Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài và toà án dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.31 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO THỊ THANH THUỶ

PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN
DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ...................................................................... 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................................ 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4
6. Kết cấu của Luận văn .............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1 :MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT


TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI VÀ TÒA ÁN ..................................................................................................... 5
1.1. TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI 51.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh,

thương mại .................................................................................................................. 5
1.1.2. Đặc điểm của Tranh chấp kinh doanh, thương mại .......................................... 9
1.2. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI ...........................10

1.2.1. Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ........ 10
1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ...................... 11
1.2.3. Các yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ...................... 12
1.3. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI .........................................................................................................14

1.3.1. Khái niệm trọng tài thương mại ...................................................................... 14
1.3.1.1. Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại ................................................................................................................ 14
1.3.1.2. Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp .............................. 16
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển của trọng tài thương mại và pháp luật về trọng
tài thương mại ở Việt Nam........................................................................................ 19


1.3.3. Pháp luật của các quốc gia về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Trọng tài thương mại ................................................................................................. 24
1.4. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TOÀ
ÁN .....................................................................................................................................................27

1.4.1. Bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng
Tòa án ........................................................................................................................ 27
1.4.2. Pháp luật của các nước trên thế giới về giải quyết tranh chấp thương mại bằng

Toà án ........................................................................................................................ 30
CHƯƠNG 2 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TÒA ÁN – SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT ... 32
2.1. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN ........................................................32

2.1.1. Trọng tài và tòa án đều là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại ............................................................................................................................. 32
2.1.2. Quyền tự do lựa chọn, định đoạt tồn tại trong cả hai phương thức giải quyết tranh
chấp của các bên có tranh chấp ................................................................................. 33
2.2. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN ........................................................35

2.2.1. Thẩm quyền của Trọng tài thương mại và Toà án .......................................... 36
2.2.1.1. Đối với trọng tài thương mại, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là thẩm
quyền do các bên trao cho Hội đồng ......................................................................... 36
2.1.1.2. Thẩm quyền của Toà án theo quy định của pháp luật bao gồm thẩm quyền theo
cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn ............................................... 37
2.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài và tòa
án ............................................................................................................................... 42
2.2.3. Thi hành phán quyết, quyết định của trọng tài và tòa án ................................ 46
2.2.4. Giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính quốc tế........... 49


2.3. SỰ HỖ TRỢ CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI ...................................................................................................................................................50

2.3.1. Sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại ................... 51
2.3.2. Sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với hoạt động của Trọng tài thương mại61
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI .................................................. 63
3.1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ...........................................................................63
3.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT HIỆU QUẢ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG
MẠI ...................................................................................................................................................65

3.2.1. Khuyến khích lựa chọn trọng tài và nâng cao vai trò của trọng tài thương mại
trong giải quyết tranh chấp ........................................................................................ 65
3.2.2. Nâng cao kiến thức và hiểu biết pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại của các doanh nghiệp và thương nhân ................................................... 68
3.2.3 Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục
tố tụng tư pháp nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh và đảm bảo nguyên tắc của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam ................................................... 70
3.2.4. Hoàn thiện quy định giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ tục
tố tụng tư pháp phù hợp và gắn liền với quá trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính
và hoàn thiện pháp luật Việt Nam ............................................................................. 71
3.2.5. Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Toà án72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS = Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐTT

= Hội đồng trọng tài

TAND

= Toà án nhân dân


TTTM

= Trọng tài thương mại

XHCN

= Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tranh chấp và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đang là vấn
đề “nổi cộm” của nền kinh tế hiện nay. Mấy năm trở lại đây, do những diễn biến
phức tạp của đời sống xã hội nên các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng
ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO
và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường,
các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể
giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên
trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các
thành viên của công ty…Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì doanh nghiệp cần tìm
đến cơ quan, tổ chức nào để giải quyết tranh chấp một cách có hiệu quả, nhanh
gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp? Pháp luật hoàn toàn cho
phép các nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức có quyền được lựa chọn các
phương thức khác nhau để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại như: thương lượng, hoà giải, trọng tài hay toà án. Nhà
nước ta cũng đã chủ trương cải cách tư pháp và không ngừng hoàn thiện các quy

định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại mà mới đây
nhất là sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại (2010) - điểm nhấn của hoạt
động cải cách tư pháp của nước ta về phương diện mở rộng các hình thức giải
quyết tranh chấp thương mại.
Việc các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ngày
càng được hoàn thiện là tín hiệu đáng mừng đối với các doanh nghiệp trong qúa
trình hoạt động của mình, tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp khi đã có các
“kênh” khác nhau để lựa chọn khi có tranh chấp xảy ra. Hai phương thức phổ


2

biến hiện nay được các doanh nghiệp lựa chọn giải quyết tranh chấp đó là trọng
tài thương mại và toà án. Đây là hai phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều
điểm tương đồng và khác biệt, việc tìm hiểu những điểm tương đồng và khác
biệt đó để hướng tới hoàn thiện và giải quyết hiệu quả tranh chấp kinh doanh,
thương mại xảy ra là điều cần thiết. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài
“Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài
và toà án dưới góc độ so sánh” làm đề tài luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đã
được rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập, công bố.
Trong đó, bao gồm bao gồm cả những khoá luận tốt nghiệp, luận văn cao học,
luận án tiến sĩ và các bài nghiên cứu khoa học. Các công trình này chủ yếu tập
trung vào các phương thức giải quyết tranh chấp cụ thể như: thương lượng, hoà
giải, trọng tài thương mại và toà án. Trong các phương thức giải quyết tranh
chấp đã đề cập thì phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng trọng tài và toà án là hai phương thức giải quyết tranh chấp được quan tâm
hơn cả, có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu mới đây như: Cung Mỹ Anh
(2009), “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định của Bộ luật

Tố tụng dân sự - những vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Luận văn thạc sỹ
luật học; Lê Thị Nhàn (2011), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại”, Luận văn thạc sỹ luật học;
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2011), “Luật Trọng tài thương mại - bước phát triển
của pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học,
Nguyễn Đình Thơ (2007), “Hoàn thiện pháp luật về Trọng tài thương mại của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Luận án Tiến sĩ luật học. Nhưng
các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các khía cạnh pháp
lý khác nhau của từng phương thức giải quyết tranh chấp cụ thể nhưng để đi vào


3

so sánh hai phương thức giải quyết tranh chấp này thì chưa có công trình nào
thực sự đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi một Luận văn thạc sĩ luật học, đề tài đi sâu vào làm rõ đặc
trưng của từng phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là toà
án và trọng tài thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam để có thể thấy
những ưu điểm và hạn chế của từng phương thức giải quyết tranh chấp từ đó đi
vào so sánh và tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của hai phương thức
này, đưa ra những giải pháp hoàn thiện từng phương thức nhằm giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại một cách hiệu quả đáp ứng nhu cầu của các chủ thể
kinh doanh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực
tiễn của sự tương đồng và khác biệt giữa hai phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài và tòa án, tìm kiếm các giải pháp để hai phương thức này phát huy
có hiệu quả vai trò hỗ trợ lẫn nhau trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh, thương mại
cũng như phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng
tài và toà án;
- Làm rõ những điểm giống nhau và khác nhau của hai phương thức giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài và toà án;
- Đề xuất những giải pháp để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
đạt hiệu quả.


4

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa MacLênin về nhà nước và pháp luật. Đồng thời, xem xét những quan điểm của Đảng
và nhà nước về cải cách thủ tục tư pháp trong thời kỳ mới. Đặc biệt, với đề tài là
so sánh hai phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thì
phương pháp chính được tác giả sử dụng là phương pháp so sánh. Ngoài ra, để
làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu tác giả còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử
làm sáng tỏ các nội dung của đề tài.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phương thức giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Trọng tài thương mại và Toà án;
Chương 2: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài
thương mại và toà án – Sự tương đồng và khác biệt;
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại.



5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI VÀ TÒA ÁN
1.1. TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở Việt Nam tồn tại một số khái niệm về
tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại như: tranh chấp kinh tế,
tranh chấp trong hoạt động thương mại, tranh chấp kinh doanh, thương
mại…Nhìn chung, các khái niệm trên có cùng nội hàm. Trong khuôn khổ luận
văn này tác giả sử dụng khái niệm được BLTTDS ghi nhận đó là: khái niệm
tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số, hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. [15]
Thương mại hay hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lời, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại
và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác. [5]
Tranh chấp thương mại theo nghĩa khái quát nhất là sự bất đồng hay mâu
thuẫn, xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong hoạt
động kinh doanh, thương mại.[15]
Thực tế cho thấy, tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hiện tượng xã
hội, là sản phẩm của nền kinh tế, nó ra đời, tồn tại và biến đổi cùng với quá trình
hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Chính vì vậy, mức độ, hình
thức, nội dung tranh chấp phụ thuộc vào quy mô của quan hệ thương mại. Ngày



6

nay, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế thị trường, với chính sách mở cửa,
các quan hệ kinh tế trong nước cũng như quan hệ thương mại quốc tế ngày càng
trở nên sống động, đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết
lập trong phạm vi từng quốc gia, từng khu vực mà lan rộng khắp thế giới. Trong
điều kiện như vậy, tranh chấp xảy ra không những là điều khó tránh khỏi mà còn
phức tạp hơn về nội dung, gay gắt hơn về mức độ tranh chấp, cần phải được giải
quyết một cách kịp thời, dứt điểm.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại hay khái niệm tranh chấp kinh doanh là
thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế, xã hội ở các nước trên thế giới. Ở
Việt Nam đã từng tồn tại khái niệm tranh chấp kinh tế để biểu đạt loại tranh chấp
này. Mặc dù chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tranh chấp kinh tế
nhưng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Nghị
định số 116/CP ngày 5/9/1994 cũng đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh
chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án kinh tế và trọng tài kinh tế.
Theo đó, các tranh chấp kinh tế bao gồm: (i) Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế
giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh
doanh; (ii) Các tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công
ty; (iii) Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; (iv) Các
tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, với cách tiếp cận này khái niệm “Tranh chấp kinh tế” như trên
đã không lột tả được hết nội hàm của nó, bởi thực chất khái niệm tranh chấp kinh
tế là khái niệm có nội hàm rất rộng, các tranh chấp trên chỉ là nhóm tranh chấp
điển hình có nội dung kinh tế.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật
thương mại năm 1997 theo Điều 238 “Tranh chấp thương mại là tranh chấp



7

phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong
hoạt động thương mại”.
Tuy nhiên, khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật
thương mại 1997 có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến của các nước
trên thế giới nên nội hàm của khái niệm tranh chấp thương mại cũng bị giới hạn.
Các tranh chấp thương mại quy định trong Luật thương mại (1997) chỉ là một
loại tranh chấp kinh tế, ngoài loại tranh chấp này tranh chấp kinh tế còn bao gồm
các tranh chấp khác như: tranh chấp phát sinh giữa công ty và thành viên công
ty, tranh chấp giữa các thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, giải thể
công ty, tranh chấp mua bán cổ phiếu, trái phiếu…Luật Thương mại (2005) ra
đời khái niệm hoạt động thương mại đã được hiểu theo nghĩa rộng theo đó “hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời bao gồm mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lời khác”.
Pháp lệnh TTTM ngày 25/02/2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về
tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương
mại” theo nghĩa rộng đã tạo sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại”
và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của
pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh TTTM “Hoạt
động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá
nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng;
tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò,
khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường
biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luật”.



8

BLTTDS năm 2004 không đưa ra khái niệm cụ thể về tranh chấp kinh,
doanh thương mại nhưng cũng đã liệt kê những tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án, bao gồm:
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao
gồm: Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi;
thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên
công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Cách liệt kê là không thực sự triệt để, bởi trong kinh doanh ngày càng xuất
hiện nhiều tranh chấp mới mà pháp luật không thể dự liệu hay liệt kê hết được.
Mỗi một cách xác định khái niệm nêu trên đều có hạt nhân hợp lý của
mình, vấn đề là cần thống nhất trong các văn bản pháp luật về mặt thuật ngữ.
Thuật ngữ đó không thể chỉ bó hẹp trong nội dung cụ thể của tranh chấp mà phải
mang tính bao quát, tiên liệu được các tranh chấp kinh doanh, thương mại trong
đời sống kinh tế hiện nay và xây dựng hệ thống pháp luật để đảm bảo tranh chấp
được giải quyết một cách hiệu quả là điều cần thiết. Đặc biệt, trong bối cảnh
Việt Nam đang tham gia sâu rộng vào “sân chơi” quốc tế thì các tranh chấp kinh
doanh thương mại luôn diễn ra gay gắt và phức tạp. Vì vậy, vấn đề minh bạch và



9

tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế đòi hỏi trong việc sử
dụng thuật ngữ nói chung và thuật ngữ tranh chấp kinh doanh thương mại nói
riêng là một vấn đề cần được quan tâm.
1.1.2. Đặc điểm của Tranh chấp kinh doanh, thương mại
Một là, Tranh chấp kinh doanh, thương mại trước hết là những mâu thuẫn
(bất đồng) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể;
Hai là, Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện,
đại lý, ký gửi, thuê, cho thuê, xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ.
Ba là, Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh chủ yếu
giữa các thương nhân. Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp
phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, tổ chức kinh doanh) với
nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp kinh doanh, thương
mại, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là
thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như: tranh chấp
giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty hay tranh chấp về giao dịch giữa một
bên không nhằm mục đích sinh lời với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lời đó chọn áp dụng luật
thương mại.
Bốn là: Mục đích của các bên tranh chấp đều mang tính tài sản, tranh chấp
kinh tế phản ánh những xung đột chủ yếu liên quan đến tài sản, liên quan tới lợi
ích kinh tế của các bên.



10

Tóm lại, Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh trong
đời sống kinh tế, xã hội, nó hội tụ đầy đủ các đặc điểm của một tranh chấp nói
chung. Tuy nhiên, tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh
trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện
hoạt động thương mại đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết tranh chấp
một cách nhanh gọn, hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể kinh doanh.
1.2. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc các bên tranh chấp
thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ
những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích trong hoạt động thương mại
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Trong kinh doanh các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra, bởi
tranh chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm
gián đoạn quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết
tranh chấp. Không những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các
bên tranh chấp, uy tín của chủ thể trên thương trường có thể bị ảnh hưởng, cũng
như các yếu tố khác thuộc về bí mật kinh doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng...
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn
chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở
mức chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu
quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào quan hệ kinh
tế thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ



11

kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo
bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách
đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh và công bằng.
Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để giải quyết, nếu không
giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại rất lớn. Điều đó
không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền kinh tế mà còn gây nên một
khuyết điểm lớn của môi trường kinh doanh, các chủ thể sau tranh chấp có thể
"quay lưng" lại với nhau đố kỵ và không tin tưởng lẫn nhau.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất kinh
doanh, giải quyết tranh chấp hiệu quả sẽ tạo niềm tin, thực hiện công bằng và
bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước để thực hiện sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
Sự phát triển đa dạng của các tranh chấp kinh doanh thương mại và yêu
cầu linh hoạt để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại này là tất
yếu khách quan hình thành nên sự đa dạng của các phương thức giải quyết
tranh chấp. Phụ thuộc vào cơ chế, đặc trưng pháp lý, cũng như nhu cầu điều
chỉnh pháp luật của nền kinh tế hình thành các phương thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại khác nhau như: thương lượng, hoà giải, toà án
và trọng tài.
1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trước pháp
luật, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trước hết là ở chỗ
các bên có quyền thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhất có thể



12

là tự thương lượng, hoặc thông qua trung gian hoà giải hoặc thông qua một hình
thức tài phán.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, hạn chế gián
đoạn quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được thực hiện theo
chu trình sản xuất khép kín, vì vậy, ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục trặc
đều dẫn đến ảnh hưởng toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp
không được tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại
và phát triển vững mạnh của chủ thể kinh doanh. Vậy nên, giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, kịp thời, dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ lợi ích
hợp pháp của các bên.
Trong nền kinh tế, có nhiều phương thức và loại hình giải quyết tranh chấp
khác nhau, tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi
ích của các bên đều được bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải
quyết tranh chấp được quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với
điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó.
1.2.3. Các yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
- Khi giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại cần tạo ra các hình
thức, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại một cách đa dạng,
linh hoạt phù hợp với tính chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ kinh tế trong
nền kinh tế thị trường nhằm đáp ứng được các lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh doanh; Ở Việt Nam tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại phổ biến để các bên tranh chấp có thể sử dụng khi tranh chấp
xảy ra là thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Tùy vào tính chất và mức độ



13

của tranh chấp mà có thể lựa chọn một trong các phương thức trên để phát huy
hết hiệu quả giải quyết tranh chấp.
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được giải quyết nhanh chóng, hợp
pháp, không làm cản trở hoạt hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Trong kinh doanh cá bên đều không mong muốn tranh chấp xảy ra bởi tranh chấp
sẽ làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh cũng như quan hệ làm ăn của các bên.
Vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra việc giải quyết nhanh chóng, hợp pháp là yêu cầu
luôn đặt ra đối với giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
- Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phải chính xác, đúng pháp
luật, phán quyết phải có tính thi hành cao. Khi các bên lựa chọn được phương
thức giải quyết tranh chấp phù hợp thì yêu cầu tiếp theo đặt ra là việc giải quyết
tranh chấp phải chính xác và khi ra phán quyết thì điều quan trọng là phán quyết
phải được được thi hành trên thực tế.
- Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phải đảm bảo tính hiệu
quả về kinh tế (ít tốn kém nhất). Trong kinh doanh, các bên đều đặt mục đích
kinh tế làm mục tiêu, vậy nên khi giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
đảm bảo hiệu quả về kinh tế cũng là một yêu cầu cần được quan tâm.
- Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phải đảm bảo giữ được bí
mật kinh doanh, uy tín của các bên trong hoạt động thương mại. Trong kinh
doanh, uy tín và bí mật kinh doanh quyết định rất lớn tới thành công của các bên.
Vì vậy, ngay khi tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp cũng phải chú ý
tới việc bảo đảm bí mật kinh doanh, uy tín của các bên. Đây cũng là yêu cầu mà
các bên rất quan tâm khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại.


14


1.3. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG
MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1.3.1. Khái niệm trọng tài thương mại
1.3.1.1. Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Theo từ điển luật học của Black's "Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên
đương sự thoả thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên
đương sự đó. Thành phần của trọng tài do các bên đương sự thoả thuận giải
quyết định”.[20]
Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế thị trường: “Trọng tài là một phương thức
giải quyết một cách hoà bình các vụ tranh chấp. là chỉ đôi bên đương sự tự
nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ 3 có tư
cách công bằng, chính trực xét xử, phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực
ràng buộc với cả hai bên”.[15. tr258]
Theo Hiệp hội Trọng tài Hoa kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh
chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem xét, giải
quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên tranh
chấp phải thi hành”.[9]
Như vậy, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài
là phương thức mà theo đó các bên tranh chấp tự nguyện thoả thuận với nhau để
trao quyền giải quyết tranh chấp của mình cho bên thứ ba độc lập và chấp nhận
sự ràng buộc của phán quyết do họ đưa ra.
Ở Việt Nam, pháp luật cũng tiếp cận trọng tài là một phương thức giải
quyết tranh chấp như hầu hết các nước nhưng sử dụng thuật ngữ là “Trọng tài
thương mại” để gọi tên cho phương thức này. Theo Pháp lệnh TTTM năm 2003:


15


“Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại, được các bên thoả thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố
tụng do pháp luật này giải quyết”. Đến Luật TTTM năm 2010: “TTTM là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo các quy
định của Luật này”. Có thể nói, dù cùng một cách tiếp cận với Pháp lệnh TTTM
(2003) nhưng khái niệm TTTM do Luật TTTM năm 2010 đưa ra theo hướng mở
hơn về nội dung tranh chấp và lĩnh vực tranh chấp, đồng thời vẫn thể hiện được
bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp này là tôn trọng đến cùng sự thoả
thuận của các bên tranh chấp. Vì thế, khái niệm này mang những khía cạnh phù
hợp hơn với pháp luật Trọng tài của đa số các nước trên thế giới hiện nay.
Với tư cách là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trọng tài thương mại có các đặc điểm như sau:
Một là, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của
bên thứ ba, trọng tài là bên trung gian do chính các bên đương sự thoả thuận lựa
chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trọng tài hoàn toàn độc lập với các
bên, đứng giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc
để bảo vệ quyền lợi của các bên.
Hai là, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có thủ tục tố tụng
chặt chẽ hơn một số phương thức giải quyết tranh chấp khác như: thương lượng,
hoà giải. Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì trọng tài viên và các bên
đương sự phải tuân thủ đúng trình tự rố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và
Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.
Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết
do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của
trọng tài vừa kết hợp yếu tố thoả thuận (các bên đương sự có thể thoả thuận về
nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ


16


tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị thi hành bắt buộc đối với
các bên).
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp kết hợp được nhiều ưu
điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp khác như: đảm bảo sự tự do thoả
thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ được quan hệ giữa các bên sau khi
giải quyết như phương thức thương lượng, hoà giải; đảm bảo sự chặt chẽ về thủ
tục tố tụng và tính tài phán như hình thức toà án. Khi lựa chọn trọng tài làm
phương thức giải quyết tranh chấp, các bên có thể yên tâm vì tranh chấp sẽ được
trọng tài giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Do vậy, trọng tài là hình thức giải
quyết tranh chấp phổ biến ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
được các nhà kinh doanh sử dụng như một phương thức tối ưu để giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
Về bản chất, TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước
như phán quyết của toà án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên phán quyết của
trọng tài thương mại (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.
Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối đa
uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối
quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
1.3.1.2. Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp
TTTM đã được nhìn nhận như một phương thức giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại có những điểm đặc thù. Bên cạnh đó, TTTM còn được
nhận thức như một cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại,
TTTM có các dấu hiệu sau:


17

Thứ nhất, TTTM là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo Luật

TTTM năm 2010 và quy tắc tố tụng riêng của mình. TTTM có quyền phán quyết
như tòa án và quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi hành.
Tính chất phi chính phủ của TTTM được thể hiện ở các điểm sau:
Trung tâm trọng tài là tổ chức trọng tài không phải được thành lập bởi Nhà
nước mà được thành lập theo sáng kiến của trọng tài viên sau khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép;
Trung tâm trọng tài, các tổ chức trọng tài và các trọng tài viên không nằm
trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, cũng ko thuộc hệ thống cơ quan xét xử
nhà nước.
Các tổ chức trọng tài hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách nhà nước.
Trọng tài viên, HĐTT không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân
danh người thứ ba để ra phán quyết.
Hoạt động của trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà
nước, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ
chức và hoạt động như cấp, thay đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập, giấy
đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài. Nhà nước hỗ trợ các hoạt động
của tố tụng trọng tài như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, cưỡng chế thi
hành quyết định trọng tài.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai
yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không
thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Do đó, về nguyên
tắc thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật, các đương sự có
thể lựa chọn bất kì lúc nào, bất cứ trọng tài ad-hoc nào hoặc bất cứ trung tâm


18

trọng tài nào trên thế giới. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích của nhà nước (lợi ích
công), một số nước trên thế giới chỉ thừa nhận thầm quyền của trọng tài trong

lĩnh vực luật tư; ở Việt Nam tuy không phân biệt luật công và luật tư nhưng pháp
luật nước ta cũng chỉ thừa nhận thẩm quyền của trọng tài trong lĩnh vực thương
mại và một số lĩnh vực nhất định (Điều 2 Luật TTTM năm 2010).
Thứ ba, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo quyền tự
định đoạt của các đương sự rất cao: Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên,
lựa chọn quy tắc trọng tài, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Luật TTTM
năm 2010 tại Điều 14 đã quy định: “ 1. Đối với tranh chấp không có yếu tố nước
ngoài, HĐTT áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; 2. Đối với
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, HĐTT áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn;
nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì HĐTT quyết định áp dụng
pháp luật mà HĐTT cho là phù hợp nhất; 3. Trường hợp pháp luật Việt Nam,
pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung
tranh chấp thì HĐTT được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp
nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.” Ngoài ra một trong các nguyên tắc khi giải
quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM là phiên họp giải quyết tranh chấp
không diễn ra công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nguyên tắc
này đã thể hiện được sự tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh
chấp trong giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu một trong các bên không
thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài (Khoản 5 Điều 61 và Điều 66 Luật TTTM năm 2010).


19

Thứ năm, hoạt động của các tổ chức trọng tài cần sự hỗ trợ của các cơ
quan tư pháp trong đó tòa án có vai trò quan trọng, bởi phán quyết của trọng tài
không mang tính quyền lực nhà nước do đó sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp là hết

sức cần thiết. Theo Luật TTTM năm 2010 của nước ta quy định thì tòa án hỗ trợ
để đảm bảo thi hành thỏa thuận trọng tài, hỗ trợ cho trọng tài trong việc chỉ định
trọng tài viên, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, kiểm tra, giám sát đối với các
quyết định của trọng tài, hủy quyết định trọng tài.
Thứ sáu, trọng tài tồn tại dưới hai hình thức cơ bản: trọng tài vụ việc và
trọng tài thường trực.
Trọng tài vụ việc: là hình thức trọng tài được lập ra để giải quyết các
tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp đó.
Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không có bộ máy giúp
việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Các bên khi yêu cầu
trọng tài vụ việc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố
tụng. Đây là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt, mềm dẻo về phương thức
hoạt động nên nói chung phù hợp với những tranh chấp ít tình tiết phức tạp, có
nhu cầu giải quyết nhanh chóng và các bên tranh chấp có kiến thức và hiểu biết
về pháp luật, cũng như kinh nghiệm tố tụng. Trên thực tế, số lượng tranh chấp
thương mại được giải quyết bằng trọng tài vụ việc không nhiều.
Trọng tài thường trực là những tổ chức trọng tài có hình thức tổ chức, trụ
sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Việc
thành lập, tổ chức và hoạt động chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà chủ yếu là
luật trọng tài năm 2010 và luật doanh nghiệp năm 2005.
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển của trọng tài thương mại và
pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam


20

• Giai đoạn từ 1960 đến 1994:
Trọng tài kinh tế nhà nước
Dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, không có sự bình đẳng về mặt pháp
lý giữa các thành phần kinh tế, chúng ta xây dựng một nền kinh tế thuần nhất

dựa trên hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Các tranh chấp kinh tế thời
kỳ này rất nghèo nàn và đơn điệu, đó chỉ là các tranh chấp về hợp đồng kinh tế
giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau hoặc xí nghiệp quốc doanh với hợp tác
xã. Chính các yếu tố này đã chi phối đến mô hình giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở nước ta. Do đó, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh tế lúc này là Trọng tài Kinh tế nhà nước - Cơ quan quản lý Nhà nước về
chế độ Hợp đồng kinh tế. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ
quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức
năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước
Cơ cấu tổ chức của Trọng tài Kinh tế Nhà nước cũng được cải tổ nhiều
lần, ban đầu theo Nghị định số 20/TTg năm 1960 thì Trọng tài kinh tế được tổ
chức ở Trung ương, Khu (Khu Việt Bắc, Khu tự trị Tây Bắc), Bộ, sau đó được
cải tổ theo cơ cấu: Trọng tài kinh tế Trung ương, Bộ, Tỉnh, rồi lại cải tổ theo địa
giới hành chính là Trọng tài kinh tế nhà nước, tỉnh, huyện (tương đương với cơ
cấu tổ chức của Toà án). Mô hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ
thống tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức tòa án năm
1993. Bắt đầu từ thời điểm này, các tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp
kinh tế. Chức năng của Trọng tài Kinh tế nhà nước lúc bấy giờ là quản lý chế độ
hợp đồng kinh tế; thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thực hiện Hợp đồng
kinh tế; xét xử các tổ chức kinh tế và theo Pháp lệnh Trọng tài kinh tế thì thêm
cả chức năng xử lý, kết luận và tuyên hợp đồng kinh tế vô hiệu.


×