong thời gian qua cho thấy ngƣời đại diện của đƣơng sự
rất khó khăn và lúng túng trong việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của mình. Ngoài ra, không ít các TA đã có những sai lầm trong quá trình tố tụng
nhƣ: xác định sai tƣ cách tố tụng của ngƣời đại diện của đƣơng sự, không thực hiện đúng
các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự, từ đó dẫn đến hậu quả là quyền và nghĩa vụ
của ngƣời đại diện của đƣơng sự không đƣợc thực hiện hoặc không đƣợc bảo đảm thực
hiện trên thực tế; bản án, quyết định của TA bị hủy làm kéo dài thời gian giải quyết VA.
Ngày 29 tháng 03 năm 2011, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Luật Sửa đổi, bổ sung một số

điều của BLTTDS có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2012 cho thấy hạn chế của các quy
định về ngƣời đại diện của đƣơng sự vẫn chƣa đƣợc khắc phục. Do đó, việc tiếp tục
nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự nhằm đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng của ngƣời


2

đại diện của đƣơng sự là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Với những lý do
trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Người đại diện của đương sự trong TTDS” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy, trong thời gian qua đã có một vài công trình nghiên cứu có liên quan
về ngƣời đại diện của đƣơng sự. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về ngƣời đại
diện của đƣơng sự sau:
Về luận án, luận văn, khóa luận có những công trình sau đây: Luận án tiến sĩ “Bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình; Luận văn
thạc sĩ “Vị trí, vai trò của Luật sư trong TTDS” của tác giả Trần Phƣơng Thảo; Khóa luận
tốt nghiệp “Người đại diện của đương sự trong TTDS” của tác giả Hồ nguyên Bình năm
2010 và của Nguyễn Thị Long năm 2011.
Về giáo trình, sách chuyên ngành tham khảo, chuyên khảo đã xuất bản có đề cập
tới vấn đề ngƣời đại diện của đƣơng sự, bao gồm Giáo trình Luật TTDS Việt Nam
(Trƣờng Đại học Luật Hà Nội) do TS. Nguyễn Công Bình chủ biên năm 2005 đƣợc Nhà
xuất bản Công an nhân dân tái bản năm 2011, Giáo trình Luật TTDS (Học viện Tƣ pháp)
do PGS.TS Phan Hữu Thƣ và TS. Lê Thu Hà chủ biên đƣợc Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản năm 2007, sách “Pháp luật TTDS và thực tiễn thi hành” của tác giả Lê Thu
Hà do Nhà xuất bản Tƣ pháp ấn hành năm 2006.
Ngoài ra, còn có các bài viết trên báo và tạp chí nhƣ bài viết “Một số suy nghĩ về
đại diện của đương sự trong TTDS” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng đăng trên Tạp chí
Khoa học pháp lý số 1/2007; bài viết “Quyền của người đại diện của đương sự được quy

định tại Điều 243 Bộ luật TTDS” của tác giả Nguyễn Văn Dũng đăng trên Tạp chí Nghề
Luật số 4/2006.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu các tài liệu này cho thấy hƣớng tiếp cận nghiên cứu của
những công trình nói trên chủ yếu đƣợc khai thác dƣới góc độ bảo đảm quyền bảo vệ của
đƣơng sự, bảo đảm sự tham gia TTDS của luật sƣ, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự mà không trực tiếp nghiên cứu chuyên sâu về ngƣời đại diện của đƣơng sự.
Một số công trình tuy có nghiên cứu trực tiếp về ngƣời đại diện của đƣơng sự nhƣng chỉ


3

tiếp cận dƣới góc độ khái quát lý luận hoặc do cấp độ nghiên cứu nên chƣa có điều kiện
nghiên cứu sâu rộng hoặc chỉ đề cập tới một vài khía cạnh về ngƣời đại diện của đƣơng
sự. Do vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS là
việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật TTDS hiện hành về ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong TTDS;
- Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTDS về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
TTDS;
- Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật TTDS về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong thi hành án dân
sự mà chỉ tập trung nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong quá trình TA giải
quyết VVDS tại TA. Cụ thể là luận văn sẽ triển khai nghiên cứu về những vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
TTDS;
- Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện của đƣơng sự

trong TTDS;
- Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc hoàn thành dựa trên cơ sở phƣơng pháp luật của Chủ nghĩa MácLênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và Pháp luật. Các phƣơng pháp chủ yếu đƣợc


4

sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng
pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn giải, suy diễn logic….
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn
về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS, Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Xây dựng đƣợc khái niệm và làm rõ đƣợc các đặc điểm của ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong TTDS, phân tích và làm rõ đƣợc vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong TTDS;
- Phân tích và chỉ ra những cơ sở khoa học để xây dựng các quy định về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong TTDS;
- Phân tích và làm sáng tỏ những điểm hợp lý, bất cập của các quy định pháp luật
hiện hành về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS;
- Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và hạn chế trong thực tiễn thực hiện quy định
pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS;
- Đƣa ra một số ý kiến để hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong TTDS.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn với đề tài “Người đại diện của đương sự trong TTDS” thuộc chuyên
ngành luật dân sự, đƣợc kết cấu bởi ba chƣơng ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo. Ba chƣơng của luận văn bao gồm:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân

sự.
Chƣơng 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự và kiến nghị.


5

CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS
Khi tiếp cận nghiên cứu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trƣớc hết chúng ta cần
phải làm rõ đƣợc bản chất của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS, nội hàm cơ bản
của khái niệm này. Theo đó, những vấn đề căn bản sẽ đƣợc phân tích theo logic sau đây:
Trƣớc hết chúng ta cần làm rõ đƣơng sự trong TTDS để có cơ sở cho việc xác định
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS. Việc nghiên cứu cho thấy, đƣơng sự hiểu một
cách chung nhất là “đối tượng trực tiếp của một việc đang được giải quyết” [36, tr. 256].
Trong cuốn Từ điển Từ Hán Việt, đƣơng sự đƣợc định nghĩa là ngƣời “có liên quan trực
tiếp với công việc” [16, tr. 167]. Nhƣ vậy, đƣơng sự là ngƣời có liên quan trực tiếp trong
một vụ việc nào đó đang đƣợc đƣa ra xem xét, giải quyết. Nghĩa là các chủ thể đƣợc coi
là đƣơng sự phải là những chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc xem xét,
giải quyết vụ việc đó. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác không phải là đƣơng sự
trong vụ việc khi không có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp tới vụ việc cụ thể đang đƣợc
giải quyết. Tùy từng vụ việc mà các chủ thể đƣợc xác định là đƣơng sự là khác nhau. Yếu
tố quyền, lợi ích là yếu tố chủ yếu để phân biệt đƣơng sự với ngƣời đại diện của họ.
Chúng ta đều biết, việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích giữa một bên là

Nhà nƣớc đại diện với một bên là công dân nhằm buộc tội những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, xâm phạm tới trật tự công cộng, lợi ích của các cá nhân, tổ
chức… thì đƣợc giải quyết theo tố tụng hình sự. Các tranh chấp giữa ngƣời dân và Nhà
nƣớc mà liên quan đến các quyết định, hành vi hành chính thì đƣợc giải quyết theo tố
tụng hành chính. Các tranh chấp giữa ngƣời dân với nhau sẽ đƣợc giải quyết theo TTDS.
Xét về lý luận thì TTDS là trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp, yêu cầu phát sinh
trong lĩnh vực tƣ gồm có: dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh – thƣơng mại, lao


6

động. Theo Giáo trình Luật TTDS của Đại học Luật Hà Nội năm 2009 thì “Trong khoa
học pháp lý, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết VVDS và thi hành án dân
sự được gọi là TTDS” [78, tr. 10]. Hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm trái ngƣợc nhau về
việc xác định thi hành án dân sự có phải là một giai đoạn của TTDS hay không. Tuy
nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập tới ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong quá trình TA giải quyết VVDS.
Cũng theo Giáo trình này thì “Đương sự trong VVDS là người tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS” [78, tr.
106]. Nhƣ vậy, đƣơng sự trong TTDS là chủ thể tham gia vào quá trình TA giải quyết các
tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang có tranh chấp hoặc cần phải xác định.
Trong trƣờng hợp đặc biệt thì chủ thể tham gia tố tụng bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nƣớc thuộc lĩnh vực mình phụ trách, tuy không trực tiếp có quyền lợi trong
TTDS nhƣng họ không tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện mà cũng đƣợc coi
là đƣơng sự trong TTDS do có nhiệm vụ thay mặt Nhà nƣớc để bảo vệ lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nƣớc.
Xét về thuật ngữ thì “Đại diện” là một từ có nguồn gốc Hán, theo Từ điển Từ Hán
Việt của tác giả Phan Văn Các, nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2001 thì đại

diện đƣợc hiểu là “thay mặt” [16, tr.134]. Cụ thể hơn, từ điển Luật học khẳng định
“Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện các
giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [24, tr.575].
Trong TTDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đƣơng sự thƣờng tự
mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, trong một số trƣờng hợp
ngƣời khác có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự. Ngƣời tham gia tố tụng này đƣợc gọi
là ngƣời đại diện của đƣơng sự. Việc pháp luật ghi nhận về sự tham gia tố tụng của ngƣời
đại diện trƣớc TA đã tạo điều kiện thuận lợi cho đƣơng sự có thể bảo vệ đƣợc quyền lợi
của mình trƣớc TA.
Hiện nay, cũng có những góc nhìn khác nhau về khái niệm ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong TTDS. Việc nghiên cứu cho thấy Giáo trình Luật TTDS của Học viện tƣ


7

pháp (Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007) không đƣa ra một khái niệm cụ thể về
ngƣời đại diện của đƣơng sự mà chỉ viện dẫn các quy định của BLTTDS về ngƣời đại
diện của đƣơng sự trong TTDS [32, tr.187]. Khái niệm này đã đƣợc TS Nguyễn Công
Bình phân tích cụ thể hơn trong Giáo trình Luật TTDS của trƣờng đại học Luật Hà Nội
(Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2009). Theo đó, “Người đại diện của đương sự là
người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Toà án” [78, tr.113].
Trong Khóa luận tốt nghiệp của mình tác giả Hồ Nguyên Bình đã đề cập tới khái
niệm ngƣời đại diện của đƣơng sự theo hƣớng mô tả rõ hơn về cơ sở tham gia tố tụng của
ngƣời đại diện là theo pháp luật quy định hay theo sự uỷ quyền. Cụ thể là “Người đại diện
của đương sự trong TTDS là người do pháp luật quy định hay được đương sự ủy quyền
mà tham gia TTDS, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình làm đại diện trước Toà án” [15, tr.7].
Có thể thấy, mỗi tác giả lại có cách định nghĩa khác nhau về ngƣời đại diện của

đƣơng sự, nhƣng đều thể hiện đƣợc khá đầy đủ đặc điểm của ngƣời đại diện của đƣơng
sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng cho thấy các khái niệm trên sẽ đầy đủ và toàn diện
hơn nếu thể hiện đƣợc sự khác biệt của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS với
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng hành chính hay hình sự.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trƣớc đó, dựa trên khái
niệm đại diện trong dân sự và khái niệm đƣơng sự trong TTDS đã đƣợc phân tích, luận
văn đƣa ra khái niệm ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS nhƣ sau: Người đại diện
của đương sự trong TTDS là người tham gia TTDS thay mặt đương sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ TTDS của họ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Toà
án.
1.1.2. Đặc điểm của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS
Ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS là ngƣời tham gia tố tụng vì vậy mang
đầy đủ đặc điểm của ngƣời tham gia tố tụng, ngoài ra còn có các đặc điểm đặc trƣng sau:

 Người đại diện của đương sự nhân danh đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự


8

Tuy cùng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự nhƣng
việc tham gia tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự khác với
ngƣời đại diện của đƣơng sự. Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự tham
gia tố tụng song song cùng đƣơng sự, có vị trí pháp lý tƣơng đối độc lập. Trong khi đó,
ngƣời đại diện tham gia tố tụng nhân danh ngƣời đƣợc đại diện – đƣơng sự - vì quyền và
lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện.
Ngoài ra, ngƣời đại diện của đƣơng sự không phải chủ thể của quan hệ pháp luật
nội dung đang tranh chấp nên ngƣời đại diện tham gia tố tụng không phải để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhƣ đƣơng sự, họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác – đƣơng sự.


 Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng trên cơ sở quan hệ đại diện
Ngƣời đại diện của đƣơng sự đồng thời tham gia hai quan hệ: quan hệ đại diện và
quan hệ tố tụng. Quan hệ đại diện là mối liên hệ giữa ngƣời đại diện của đƣơng sự và
đƣơng sự. Quan hệ đại diện có thể đƣợc xác lập trƣớc hoặc sau khi TA tiến hành tố tụng.
Quan hệ đại diện là cơ sở để ngƣời đại diện của đƣơng sự tham gia vào quan hệ tố tụng.
Quan hệ đại diện này có thể đƣợc hình thành trên cơ sở thỏa thuận ý chí giữa các bên (đại
diện theo ủy quyền) hoặc theo quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật).
Riêng đối với đại diện theo pháp luật thì phạm vi các trƣờng hợp ngƣời đại diện
trong TTDS đƣợc xác định theo pháp luật là tƣơng đối rộng. Quan hệ đại diện trong
TTDS có thể hình thành trên cơ sở quan hệ đại diện trong các quan hệ pháp luật nội dung
hoặc đƣợc hình thành thông qua quyết định của Toà án. Quan hệ đại diện trong TTDS có
thể mang tính đƣơng nhiên do chủ thể đại diện đã là ngƣời đại diện trƣớc đó trong quan
hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thƣơng mại, lao động (trên cơ sở quan hệ huyết
thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ giám hộ hoặc đại diện) hoặc có thể mới đƣợc TA chỉ
định là ngƣời đại diện thay mặt cho đƣong sự trong TTDS.
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt ngƣời đại diện với ngƣời
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự - một chủ thể tham gia tố tụng cũng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự nhƣng không thay mặt cho đƣơng sự nhƣ
ngƣời đại diện. Khác với ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự tham gia tố tụng với vị trí pháp lý tƣơng đối độc lập với đƣơng sự. Họ tham gia


9

tố tụng trên cơ sở hợp đồng ký kết với đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện của đƣơng sự và
đƣợc sự chấp thuận của TA.

 Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự phụ thuộc vào quyền, nghĩa
vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện

Nhƣ đã trình bày ở trên, ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời thay mặt đƣơng sự
thực hiện những quyền và nghĩa vụ mà bản thân đƣơng sự đáng lẽ phải thực hiện. Chính
vì vậy nên ngƣời đại diện của đƣơng sự không thể có quyền, nghĩa vụ nào khác quyền,
nghĩa vụ của đƣơng sự.
Ngƣời đại diện của đƣơng sự không tự nhiên có các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
đƣơng sự. Họ có các quyền, nghĩa vụ này là do pháp luật quy định hoặc do đƣơng sự
quyết định thông qua hợp đồng ủy quyền. Đối với đại diện theo pháp luật thì quyền, nghĩa
vụ của ngƣời đại diện của đƣơng sự là quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự; còn đối với ngƣời
đại diện theo ủy quyền thì họ chỉ có các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng ủy quyền. Nhƣ
vậy, dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền thì quyền và nghĩa vụ của
ngƣời đại diện cũng đều phụ thuộc vào quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự và không vƣợt quá
phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó.
Trong khi đó, vì có tƣ cách độc lập nên ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự có các quyền và nghĩa vụ tố tụng riêng và đƣợc pháp luật quy định cụ thể.
Các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
không phụ thuộc vào hợp đồng pháp lý giữa họ với đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự. Sở dĩ họ có các quyền, nghĩa vụ riêng biệt là do họ có tƣ cách
độc lập, tham gia tố tụng nhân danh mình chứ không nhƣ ngƣời đại diện - nhân danh
ngƣời khác.
1.1.3. Vị trí, vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS
Khi tham gia tố tụng, các chủ thể đều có vị trí và vai trò nhất định. Chính vị trí, vai
trò đó quyết định đến hoạt động của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng.
Do vậy, trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu về vị trí, vai trò của ngƣời đại diện của
đƣơng sự trong TTDS.


10

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì khái niệm vị trí là: “chỗ xác
định dành riêng cho người nào, vật nào đó” [83; tr.1114]; vai trò là “Tác dụng, chức

năng trong hoạt động, sự phát triển của cái gì đó” [83; tr.1095]
Trong TTDS, ngƣời đại diện của đƣơng sự có vị trí là ngƣời tham gia tố tụng, có
vai trò thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng
sự. Ứng với vị trí, vai trò đó thì ngƣời đại diện của đƣơng sự có quyền tham gia tố tụng từ
khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng, đƣợc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự mà mình là ngƣời đại diện.
Việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật
của VVDS. Bên cạnh đó, hoạt động của ngƣời đại diện còn giúp những ngƣời không có
khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình, từ đó thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã hội. Khi
ngƣời đại diện là ngƣời am hiểu pháp luật thì thông qua hoạt động của mình họ còn góp
phần hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc xác định đúng đắn vị trí, vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự là một việc
làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động của ngƣời đại diện của đƣơng sự có
tác động không chỉ đối với những ngƣời tham gia tố tụng mà đến cả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì ngƣời đại diện của đƣơng sự
là cầu nối giữa đƣơng sự và Toà án, sự phối hợp giữa ngƣời đại diện của đƣơng sự và TA
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TA trong việc tìm ra sự thật của VA, qua đó bảo đảm những
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đƣợc đại diện.
Đối với đƣơng sự, việc xác định đúng vị trí, vai trò của ngƣời đại diện sẽ giúp cho
họ phân biệt đƣợc tƣ cách tham gia tố tụng của ngƣời đại diện (chủ thể thay mặt đƣơng
sự) và ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự (chủ thể giúp đỡ, hỗ trợ đƣơng sự về mặt
pháp lý). Từ đó họ có thể nhận thức và lựa chọn đƣợc cách thức bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình cho phù hợp. Ngoài ra, thông qua việc lựa chọn ngƣời đại diện của
đƣơng sự là những ngƣời am hiểu pháp luật nhƣ luật sƣ sẽ giúp đƣơng sự có thể bảo vệ
một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngƣời đại diện của đƣơng sự
không có đủ NLHVTTDS sẽ có năng lực cần thiết để thay mặt đƣơng sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng đƣợc pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
đƣơng sự.



11

Chính bản thân ngƣời đại diện cũng cần xác định đúng vị trí, vai trò của mình
trong TTDS. Nếu xác định đúng vị trí, vai trò của mình, họ sẽ tự tin hơn, chủ động hơn
trong việc thay mặt đƣơng sự thực hiện những quyền, nghĩa vụ nhất định. Họ sẽ biết mình
phải làm gì và làm nhƣ thế nào để thực hiện tốt đúng vị trí, vai trò của họ - ngƣời thay
mặt đƣơng sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

 Đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân
Theo cách tiếp cận mới, đƣợc sử dụng rộng rãi bởi nhiều tổ chức quốc tế, tiếp cận
công lý đƣợc hiểu nhƣ là khả năng tìm kiếm sự đền bù cho những bất công hay thiệt hại
mà một cá nhân hay một nhóm cá nhân, đặc biệt là những nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng,
phải gánh chịu. Những bất công hoặc thiệt hại này có thể do cá nhân hay pháp nhân gây
ra và có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không giới hạn ở
trong tố tụng hình sự. Việc tìm kiếm sự đền bù, khắc phục đƣợc thực hiện thông qua việc
tiếp cận với các thiết chế tƣ pháp. Nền tảng của tiếp cận công lý là khuôn khổ các quyền
và nghĩa vụ công dân và khuôn khổ thiết chế cho phép tất cả mọi ngƣời có thể vận dụng
hoặc đƣợc trợ giúp để có đƣợc sự đền bù, khắc phục cho những bất công, thiệt hại mà
mình phải gánh chịu. UNDP gọi đó là khả năng cung cấp sự đền bù hoặc sự khắc phục
[54]. Tuy nhiên, những hệ thống, cơ chế này vẫn chƣa đủ. Để có thể đạt đƣợc một giải
pháp công bằng cho những bất công, thiệt hại, ngƣời dân cần phải có sự hiểu biết cũng
nhƣ khả năng theo đuổi tiến trình giải quyết vụ việc. Khía cạnh thứ ba này đƣợc UNDP
gọi là khả năng đòi hỏi sự đền bù, khắc phục của quần chúng [54]. Khả năng đòi hỏi và
theo đuổi vụ việc của quần chúng đƣợc coi là nền tảng thứ ba trong việc tiếp cận công lý.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng tự mình đòi hỏi và theo đuổi vụ việc; có thể
do họ không hiểu biết pháp luật, hay nhƣ không có thời gian, đôi khi họ còn không nhận
thức đƣợc là quyền lợi của họ đang bị xâm phạm… Trong một xã hội tiến bộ, chế định
ngƣời đại diện cùng các chế định khác phải đảm bảo cho tất cả các công dân – nhất là

những ngƣời thuộc nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng có thể “tiếp cận công lý”.

 Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự


12

Nhìn một cách khái quát nhất, nguyên tắc tranh tụng bao gồm những nội dung
cơ bản sau:
Các đương sự phải có quyền biết và trình bày ý kiến về những vấn đề mà người
khác có yêu cầu đối với mình về quyền, nghĩa vụ dân sự.
Các chủ thể tham gia TTDS đều có quyền bình đẳng trước TA trong việc thực hiện
quyền tranh tụng.
TA bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS một cách
bình đẳng, công khai và đúng pháp luật. [25, tr. 56].
Để chứng minh cho yêu cầu của mình thì khi xét xử tại phiên tòa các đƣơng sự
phải đƣợc tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ nhằm mục đích buộc các đƣơng sự
phải suy nghĩ chính chắn trƣớc khi đƣa ra yêu cầu và ràng buộc trách nhiệm của các bên
khi đƣa ra yêu cầu.
Trong tố tụng dân sự thì các đƣơng sự sẽ tự mình đƣa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo
vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy không phải bất kì đƣơng sự
nào cũng có thể làm đƣợc điều đó. Đƣơng sự có thể bị mất, bị hạn chế NLHVDS ; chƣa
đủ NLHV… và ngay cả những ngƣời có đủ NLHV nhƣng vì hiểu biết pháp luật không
cao hoặc vì những lý do khác mà chƣa chắc đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình một cách tốt nhất. Từ đó, những đƣơng sự này cần đến ngƣời đại diện, ngƣời sẽ thay
mặt họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ tốt hơn. Khi tham gia tố tụng với tƣ
cách ngƣời đại diện của đƣơng sự, để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng
sự thì pháp luật cần phải trao cho ngƣời đại diện của đƣơng sự các quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhƣ của đƣơng sự.


 Đảm bảo người đại diện có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự
Quá trình tố tụng nói chung và quá trình TTDS nói riêng khá phức tạp, vì vậy
không phải ai cũng có thể làm tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích cho ngƣời khác. Do vậy, về
chủ quan ngƣời đại diện của đƣơng sự phải có đủ năng lực cần thiết, có những mối liên hệ
nhất định đủ tin cậy để có thể suy đoán việc tham gia tố tụng của họ là vì quyền lợi của
đƣơng sự và về khách quan, họ cần phải đƣợc pháp luật trao cho các quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhất định để thực thi vai trò của mình. Cụ thể nhƣ sau:


13

- Về mặt chủ quan:
Ngƣời đại diện phải là ngƣời có đủ NLHVTTDS, nếu có hiểu biết pháp luật thì
càng tốt. Việc ngƣời đại diện có đủ NLHVTTDS là để họ có đủ khả năng tự mình thực
hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng, không bị phụ thuộc vào chủ thể khác. Và đây cũng là lý
do để cơ quan, tổ chức không thể là ngƣời đại diện cho đƣơng sự. Hơn nữa; cơ quan, tổ
chức là thực thể pháp lý; các hoạt động của nó đều phải thông qua một con ngƣời cụ thể,
nên việc quy định cơ quan, tổ chức làm đại diện sẽ làm phức tạp hóa mối quan hệ (Đại
diện hai lần). Ngoài ra, không phải ai cũng có thể làm một việc (tham gia tố tụng) vì lợi
ích của ngƣời khác, nên thƣờng thì ngƣời đại diện phải là ngƣời đƣợc đƣơng sự tin tƣởng,
giao phó hoặc có một mối liên hệ nhất định với đƣơng sự nhƣ là cha mẹ, ngƣời giám hộ,
ngƣời đại diện của cơ quan, tổ chức… trong các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động… Góc tiếp cận này là cơ sở để xây dựng các quy
định về điều kiện của chủ thể có thể tham gia TTDS với tƣ cách ngƣời đại diện của đƣơng
sự.
- Về mặt khách quan:
Chúng ta cũng biết, ngƣời đại diện thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng, họ phải
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Về mặt logic, ngƣời ta chỉ có thể đối đáp
lại những gì mà họ biết; do đó để bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự,
ngƣời đại diện của đƣơng sự phải biết đƣợc đầy đủ và toàn diện các yêu cầu, chứng cứ và

lý lẽ của những ngƣời tham gia tố tụng khác.
Nhƣ vậy, trong quá trình tranh tụng ngƣời đại diện phải đƣợc biết tất cả các giấy
tờ, tài liệu, chứng cứ, căn cứ pháp lý và lý lẽ chứng minh của đối phƣơng hoặc chứng cứ
do TA thu thập. Ngƣời đại diện phải cung cấp chứng cứ của vụ kiện trong thời gian nhất
định, hợp lý do thẩm phán ấn định đủ để các bên tìm kiếm, thu thập chứng cứ và chuẩn bị
cho việc biện hộ…Góc tiếp cận này chính là nền tảng quan trọng để xác lập và xây dựng
các quy định về quyền và nghĩa vụ TTDS của ngƣời đại diện của đƣơng sự.

 Đảm bảo mối liên hệ giữa các quy định về người đại diện trong quan hệ pháp luật
nội dung và người đại diện trong TTDS


14

Quan hệ đại diện ra đời chủ yếu là để bảo vệ những đối tƣợng thiệt thòi trong xã
hội (Không thể tự bảo vệ). Cùng là quan hệ đại diện, đại diện trong TTDS và đại diện
trong dân sự đều phải thể hiện đƣợc mục đích này. Chính vì vậy, các quy định về đại diện
trong TTDS sẽ có những điểm tƣơng đồng với các quy định về đại diện trong luật dân sự.
Hơn nữa, hoạt động TTDS có mục đích là giải quyết các tranh chấp trong hoạt
động dân sự, nên các chủ thể đại diện cho các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp trong
các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động thông
thƣờng sẽ tiếp tục là chủ thể đại diện trong quan hệ TTDS, trừ trƣờng hợp đại diện mang
tính chất vụ việc. Ngoài ra, quan hệ đại diện trong TTDS chỉ xuất hiện khi có căn cứ nhất
định. Nhƣ vậy, có thể trong quá trình tố tụng quan hệ đại diện mới phát sinh, và khi đó đại
diện trong TTDS sẽ không đồng nhất với đại diện trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động.
Với đặc trƣng của hoạt động TTDS, ngƣời đại diện trong TTDS phải thỏa mãn
những điều kiện riêng. Nếu nhƣ trong giao dịch dân sự các chủ thể đƣợc bình đẳng với
nhau thì trong hoạt động TTDS, với sự tham gia của chủ thể mang quyền lực nhà nƣớc là
TA thì sự bình đẳng chỉ giới hạn trong số những ngƣời tham gia tố tụng. Cần phải đảm

bảo cho hoạt động của TA đƣợc khách quan, vô tƣ vì quyền lợi hợp pháp của đƣơng sự.
Do vậy, ngƣời đại diện của đƣơng sự nếu không thuộc trƣờng hợp đƣơng nhiên không thể
thay thế mà hình thành dựa trên sự lựa chọn của đƣơng sự thông qua việc uỷ quyền thì họ
không thể là những ngƣời có ảnh hƣởng, tác động tới hoạt động TTDS của TA. Có nghĩa
là đƣơng sự cũng chỉ có thể uỷ quyền cho những chủ thể đƣợc pháp luật xác định là việc
đại diện của họ không có nguy cơ ảnh hƣởng tới sự khách quan, vô tƣ của TA.

 Đảm bảo điều chỉnh phù hợp đối với từng loại đại diện
Để làm đƣợc điều này, phải phân loại ngƣời đại diện hợp lý, từ đó mỗi nhóm sẽ
chịu sự điều chỉnh của một nhóm quy phạm khác nhau, phù hợp với đặc điểm của từng
nhóm.
Theo từ điển Từ Hán Việt, phân loại là “chia ra thành từng loại, từng nhóm có đặc
điểm giống nhau” [16, Tr 307]. Khi phân loại một đối tƣợng chúng ta phải căn cứ vào
mục đích để lựa chọn căn cứ phân loại phù hợp. Việc phân loại ngƣời đại diện ở đây
nhằm đƣa ra các quy phạm điều chỉnh phù hợp với từng loại đại diện mà chủ yếu là xác


15

định điều kiện, phạm vi đại diện, quyền và nghĩa vụ TTDS của ngƣời đại diện của đƣơng
sự.
Việc phân loại đại diện đƣợc thiết lập dựa trên cơ sở của việc hình thành quan hệ
đại diện là theo ý chí của đƣơng sự hay theo quy định của pháp luật. Đối với trƣờng hợp
quan hệ đại diện đƣợc hình thành trên cơ sở sự uỷ quyền sẽ có ngƣời đại diện theo uỷ
quyền. Tƣơng ứng với các quan hệ đại diện đƣợc xác lập do pháp luật quy định trƣớc là
ngƣời đại diện theo pháp luật. Quan hệ đại diện đƣợc xác lập trên cơ sở nào sẽ quyết định
ai sẽ là ngƣời có thể đại diện, quyền và nghĩa vụ tố tụng của chủ thể này và sự chấm dứt
của quan hệ đại diện. Chính vì vậy, căn cứ vào cơ sở của việc hình thành quan hệ đại diện
là theo ý chí của đƣơng sự hay theo quy định của pháp luật sẽ có hai loại đại diện tƣơng
ứng là ngƣời đại diện theo pháp luật và ngƣời đại diện theo uỷ quyền:

Với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cá nhân không có đủ
NLHVTTDS, pháp luật xác định cụ thể chủ thể có thể là ngƣời đại diện của đƣơng sự
hoặc cho phép một cơ quan có thẩm quyền quyết định theo trình tự, thủ tục luật định mà
không xét đến ý chí của đƣơng sự. Trong trƣờng hợp này, ngƣời đƣợc đại diện không có
đủ NLHV nên pháp luật quy định cho ngƣời đại diện có toàn bộ quyền, nghĩa vụ của
đƣơng sự mà họ đại diện. Đối với các chủ thể khác thuộc quan hệ pháp luật nội dung thì
chủ thể đại diện trong TTDS đƣợc xác định là chủ thể đại diện trong quan hệ pháp luật
nội dung trƣớc đó.
Nhƣ phân tích ở phần “Đảm bảo mối liên hệ giữa các quy định về người đại diện
trong quan hệ nội dung và người đại diện trong TTDS” thì ngoài trƣờng hợp ngƣời đại
diện trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, thƣơng mại, lao động đƣơng nhiên trở
thành ngƣời đại diện cho đƣơng sự trong TTDS, trong tố tụng còn xuất hiện một loại đại
diện theo pháp luật đó là đại diện do TA chỉ định khi đƣơng sự chƣa có ngƣời đại diện
hoặc ngƣời đại diện thuộc trƣờng hợp bị giới hạn (không đƣợc làm đại diện trong TTDS).
Nhƣ vậy, nếu dựa trên sự khác biệt về cơ sở hình thành đại diện nhƣ tính chất
đƣơng nhiên của quan hệ đại diện hay theo ý chí của TA, sự khác biệt về thời điểm hình
thành và chấm dứt việc đại diện có thể phân chia đại diện theo pháp luật trong TTDS làm
hai loại là đại diện đƣơng nhiên và đại diện do TA chỉ định. Ngoài ra, nếu căn cứ vào
những điểm tƣơng đồng nhƣ việc hình thành quan hệ đại diện không dựa theo ý chí của
đƣơng sự mà theo quy định của pháp luật, sự tƣơng đồng về quyền và nghĩa vụ tố tụng


16

đƣợc xác lập thì có thể coi ngƣời đại diện theo pháp luật bao hàm cả ngƣời đại diện
đƣơng nhiên và đại diện do TA chỉ định.
Theo phân tích ở trên, căn cứ vào cơ sở của việc hình thành quan hệ đại diện là
theo ý chí của đƣơng sự sẽ có loại đại diện tƣơng ứng là ngƣời đại diện theo uỷ quyền.
Quy định này có mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các đƣơng sự có thể thực hiện việc
bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Trong trƣờng hợp này, mặc dù các chủ thể

(đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện đƣơng nhiên của họ) có đủ NLHVTTDS để tham gia tố
tụng nhƣng vì một lý do nào đó họ không thể tự mình tham gia tố tụng hoặc thấy rằng cần
phải có một chủ thể am hiểu pháp luật và kỹ năng tranh tụng để thay mặt mình tham gia
tố tụng trƣớc TA. Khi đó các chủ thể xác lập với nhau một hợp đồng uỷ quyền trong đó
xác định quyền, nghĩa vụ của các bên và ngƣời đại diện chỉ có quyền và nghĩa vụ xác
định trong hợp đồng.

 Đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự và tham gia tố tụng vì quyền lợi hợp
pháp của đương sự
Trong TTDS, quyền tự định đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, các
đƣơng sự tự do định đoạt các quyền, phƣơng tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình khi quyền lợi của mình bị xâm hại hay có tranh chấp. Đó cũng là quan niệm
chung nhất đƣợc pháp luật TTDS của nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận, áp dụng và
trở thành một nguyên tắc tố tụng cơ bản.
Đƣơng sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu TA có thẩm quyền giải
quyết VVDS khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc của đƣơng sự và chỉ
giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình TA giải quyết
VVDS, các đƣơng sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với
nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội; quyền hoà giải, thƣơng
lƣợng; quyền kháng cáo.
Khi tham gia tố tụng thông qua ngƣời đại diện, quyền tự định đoạt của đƣơng sự
vẫn phải đƣợc tôn trọng và bảo vệ. Bởi lẽ, cái cần đƣợc bảo vệ trong quan hệ này chính là
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự chứ không phải của ngƣời đại diện. Chính vì vậy
khi xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo uỷ quyền, nhà làm luật cần lƣu ý tôn
trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự về việc phát sinh, chấm dứt đại diện, phạm vi đại


17

diện, phạm vi quyền và nghĩa vụ tố tụng mà ngƣời đại diện có thể thực hiện… Đối với

các quan hệ đại diện đƣợc hình thành không trên cơ sở ý chí của đƣơng sự thì việc xây
dựng các quy định về ngƣời đại diện cũng phải đảm bảo sự tham gia tố tụng của ngƣời đại
diện là vì quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
1.3. LƢỢC SỬ PHÁP LUẬT TTDS VIỆT NAM VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945
Trƣớc thời Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam dƣờng nhƣ không có sự phân biệt rạch
ròi giữa dân sự và hình sự, cơ quan tài phán và cơ quan quản lý. Các tranh chấp về dân sự
đƣợc giải quyết bởi ngƣời đứng đầu bộ máy cai trị các cấp theo các quy tắc chung về tố
tụng đƣợc thiết lập để giải quyết các việc kiện cáo trong dân. Dƣới thời Lê (1428 – 1788)
các quy định này đƣợc ghi nhận trong Quốc triều Hình luật (1483) và Quốc triều khám
tụng điều lệ (1777). Đến thời Nguyễn (1802 – 1858 và 1858 – 1945) các quy định này
tiếp tục đƣợc kế thừa trong bộ Hoàng Việt luật lệ (1812). Do chịu ảnh hƣởng sâu sắc của
nho giáo nên pháp luật về tố tụng trong thời kỳ này đã hạn chế quyền đi kiện của một số
thành viên trong gia đình.
Việc nghiên cứu cho thấy các quy định về thủ tục TTDS với tƣ cách là một thủ tục
tố tụng riêng biệt có lẽ chỉ chính thức đƣợc du nhập vào miền Nam Việt Nam dƣới thời
Pháp thuộc bằng Nghị định 16/3/1910. Tiếp theo đó là Bộ dân sự tố tụng Bắc ban hành
năm 1917 và Bộ Hộ sự thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942, áp dụng tại Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Có thể nhận xét rằng các quy định về TTDS của Việt Nam dƣới thời Pháp
thuộc đƣợc xây dựng trên cơ sở tham chiếu và giản lƣợc các quy định của BLTTDS Pháp
1807 cho phù hợp với đời sống của ngƣời dân bản địa. Do vậy, các quy định về TTDS
trong những bộ luật này chịu nhiều ảnh hƣởng của pháp luật TTDS Pháp. [82]
1.3.2 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1989
Sau cách mạng tháng 8/1945, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành
Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ.
Ngày 13/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33 về việc thành lập TA quân
sự, trong đó khẳng định “bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ người khác bênh vực mình”



18

[19]. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 về cải cách tƣ pháp và Luật tố tụng có quy định
luật sƣ có thể đƣợc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự
(20, Điều 2). Nhƣ vậy, hai văn bản nói trên không có quy định trực tiếp về ngƣời đại diện
của đƣơng sự trong TTDS mà chỉ quy định về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị cáo hoặc đƣơng sự.
Sau năm 1954, đất nƣớc bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc. Ở miền Bắc, do
hoàn cảnh lịch sử để lại, cho nên trong một thời gian tƣơng đối dài (1954 – 1989) chúng
ta chƣa có một văn bản chính thức về TTDS. Nhà nƣớc ta ban hành nhiều văn bản pháp
luật quy định, hƣớng dẫn về trình tự, thủ tục giải quyết các VVDS, trong đó có các văn
bản liên quan đến quyền nhờ ngƣời khác thay mặt mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trƣớc TA nhƣ: Thông tƣ 2225/HCTP ngày 24/10/1956 quy định về chấn chỉnh việc thực
hiện quyền bào chữa; Thông tƣ số 22/ HCTP ngày 18/02/1957 trả lời một số điểm về bào
chữa của Bộ tƣ pháp. Đặc biệt, khi Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức TA nhân dân
năm 1960 có hiệu lực thi hành, TA nhân dân tối cao đã xây dựng và ban hành nhiều văn
bản hƣớng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết các VVDS nhƣ Thông tƣ số 614/DS
ngày 24/04/1963 hƣớng dẫn một số thủ tục tố tụng cho TA địa phƣơng; Thông tƣ số
06/TA TC ngày 25/02/1974 hƣớng dẫn việc điều tra trong TTDS, thông tƣ số 25/ TATC
ngày 30/11/1974 hƣớng dẫn về việc hòa giải trong TTDS…..Các văn bản này đều có
những quy định đề cập tới việc nhờ ngƣời khác bảo vệ của đƣơng sự trong TTDS.
Ở miền Nam, nhà lập pháp của chế độ Sài Gòn đã pháp điển hoá các quy định về
TTDS và xây dựng Bộ luật dân sự thƣơng sự tố tụng năm 1972; quy định về trình tự và
thủ tục giải quyết các VVDS với việc thừa nhận đƣơng sự có quyền “hoặc đích thân xuất
đình, hoặc nhờ luật sư, tôn thuộc, ti thuộc, vợ, chồng, anh chị em, đồng thừa kế và đồng
hội viên thay mặt cho mình” [5, Điều 50].
Sau khi đất nƣớc thống nhất, Hiến pháp 1980 đã đƣợc ban hành, trong đó có ghi
nhận “tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về pháp lý”
[34, Điều 133]. Để cụ thể hóa quy định này, ngày 28/12/1987, Hội đồng nhà nƣớc
CHXHCN Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh tổ chức Luật sƣ. Theo đó, một trong những

hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sƣ là “đại diện cho các bên đương sự trong các VA dân
sự, hôn nhân, gia đình và lao động” [57, Khoản 1 Điều 13]


19

Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, pháp luật TTDS nƣớc ta đã có những quy định sơ
khai về chế định ngƣời đại diện của đƣơng sự và bƣớc đầu có những nhìn nhận đúng đắn
về vai trò của ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS. Đó cũng chính là cơ sở cho việc
ban hành những quy định cụ thể về ngƣời đại diện của đƣơng sự sau này.
1.3.3. Giai đoạn từ 1989 đến năm 2004
Sự đổi mới cơ chế và mở cửa đất nƣớc đã thúc đẩy sự ra đời của 3 văn bản về thủ
tục tố tụng trong lĩnh vực tƣ pháp dân sự: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VA dân sự
năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VA kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996. Đây là những văn bản quan trọng về TTDS,
trong đó có các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự. Nếu những quy định về ngƣời
đại diện của đƣơng sự trong giai đoạn trƣớc quy định chƣa cụ thể về chủ thể đại diện,
quyền và nghĩa vụ của họ, việc thay đổi chấm dứt đại diện thì đến các văn bản này, những
quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự đã đƣợc sửa đổi và bổ sung khá nhiều, tạo điều
kiện cho việc áp dụng trong thực tế.
Theo Khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VA dân sự, trong trƣờng
hợp đƣơng sự là ngƣời vì có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham
gia tố tụng đƣợc thì phải có ngƣời đại diện tham gia tố tụng hoặc nếu không có ai đại diện
cho ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần, ngƣời vắng
mặt không có tin tức thì TA cử một ngƣời thân thích của đƣơng sự hoặc một thành viên
của một tổ chức xã hội làm ngƣời đại diện cho họ [60]. Quy định này đã trở thành tiền đề
quan trọng để các nhà làm luật Việt Nam xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong BLTTDS. Theo Điều 22 Pháp lệnh này thì đƣơng sự là công
dân, ngƣời đại diện của đƣơng sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh có thể làm giấy
ủy quyền cho luật sƣ hoặc ngƣời khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và hủy

việc kết hôn trái pháp luật.
Tuy nhiên, ba pháp lệnh trên đã thể hiện sự thiếu nhất quán. Về tên gọi của ngƣời
đại diện của pháp nhân, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VA dân sự pháp nhân tham
gia tố tụng thông qua ngƣời lãnh đạo của mình còn 2 Pháp lệnh còn lại lại quy định ngƣời
đại diện của pháp nhân là ngƣời đại diện theo pháp luật. Hay nhƣ quy định về hình thức
uỷ quyền, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VA dân sự và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các VA kinh tế không yêu cầu phải công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền nhƣng


×