Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DƢƠNG THỊ THỤC

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 60 38 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM HỒNG QUANG

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự hướng dẫn tận tâm, nhiệt
tình của Thầy giáo – TS Phạm Hồng Quang; đồng thời là người đã động viên,
khích lệ em rất nhiều trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp. Em cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành nhất đến tập thể thầy cô giáo đã giảng dạy Lớp cao học
Luật Hành chính, khóa 18 và các thầy cô trong khoa Hành chính nhà nước cũng
như Khoa sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các thầy cô đã giảng dạy
cho em them kiến thức, kĩ năng học tập, nghiên cứu và tạo điều kiện cho em
được hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2012


Học viên

Dƣơng Thị Thục


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................................... 8
1.1 Khái quát về thi hành án dân sự ...................................................................... 8
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự ....................................................................... 8
1.1.2 Đặc điểm của thi hành án dân sự: .............................................................. 10
1.2 Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự .......... 11
1.2.1 Khái niệm quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân
sự ......................................................................................................................... 11
1.2.2 Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước về hoạt động thi hành án dân sự
............................................................................................................................. 14
1.2.3 Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về hoạt động thi hành án dân sự
............................................................................................................................. 16
1.2.4 Nội dung quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân
sự ......................................................................................................................... 17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................................. 22
2.1 Khái quát sự ra đời và phát triển của các quy định pháp luật về quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ....................................... 22
2.1.1 Quy định của pháp luật qua các giai đoạn ................................................. 22
2.1.2 Pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự ................................................. 26
2.2 Thực tiễn quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự
.................................................................................................................... 36
2.2.1 Tình hình thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay……………….….36

2.2.2 Ban hành văn bản pháp luật về quản lý hành chính nhà nước đối với
hoạt động thi hành án dân sự………………………………...…………………39
2.2.3 Quản lý đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự .............. 40
2.2.4 Về quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật,
phương tiện hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự................................ 41


2.2.5 Công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện kiểm sát, giám sát thi hành án ..... 42
2.2.6 Giải quyết khiếu nại, tố cáo........................................................................ 43
2.3. Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự của một
số nước trên thế giới

45

2.3.1 Tổ chức bộ máy .......................................................................................... 45
2.3.2 Quy chế Chấp hành viên ......................................................................... 47
2.3.3 Về thẩm phán thi hành án dân sự ............................................................... 49
2.3.4 Cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp về thi hành án ............................. 49
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................. 51
3.1 Nguyên nhân của tình hình quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động
thi hành án dân sự................................................................................................ 51
3.1.1 Nguyên nhân khách quan ........................................................................... 51
3.1.2 Nguyên nhân chủ quan ............................................................................... 52
3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ..................................................................................................... 53
3.2.1 Hoàn thiện về pháp luật.............................................................................. 53
3.2.2 Giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật................................................... 58
3.2.3 Xã hội hóa công tác thi hành án dân sự ..................................................... 59
3.3.4 Học tập kinh nghiệm nước ngoài


60

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 62


1
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Việc chú trọng tới cuộc sống của nhân dân và đảm bảo công bằng
xã hội luôn là mục tiêu của chế độ, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là
một phương tiện thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vừa là con đường bảo
đảm cho sự công bằng xã hội.
Điều 136 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận “Các bản
án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”. Điều 4 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định “Bản án, quyết
định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức có liên quan trong
phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”. Luật cũng quy định
việc Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên,
trên thực tế, không ít trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án. Do
vậy, nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án,
người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định dân sự có quyền yêu cầu
Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Để đưa các quy định của Hiến pháp vào thực tiễn cuộc sống, đã có rất
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với mục

đích và nguyên tắc đó, để đạt được kết quả tốt nhất trong việc thực thi các bản
án, quyết định của Tòa án trên thực tế thì ngoài việc cần phải có một cơ chế thực
thi sát thực còn phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả cũng như cơ
chế kiểm tra, giám sát các hoạt động đó.
Phạm vi công tác thi hành án dân sự lúc đầu chỉ giới hạn ở việc tổ chức
thi hành các bản án dân sự, hôn nhân gia đình, phần dân sự trong bản án hình sự
thì đến nay đã được mở rộng đối với các loại việc mới như thi hành các bản án,


2
quyết định về kinh tế, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động, các
bản án quyết định của trọng tài Nhà nước, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,
bản án, quyết định dân sự của Tòa án và trọng tài nước ngoài đã được Tòa án
Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam… Điều này làm hoạt động thi
hành án dân sự không còn thuần túy như trước đây mà đã có nhiều nội dung mới
phức tạp hơn. Mô hình tổ chức quản lý, cơ chế quản lý thi hành án nói chung, thi
hành án dân sự nói riêng đã và đang bộc lộ những vướng mắc bất cập, làm hạn
chế hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Đặc biệt là từ sau khi
công tác thi hành án dân sự đã được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các cấp
sang các cơ quan thuộc Chính phủ thì về phương diện lý luận đã và đang diễn ra
các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề khái niệm, bản chất, đặc trưng của
thi hành án dân sự.
Có quan niệm cho rằng: Thi hành án dân sự là một giai đoạn trong quá
trình tố tụng Tư pháp, ý kiến khác lại quan niệm: Thi hành án dân sự là một hoạt
động Hành chính - Tư pháp, song cũng có quan điểm cho rằng Thi hành án dân
sự là một hoạt động mang tính chất “lưỡng tính” (vừa mang yếu tố của hoạt
động Tư pháp vừa mang yếu tố của hoạt động Hành chính). Do vậy hệ thống
pháp luật thi hành án dân sự những năm qua vẫn chưa được hoàn thiện, thiếu
đồng bộ, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi vì chưa được
nghiên cứu xây dựng trên một luận cứ khoa học và thực tiễn đầy đủ, chính xác.

Việc chuyển đổi cơ chế quản lý theo đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ IV (1986) từ cơ chế quản lý tập trung bao
cấp chuyển sang cơ chế mới đa dạng hóa thành phần đã đưa đất nước ta sang
một giai đoạn phát triển mới. Công cuộc đổi mới đất nước diễn ra sâu rộng trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giao lưu dân sự kinh tế trong nước và
quốc tế phát triển, sinh hoạt của cá nhân và cộng đồng trở nên đa dạng và phong
phú. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng nảy sinh rất nhiều vấn đề.
Đứng trước sự biến đổi chung về cơ chế quản lý và đời sống xã hội nói chung –
Thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Những hạn chế về cơ chế
quản lý điều hành, về tổ chức cán bộ, về bộ máy quản lý… Bên cạnh đó chủ


3
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý xã
hội bằng pháp luật, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về Thi hành án. Nghị quyết
Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII đã chủ trương: “Sớm xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý
nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Nghị Quyết Trung ương
Đảng lần thứ 3, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa VIII và Báo cáo
Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định chủ trương hoàn thiện
pháp luật về thi hành án theo hướng thu gọn lại một đầu mối.
Mặt khác thực trạng quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực thi hành
án ở nước ta có rất nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện.
Biểu hiện tiêu cực của thực trạng quản lý kém hiệu quả là kết quả thi hành án rất
thấp, số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, tình trạng khiếu nại kéo dài gây nhức
nhối trong dư luận và các nhà quản lý cũng như trong toàn thể nhân dân. Một
phần của nguyên nhân này là do cơ chế quản lý theo kiểu “Cha chung không ai
khóc” nhiều người, nhiều cơ quan quản lý nhưng không ai chịu trách nhiệm tạo
ra. Có quá nhiều bất cập chồng chéo trong quản lý thi hành án dân sự hiện nay,
chính những bất cập này đã phần nào làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động của

các cơ quan thi hành án dân sự như những bất cập trong việc hoạch định chính
sách, cơ chế pháp lý, công tác quản lý cán bộ của các cơ quan thi hành án dân sự
chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự, tổ chức bộ máy
của các cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ quản lý thi hành án dân sự
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Hơn nữa, trên thực tế công tác thi
hành án cũng chưa được các cấp các nghành quan tâm xứng tầm với nhiệm vụ
của nó dẫn đến việc quản lý thi hành án cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý hành chính Nhà
nước đối với hoạt động thi hành án dân sự” là đề tài luận văn Cao học Luật của
mình. Đây là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều khoa học chuyên nghành
khác nhau như quản lý hành chính nhà nước, quản lý ngành, lĩnh vực… Tuy nhiên
với khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ giới hạn trong
những nội dung cơ bản của quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực thi hành án


4
dân sự, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý thi hành án dân sự nói riêng, hoạt động thi hành án nói chung.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Kể từ khi được thành lập và hoạt động đến nay, có lúc thi hành án dân sự
thuộc quyền quản lý của Tòa án, có khi thi hành án dưới quyền quản lý của các
cơ quan thuộc Chính phủ, cũng đã có những công trình khoa học nghiên cứu về
lĩnh vực này như: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận,
thực tiễn về chế định thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT, do Viện nghiên cứu
Khoa học Pháp lý – Bộ tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì
thực hiện;
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án”, mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì
thực hiện;
- Đề tài: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi

hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”, do Bộ Tư pháp thực hiện;
- Đề tài: “Thi hành án dân sự - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, của dự
án VIE/98/001, do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án;
- Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự”, Luận văn thạc sĩ Luật
học của Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001;
- Đề tài: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng
và hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Công Long, năm
2000;
- Đề tài: “Thi hành án dân sự Việt Nam; thực trạng, vấn đề và những gợi ý
hướng tới một hệ thống hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Kim
Dung, năm 2002;
- Đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Quang Thái, năm 2003;
- Đề tài: “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn thạc
sĩ Luật học của Lê Anh Tuấn, năm 2004;


5
- Đề tài: “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Văn Quảng, năm 2004;
- Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Thị Thu Nga, năm
2004;
- Đề tài: “Thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở Hà Tĩnh” Luận văn
thạc sĩ Luật học của Trần Đình Hải, năm 2009.
Ngoài ra, còn một số công trình khoa học được công bố trên sách, báo, tạp
chí khác nhưng chủ yếu là nghiên cứu các vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ thi
hành án mà chưa đi sâu vào cơ chế cũng như hoạt động quản lý hành chính nhà
nước trong lĩnh vực này.
III. Phạm vi nghiên cứu

Do khuôn khổ hạn chế của một luận văn tốt nghiệp, tác giả chỉ có điều
kiện tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước
đối với hoạt động thi hành án dân sự. Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự, thực tiễn quản lý hành chính nhà nước đối với
hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá các quy định của
pháp luật hiện hành về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành
án dân sự và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định này để tìm ra được những
điểm còn hạn chế, bất cập. Từ đó, đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn
thiện mang tính khoa học và mang tính thực tế vấn đề này.
IV. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
Trên cơ sở lý luận cơ bản và thực trạng quản lý hành chính Nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tác giả đặt ra mục đích nghiên cứu chủ yếu là
đề xuất một số phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý hành chính nhà
nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự của nước ta trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Để có thể thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là :
Thứ nhất : Nghiên cứu làm rõ khái niệm: “Quản lý hành chính nhà nước


6
đối với hoạt động thi hành án dân sự” trong điều kiện hiện nay của nước ta.
Thứ hai : Chỉ ra thực trạng quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự với những mặt được và với những điểm yếu cần khắc
phục của nó. Nguyên nhân của tình trạng đó.
Thứ ba : Trên cơ sở nhận thức lý luận về quản lý hành chính nhà nước đối
với hoạt động thi hành án dân sự đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực
trạng đó, kiến nghị phương hướng, biện pháp tăng cường quản lý hành chính
nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự trong điều kiện cải cách bộ máy nhà
nước ta hiện nay.

V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin. Tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính nhà nước
đối với hoạt động thi hành án dân sự.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích
tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử.
Phương pháp phân tích tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề
được nghiên cứu vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến
quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự.
Phương pháp so sánh, lịch sử được sử dụng kết hợp với nhau. Bởi vì khi
đặt quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự trong hệ
thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này từ trước tới nay, cũng như các quy định
của pháp luật nước ngoài về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự thì luận văn mới có thể nghiên cứu triệt để nhất.
Phương pháp thống kê được sử dụng để nêu rõ số liệu thực tiễn về thực
hiện quy định pháp luật về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự trong những năm qua.
VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hiện nay, những quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước
đối với hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn chưa đầy đủ, còn thiếu sự hệ


7
thống, toàn diện, cần thiết sự tập trung hơn nữa.
Luận văn là công trình ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống và tương đối toàn diện ở góc độ lí luận và thực tiễn về quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự, kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ có nhiều đóng góp về mặt khoa học. Do đó, việc nghiên cứu đề tài
quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự sẽ có

những đóng góp nhất định cho các nhà làm luật trong công tác hoàn thiện
pháp luật về thi hành án dân sự. Các luận cứ và kiến nghị của đề tài có độ tin
cậy và giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời
giúp ích phần nào cho cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp
dụng các quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự.
VII. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự
Chương 3: Hoàn thiện quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự.


8
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1 Khái quát về thi hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự
Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ thi hành án dân sự được đặt trong tổng
thể chung của hoạt động thi hành án. Song trên thực tế, hoạt động thi hành án ở
Việt Nam được chia làm ba loại: Thi hành án dân sự, thi hành án hình sự và thi
hành án hành chính. Sự phân chia đó dựa trên cơ sở của các nét đặc thù của mỗi
loại hoạt động: Tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính. Sở dĩ có
sự phân chia khác nhau như vậy vì hoạt động thi hành án là một hoạt động chứa
đựng nhiều đặc thù, phức tạp. Ngay từ những năm 1945, hoạt động thi hành án
luôn được Nhà nước coi trọng và khẳng định là một trong những phương diện
hoạt động của Nhà nước, thể hiện chức năng quan trọng của Nhà nước là chức

năng đối nội. Tuy nhiên, quan niệm về hoạt động thi hành án nói chung và thi
hành án dân sự nói riêng lại chưa được thống nhất với nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hoạt động thi hành án dân sự là một hoạt
động tư pháp vì nó gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ
luật Tố tụng Dân sự. Do đó thi hành án dân sự chính là một hoạt động của tố
tụng dân sự [25, Tr 9]. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một vấn
đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan thi hành án dân sự không phải
là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên thi hành án dân sự không phải là
người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hoạt động thi hành án dân sự là một loại
hoạt động hành chính vì bản chất, mục đích của thi hành án khác hoàn toàn với
tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự [26, Tr 9]. Bởi lẽ, bản
chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ
án dân sự, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp
luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân
tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và
minh bạch. Còn hoạt động thi hành án dân sự lại là một quy trình đi ngược lại


9
với quy trình thủ tục, tố tụng. Xuất phát từ một bản án, quyết định của toà án, cơ
quan thi hành án dân sự đưa ra một quyết định mang tính hành chính dựa trên
một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh hoạt động của cá
nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Hơn
thế nữa, những người theo quan điểm này còn cho rằng, hoạt động thi hành án
dân sự là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này mang tính chất chấp
hành và điều hành, theo đó, mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Quan
điểm này dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành không quy định cơ quan thi hành án
là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự. Song sự bất hợp lý là ở chỗ nếu coi thi hành
án dân sự là một hoạt động hành chính thì với những trường hợp người được thi

hành án dân sự không làm đơn yêu cầu thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành
án dân sự không thể có cơ sở và các phương pháp hành chính như: Mệnh lệnh,
quyền uy để đưa ra các biện pháp thi hành án dân sự được. Do đó, yếu tố hành
chính không đảm bảo.
Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động
hành chính - tư pháp. Có nghĩa là hoạt động này vừa mang tính hành chính, vừa
mang yếu tố của tính tư pháp chứ không thể chỉ có riêng tính hành chính, hoặc
riêng tính tư pháp [27, Tr 9].
Theo tôi, đây là một quan điểm hết sức hợp lý. Bởi lẽ, thi hành án dân sự
là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, do cơ quan thi hành án dân sự
và chấp hành viên thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về
dân sự của Toà án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự trên
thực tế luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự
nói riêng, đồng thời gắn với quyền lực hành pháp, để thông qua việc tổ chức,
điều hành bằng bộ máy đặc biệt của cơ quan hành pháp, những cá nhân, tổ chức
được thi hành án dân sự được Nhà nước bảo vệ quyền. Đồng thời, cũng qua hoạt
động thi hành án dân sự, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải thi hành án dân
sự phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong trường hợp không thi
hành Quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu sự cưỡng chế của
Nhà nước thông qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ liên quan.


10
Ngoài ra, thi hành án dân sự còn được hiểu theo hai nghĩa: Rộng và hẹp.
Hiểu theo nghĩa hẹp, “thi hành án dân sự là hoạt động của các cơ quan
thi hành án dân sự dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án
ra thi hành trên thực tế” [26, Tr 11].
Hiểu theo nghĩa rộng, “thi hành án dân sự được xem là các hoạt động chỉ
đạo, điều hành hoạt động tác nghiệp và các hoạt động khác theo quy định của

pháp luật để nhằm mục đích đảm bảo các bản án, quyết định của Toà án và các
quyết định khác theo quy định của pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh
trên thực tế” [26, Tr 11]. Nếu hiểu thi hành án dân sự theo nghĩa này thì hoạt
động thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động của cơ quan thi hành án do
các chấp hành viên thực hiện mà là tổng hợp nhiều hoạt động tác nghiệp khác
nhau của các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ. Bao gồm cả cơ quan quản lý, cơ
quan theo dõi, hỗ trợ hoạt động thi hành án, giám sát và giải quyết khiếu nại về
hoạt động thi hành án dân sự, các cơ quan, ban ngành có liên quan nhằm đảm
bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành án được diễn ra đúng quy trình, thủ tục
được pháp luật quy định, đồng thời có chất lượng và hiệu quả trên thực tế.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song thi hành án dân sự được
hiểu là tổng hợp các hoạt động tác nghiệp của cơ quan thi hành án, chấp hành
viên nhằm mục đích bảo đảm việc thi hành trên thực tiễn các bản án, quyết định
của Toà án về dân sự và các quyết định khác theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
được pháp luật quy định.
1.1.2 Đặc điểm của thi hành án dân sự:
Sở dĩ, thi hành án dân sự được quan niệm là hoạt động hành chính – tư
pháp vì đây là những hoạt động phức tạp, mang tính đặc thù. Đặc biệt, so với thi
hành án hình sự, thi hành án dân sự mang những những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà Nước.
Trong đó bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau thực hiện nên
đòi hỏi sự huy động lực lượng không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà


11
cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Do đó, việc thực hiện quyền lực nhà
nước ở hoạt động này là sự phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích. Đó là việc hiện
thực hoá ý chí của Nhà nước thông qua bản án, quyết định của Toà án về một
vụ việc dân sự cụ thể vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự

không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ cương, phép nước, giá trị của pháp luật
mà còn bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức là đối tượng trực tiếp
được thi hành án. Đồng thời thi hành án dân sự còn phải đảm bảo lợi ích hợp
pháp của những người có liên quan đến đối tượng là tài sản trong quyết định
thi hành án dân sự đó.
Thứ ba, thi hành án dân sự là hoạt động chủ yếu là thi hành quyết định
của Toà án về một tài sản nhất định nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại
quyết định đến bản chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự.
Việc thi hành án mang tính chất tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được thi
hành án dân sự. Do đó, trong quá trình thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án
dân sự luôn luôn chú ý và tôn trọng quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu
trách nhiệm về các hành vi thực hiện, không thực hiện của người được thi hành
án dân sự.
Thứ tư, thi hành án dân sự là hoạt động có ý nghĩa trong việc xác định
tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Bởi vì, trong quá trình thi hành án dân sự,
cơ quan thi hành án, chấp hành viên thi hành án có thể phát hiện ra những sai
lầm của bản án, quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến
nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay
quyết định đó được xét xử lại.
1.2 Quản lý hành chính nhà nƣớc đối với hoạt động thi hành án dân sự
1.2.1 Khái niệm quản lý hành chính nhà nƣớc đối với hoạt động thi
hành án dân sự
Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác về quản lý hành chính
nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung
được nội hàm của thuật ngữ này, chúng ta sẽ đi từ khái niệm quản lý.


12
Quản lý là đối tượng của nhiều ngành nghiên cứu khoa học. Theo từ điển
Bách khoa Việt Nam thì: “Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống có tổ

chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội) bảo đảm giữ gìn một
cơ cấu ổn định nhất định duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện
những chương trình mục tiêu của hệ thống đó”. [16, Tr 580]. Quan niệm chung
nhất về quản lý được sử dụng rộng rãi trong khoa học nghiên cứu và trong thực
tiễn là định nghĩa về Quản lý của điều khiển học. Theo quan niệm của điều
khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn
cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay
quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục
tiêu đã định trước.
Trong mối quan hệ của quản lý bao gồm nhiều thành phần khác nhau như
chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý... và
trong hoạt động quản lý một số yếu tố cần phải chú ý như: yếu tố con người, yếu
tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền lực, yếu tố văn hóa… khi thực hiện
hoạt động quản lý.
Có thể nói rằng, quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục
tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất
hiện trước khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay lao
động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao động,
không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao
động. Như vậy, quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân chia quyền
lực, mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp hoạt
động chung của con người.
Nói tóm lại:
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng
quản lý.
Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt
động chung của con người.


13

Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung
của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một
hành động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước.
Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục
tùng và tạo sự thống nhất trong quản lý.
Nói đến quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân
sự là nói đến hoạt động của Bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động thi
hành án dân sự được ổn định và phát triển. Với vai trò là thiết chế trung tâm
trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân
được thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Cùng với đó, công
dân cũng có trách nhiệm phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Nhà nước có
trách nhiệm điều tiết để đảm bảo hoạt động thi hành án dân sự thực hiện có hiệu
quả, đóng góp vào sự nghiệp ổn định và phát triển xã hội. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, khi nước ta đang hòa mình vào công cuộc hội nhập kinh tế quốc
tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói
riêng đang là một vấn đề hết sức quan trọng.
Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu:
Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự là
hoạt động thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động
thi hành án dân sự do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành để thực
thi những bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực thi hành nhằm bảo đảm
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân.
Cách hiểu này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng xét trên phương diện
điều khiển học nó đã xác định được:
Chủ thể của hoạt động quản lý hành chính nhà nước về thi hành án dân
sự: Nhà nước mà chủ yếu đó là các cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước
được Nhà nước trao quyền về quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự.



14
Khách thể của việc quản lý hành chính nhà nước về thi hành án dân sự:
Đó là trật tự quản lý trong việc thực thi những bản án, quyết định của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
Đối tượng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước về thi hành án dân
sự: Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân…thực hiện những
hoạt động liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
Phương tiện quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án
dân sự là hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành.
Mục đích của hoạt động quản lý hành chính nhà nước về thi hành án dân
sự: đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự diễn ra trong khuôn khổ pháp
luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, các tổ chức và công
dân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.2.2 Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nƣớc về hoạt động thi hành
án dân sự
Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự cũng
như quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác, trước tiên phải tuân
theo các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước nói chung như
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa…v.v. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực quản lý có những nét đặc
thù của nó, do đó cần thiết phải tuân thủ một số nguyên tắc có tính riêng biệt.
Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân
sự có một số nguyên tắc đặc thù sau đây:
Thứ nhất là nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định
Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình thống nhất và thể hiện
quyền lực nhà nước. Trên thực tế, việc xét xử chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết
định được thi hành. Vì vậy, về nguyên tắc phải đảm bảo hiệu lực của bản án,

quyết định.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định biểu hiện tính pháp


15
chế xã hội chủ nghĩa trong thi hành án dân sự. Thực hiện nguyên tắc này không
những làm cho bản án, quyết định có hiệu lực thực tế mà còn bảo đảm cho
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện.
Nội dung của nguyên tắc này yêu cầu:
Khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp
cần thiết bảo đảm cho việc thi hành án, phải tuyên bản án, quyết định đầy đủ, rõ
rang, chính xác tạo thuận lợi cho việc thi hành án.
Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải chấp
hành đúng và đầy đủ các phán quyết ghi trong các bản án, quyết định được đưa
ra thi hành.
Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án
dân sự; không gây cản trở, khó khan cho cơ quan thi hành án, Chấp hành viên
trong việc tổ chức thi hành án.
Những hành vi trái pháp luật như cản trở, không chấp hành án, can thiệp
trái pháp luật, tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định là nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước nên Nhà nước cần phải tạo ra
cơ chế pháp lý cụ thể để đảm bảo nguyên tắc được mọi đối tượng tuân thủ chặt
chẽ trên thực tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thuận lợi hơn trong việc quản lý.
Thứ hai là nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự
Quyền yêu cầu thi hành án là một trong các quyền thi hành án cơ bản của
đương sự và là một trong những nội dung quan trọng của quyền bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau khi bản án, quyết định được thi hành, các
đương sự chỉ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình nếu thực hiện được
quyền này trên thực tế, nhất là đối với người được thi hành án. Vì vậy, bảo đảm
quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự trong thi hành án dân sự được quy
định là nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự.


16
Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương
sự xác định:
Người được thi hành án, người phải thi hành án được căn cứ vào bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành của tòa án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền thi hành án. Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải
quyết phải cấp cho đương sự bản án, quyết định đó trong thời hạn pháp luật quy
định. Đương sự có quyền được giải thích đầy đủ về quyền yêu cầu thi hành án
của họ.
Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thi hành án
dân sự
Kết quả thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan thi hành án
dân sự, các cá nhân, cơ quan và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự có
thực hiện đúng, đầy đủ các quyền hạn và nhiệm vụ của họ hay không. Vì vậy,
việc đề cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, các cá nhân, cơ quan và
tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự là cần thiết.
Nội dung của nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thi hành
án dân sự yêu cầu:
Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, các đương sự và các cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác liên quan đến việc thi hành án dân sự phải đề cao trách
nhiệm trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự. Nếu để xảy ra vi phạm, thiệt hại sẽ phải bị chịu
trách nhiệm về vi phạm, thiệt hại đó. Đồng thời, phải bồi thường cho người bị

hại theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi Nhà nước phải kiên quyết xử lý nghiêm
minh đối với những hành vi vi phạm của những người có thẩm quyền trong các
cơ quan Nhà nước gây thiệt hại cho đương sự trong thi hành án dân sự, đảm bảo
cho quyền lợi hợp pháp của đương sự.
1.2.3 Các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc về hoạt động thi
hành án dân sự
Công tác quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội là sự nghiệp của


17
toàn dân, Nhà nước là người thay mặt cho dân, là công cụ mạnh mẽ nhất của
nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Nhà nước thông qua hệ thống
pháp luật do mình ban hành và các công cụ cưỡng chế khác để thực hiện chức
năng quản lý. Vì vậy, về mặt pháp lý, chủ thể quản lý hành chính nhà nước nói
chung, quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự nói
riêng là Nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý có đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước là một bộ máy chính trị, hành chính, một cơ quan
cưỡng chế, và là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Nhà nước có tác động trực tiếp, liên tục tới tất cả các đối tượng,
cộng đồng trong xã hội, các giai tầng khác nhau về chính trị, giai cấp…
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ là cơ quan có chức
năng thống nhất quản lý nhà nước về THADS trong phạm vi cả nước, chỉ đạo
các cơ quan của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong THADS, phối hợp
với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong THADS, định
kỳ hàng năm báo cáo Quốc hội về công tác THADS [2, Tr 131]. Theo đó, hệ
thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về hoạt động thi hành án dân sự
gồm:
Ở trung ƣơng: Chính phủ

Bộ Tư pháp
Tổng cục THADS
(

Bộ Quốc phòng
Cục THADS

Biểu hiện của sự phụ thuộc về quản lý hành chính nhà nước đối

với các cơ quan)
Ở địa phƣơng: Trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước thuộc về Ủy
ban nhân dân các cấp gồm: UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện.
1.2.4 Nội dung quản lý hành chính nhà nƣớc đối với hoạt động thi
hành án dân sự
Mục đích chính, cơ bản nhất của hoạt động thi hành án dân sự là làm cho
các quyết định của Tòa án trong bản án hoặc quyết định được đưa ra thi hành có
hiệu lực trong đời sống xã hội. Hoạt động xét xử mặc dù đạt kết quả cao nhưng


18
thi hành án không có kết quả thì cũng không có ý nghĩa, quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên không được bảo đảm.
Để thực hiện tốt được mục đích đó đòi hỏi ngoài việc phải có một có một
bộ máy trực tiếp thực hiện công tác THADS tốt còn phải có một cơ chế quản lý
công tác THA hiệu quả. Bởi vì cơ chế quản lý sẽ có tác động trực tiếp đến hiệu
quả hoạt động của công tác này. Công tác quản lý THADS có tác động trực tiếp
và hết sức quan trọng đối với hoạt động THADS. Các hoạt động quản lý
THADS tác động trực tiếp đến các nội dung như: về tổ chức bộ máy; về nhân
sự; ( bổ nhiệm, miễn nhiệm...); về chế độ chính sách; (như tiền lương, chế độ
phụ cấp…); đến các nội dung văn bản quản lý…

Ngày 01 tháng 7 năm 1993 công tác THADS được chuyển giao sang các
cơ quan thuộc Chính phủ cho đến nay nhìn lại ta có thể thấy đây là một bước đột
phá trong công tác tổ chức và quản lý hoạt động thi hành án dân sự chứ không
phải là một giải pháp tình thế, nó đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và
những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật
THADS năm 2008 tiếp tục kế thừa những quy định của Pháp lệnh 2004 theo đó
nội dung thủ tục quản lý về thi hành án dân được quy định theo hướng mở rộng
quyền, thủ tục đơn giản và tập trung thu gọn một đầu mối.
Nội dung, thủ tục quản lý thi hành án dân sự theo Luật THADS năm 2008
và các văn bản hướng dẫn thi hành được quy định như sau :
Thứ nhất, về mặt tổ chức – nhân sự.
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về THADS, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về THADS; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch về
THADS; phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS; quản lý hệ thống tổ chức,
biên chế và hoạt động của cơ quan THADS; quyết định thành lập, giải thể các
cơ quan THADS; đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm CHV, Thẩm tra viên; hướng
dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho CHV, Thẩm tra viên và công chức khác
làm công tác THADS; kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong


19
công tác THADS; giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS; quyết định kế hoạch
phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan
THADS; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS; tổng kết công tác THADS; ban
hành và thực hiện chế độ thống kê về THADS; báo cáo Chính phủ về công tác
THADS [2, Tr 131].
Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quản lý nhà nước về công tác THADS và thực hiện quản lý chuyên ngành về

THADS theo quy định của Chính phủ.
Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về THADS
trong quân đội:
Ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật về THADS trong quân đội; bổ nhiệm, miễn nhiệm CHV; đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ THADS cho CHV, Thẩm tra viên và nhân viên làm công tác
THADS trong quân đội; tổng kết, báo cáo Chính phủ về công tác THADS;
Bộ quốc phòng còn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án cho cơ quan thi hành án cấp
quân khu; phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS trong quân đội; quản lý hệ
thống tổ chức, biên chế; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án
trong quân đội; bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan
thi hành án cấp quân khu; khen thưởng, kỷ luật đối với quân nhân làm công
tác thi hành án trong quân đội; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, xử lý vi phạm về thi hành án trong quân đội; quản lý, lập kế hoạch phân
bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động thi hành án trong
quân đội [2, Tr 132].
Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng giúp Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này theo quy định
của Chính phủ.
Tư lệnh quân khu và tương đương trong THADS:
Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc thi
hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn


20
xã hội trên địa bàn quân khu và tương đương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án cấp quân khu; yêu cầu cơ quan thi hành án cấp quân khu báo
cáo công tác, kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án trên địa bàn quân khu và
tương đương; có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng,

Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu; quyết định khen thưởng hoặc
đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong
công tác THADS [2, Tr 135].
Ở địa phương, trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước thuộc về Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh:
Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS
trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có
ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị
của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh; có ý kiến bằng văn bản về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh; quyết
định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá
nhân có thành tích trong công tác THADS; yêu cầu cơ quan THADS cấp tỉnh
báo cáo công tác THADS ở địa phương; yêu cầu cơ quan THADS cấp tỉnh kiểm
tra công tác thi hành án ở địa phương [2, Tr 135].
Ủy ban nhân dân cấp huyện:
Có nhiệm vụ chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong
THADS trên địa bàn; chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn,
phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương
theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện; có ý kiến bằng văn
bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS
cấp huyện; yêu cầu cơ quan THADS cấp huyện tự kiểm tra, đề nghị Thủ trưởng
cơ quan THADS cấp tỉnh kiểm tra công tác THADS ở địa phương; quyết định
khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân
có thành tích trong công tác THADS; yêu cầu cơ quan THADS báo cáo công tác
THADS ở địa phương [2, Tr 136].
Thứ hai, quản lý về cơ sở vật chất


21
Bộ Tư Pháp trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các

chế độ chính sách cụ thể, các văn bản hướng dẫn về công tác tổ chức thi hành án
dân sự; xây dựng đào tạo đội ngũ chuyên môn nghiệp vụ, bảo đảm cơ sở vật
chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho công tác thi hành án dân sự và đội ngũ
thi hành án dân sự. Quản lý các trang thiết bị và tài sản của cơ quan thi hành án
dân sự như trụ sở, xe công, kho tang tài vật...
Thứ ba, quản lý thi hành án về chuyên môn - nghiệp vụ thi hành án.
Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có chức năng thực hiện
việc quản lý thi hành án về mặt chuyên môn nghiệp vụ công tác thi hành án dân
sự trong phạm vi cả nước theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Tư Pháp. Cục thi
hành án thuộc Bộ Quốc phòng phối hợp với Tổng cục thi hành án dân sự thuộc
Bộ Tư Pháp quản lý nghiệp vụ công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản
án hình sự của Tòa án Quân sự.


×