Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.19 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG ANH

CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Bắc

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Xin gửi lời cảm ơn chân thành TS. Nguyễn Hồng Bắc, trưởng bộ môn Tư
pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong suốt thời gian vừa qua, cô đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài nghiên cứu đúng quy định.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ trợ, động viên,
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình hoàn thành cuốn luận văn. Bản
luận văn là đúc kết quá trình nghiên cứu cũng như thực tiễn thực hiện công tác
hộ tích trong thời gian qua. Vì thời gian để hoàn thành bài luận văn không nhiều
nên không thể tránh khỏi sai sót. Do đó, em mong nhận được sự đóng góp của
các thầy cô và bạn bè để bản luận văn được hoàn chỉnh thêm.




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Những vấn đề lí luận về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài 6
1.1. Khái quát chung về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

6

1.2. Lịch sử pháp luật đăng ký hộ tịch ở Việt Nam

12

Chương 2: Các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo

21

pháp luật Việt Nam
2.1. Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài

21

2.2. Đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài

24

2.3. Đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài


27

2.4. Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

28

2.5. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

30

2.6. Thủ tục ghi vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã

34

đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
2.7. Lệ phí đăng ký hộ tịch

36

2.8. Thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

38

Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật đăng ký hộ

44

tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
3.1. Thực trạng đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam


44

3.2.Thực tiễn đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

58

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại

66

Việt Nam
KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Biểu 1:

Lệ phí đăng ký hộ tịch tại một số tỉnh thành phố

36

Biểu 2:


Mức lệ phí hộ tịch trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

37

Biểu 3:

Số liệu công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài trong cả nước

58

Biểu 4:

Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại các tỉnh thành phố

59

trong cả nước năm 2010
Biểu 5:

Số liệu đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài qua các năm trên

61

địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Biểu 6:

Số liệu đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài qua các năm trên

62


địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Biểu 7:

Số liệu đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài qua các năm trên

62

địa bàn thành phố Hà Nội
Biểu 8:

Thống kê số liệu công dân Việt Nam kết hôn với người nước

64

ngoài chia theo đơn vị lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
qua các năm
Biểu 9:

Các trường hợp ghi chú kết hôn của công dân Việt Nam thực
hiện tại nước ngoài

65


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác hộ tịch là lĩnh vực thể hiện rõ nhất chức năng xã hội của Nhà nước, là
cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an

ninh, quốc phòng; là một trong những phương thức để Nhà nước bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân; đồng thời góp phần bảo đảm trật tự xã hội. Nhận thức
tầm quan trọng đó, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều chú trọng
đến công tác hộ tịch.
Bước sang thế kỷ XX, khi sự nghiệp đổi mới đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
mở rộng giao lưu và hợp tác văn hoá thì hiện tượng hộ tịch có yếu tố nước ngoài xuất
hiện ngày càng nhiều. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch ra
đời là một bước tiến mới về công tác hộ tịch với nhiều tham vọng của nhà làm luật về
một cơ chế thoáng, thuận lợi và thống nhất về công tác hộ tịch. Cùng với Nghị định
158/2005/NĐ-CP và Luật Hôn nhân gia đình năm 2000, Nghị định 68/2002/NĐ-CP
Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài; Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn
Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài công
tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài đã được thự hiện một cách linh hoạt hơn.
Tuy nhiên, sau hơn năm năm thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Nghị định
này đã bắt đầu bộc lộ những điểm bất cập trong công tác quản lý và đăng ký hộ tịch,
xuất hiện tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật liên quan đến hộ tịch có yếu tố nước
ngoài để thực hiện những mục đích gây hậu quả trong xã hội.
Vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Vấn đề đăng ký hộ tịch có
yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam” để tìm ra những điểm hạn


2
chế và đưa ra những biện pháp sửa đổi văn bản hộ tịch nói chung và hộ tịch có yếu tố
nước ngoài nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã nói vấn đề đăng ký hộ tịch giữ vai trò rất quan trọng trong việc hoạch
định các chính sách kinh tế xã hội. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề hộ tịch đã có rất nhiều
học giả nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chủ yếu là các nghiên cứu chung về

công tác hộ tịch trong nước hoặc mới chỉ dừng lai ở việc tìm hiểu một lĩnh vực nhất
định của đăng ký hộ tịch như vấn đề khai sinh, vấn đề khai tử… riêng vấn đề đăng ký
hộ tịch có yếu tố nước ngoài thì chưa có học giả nào nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu
Với việc nghiên cứu luận văn nhằm mục đích: Phân tích và đưa ra khái niệm toàn
diện về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, phân tích thực trạng pháp luật Việt
Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài từ đó tìm ra nhưng điểm còn tồn tại,
nguyên nhân tồn tại và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định trong
pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, qua đó tạo cơ sở pháp lý
chặt chẽ cho hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trên lãnh thổ
Việt Nam.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu luận văn đã thực hiện những nhiệm vụ sau:
phân tích các quy định trong pháp luật Việt Nam đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh, toàn
diện về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài; khái quát quy định đăng ký hộ tịch
trong pháp luật Việt Nam, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đăng
ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam để tìm ra những điểm hạn chế, nguyên
nhân và giải pháp khắc phục những hạn chế trong pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ
tịch có yếu tố nước ngoài.


3
4. Phạm vi nghiên cứu
Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài là một trong những nội dung cơ bản của
pháp luật về đăng ký hộ tịch nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Trong khuân
khổ bài nghiên cứu, luận văn chủ yếu đi vào phân tích các quy định của đăng ký hộ
tịch có yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt Nam bao gồm đăng ký khai sinh; khai
tử; giám hộ; kết hôn; nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài; đăng ký các sự kiện hộ
tịch mà công đân Việt Nam đã đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước

ngoài, trong đó vấn đề đăng ký nuôi còn nuôi có yếu tố nước ngoài, kết hôn có yếu tố
nước ngoài đã có rất nhiều học giả nghiên cứu nên phạm vi luận văn chỉ nghiên cứu
hai vấn đề trên trong phạm vi liên quan đến đăng ký hộ tịch mà không đi sâu vào các
lĩnh vực này. Nghiên cứu thực trạng đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch
tạo điều kiện cho sự phát triển của pháp luật cũng như thực tiễn công tác đăng ký hộ
tịch trong đó có đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Để nghiên cứu vấn đề hộ tịch
có yếu tố nước ngoài trong phạm vi luận văn không thể nghiên cứu tất cả các việc hộ
tịch có yếu tố nước ngoài mà chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề chính của
đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài bao gồm: Đăng ký khai sinh có yếu tố nước
ngoài, đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài, đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài,
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài và đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
thủ tục ghi vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã đăng ký tại cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài. Trong đó, vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài
và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được nhiều học giả trong nước nghiên cứu
do đó, trong phạm vi luận văn không đi sâu vào các vấn đề của đăng ký kết hôn và
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mà chỉ nghiên cứu trong mối quan hệ của hai
công tác này với công tác hộ tịch tư pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu


4
Để đạt kết quả nghiên cứu tốt nhất luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam để nghiên cứu phân tích các
quy luật, chính sách kinh tế - xã hội đất nước; sử dụng phương pháp phân tích để phân
tích các quan điểm, quan niệm, các quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu tố
nước ngoài; sử dụng phương pháp tổng hợp trong quá trình phân tích để đưa ra các
quan điểm, các nhận xét có giá trị của bản luận văn; sử dụng phương pháp so sánh
giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới qua đó tìm ra những

điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, tìm ra thực trạng của pháp
luật Việt Nam và những kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam cần học hỏi trong quá
trình hoàn thiện các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài; sử dụng
phương pháp biện chứng và duy vật lịch sử nhằm tìm ra những quy luật hình thành,
phát triển quan điểm về đăng ký hộ tịch, tìm ra mối liên hệ giữa đăng ký hộ tịch có
yếu tố nước ngoài và việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, từ đó
dự đoán xu hướng phát triển hoạt động này trong tương lai để đưa ra giải pháp hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong nước.
6. Những đóng góp của Luận văn
Đóng góp hết sức quan trọng và có giá trị của luận văn là Luận văn đã phân tích
và đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, đặc
điểm, vai trò của đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trong sự phát triển kinh tế-xã
hội, công tác đối ngoại của đấy nước. Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên
nghiên cứu một cách toàn diện và chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật Việt
Nam đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Và một thành công không thể không kể
đến là luận văn đã đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi, bổ sung hoàn chỉnh các quy
định pháp luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Với hướng hoàn
thiện đó Pháp luật Việt Nam sẽ tạo ra cơ chế chặt chẽ, linh hoạt, thống nhất cho hoạt


5
động đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài bảo đảm nguyên tắc bảo hộ quyền công
dân.
7. Kết cấu của Luận văn
Kết cấu luận văn ngoài phần Lời cảm ơn, danh mục những từ viết tắt, mục lục,
lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài
Chương 2: Các quy định về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ tịch có yếu

tố nước ngoài tại Việt Nam.


6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1.

Khái quát chung về đăng kí hộ tịch có yếu tố nước ngoài

1.1.1.Khái niệm đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài
Hiện nay trong các văn bản pháp luật cũng như các tài liệu khoa học pháp lý
chưa có tài liệu nào đưa ra khái niệm về “ Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài”. Tuy
nhiên, xem xét dưới khía cạnh lý luận của Tư pháp quốc tế thì chúng ta có thể phân
tích khái niệm đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài dựa trên hai bộ phận hợp thành:
Thứ nhất là đăng ký hộ tịch và thứ hai là yếu tố nước ngoài.
Vậy đăng ký hộ tịch là gì?
Trong văn bản pháp lý đầu tiên về đăng ký hộ tịch của Việt Nam là Nghị định
số 764-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 8/5/1956 ban hành Điều lệ đăng ký hộ tịch
chưa đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch là gì, tuy nhiên tại Điều 1 Nghị định số 764TTg đã đưa ra mang tính liệt kê các sự kiện đăng ký hộ tịch bao gồm: “đăng ký các
việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ
tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy”
Sau đó Nghị định số 4-CP ngày 16/1/1961 của Hội đồng chính phủ ban hành
Bản điều lệ đăng ký hộ tịch thay thế Nghị định số 764-TTg của Thủ tướng chính phủ
ngày 8/5/1956 có một bước tiên so với Nghị định số 764-TTg tuy nhiên cũng chưa
đưa ra khái niệm về đăng ký hộ tịch, đồng thời cũng không liệt kê các hành vi đăng
ký hộ tịch như quy định tại Nghị định số 764-TTg.
Tại Điều 1 Nghị định Số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về
đăng ký, quản lý hộ tịch và Điều 1 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
về đăng ký và quản lý hộ tịch đều đưa ra khái niệm: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản

xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Công tác hộ
tịch bao gồm hoạt động quản lý hộ tịch, đăng ký hộ tịch và những hoạt động khác có


7
liên quan đến quản lý hộ tịch và đăng ký hộ tịch. Trong đó đăng ký hộ tịch là việc cơ
quan có thẩm quyền: “ Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám
hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại
giới tính; xác định lại dân tộc; Căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn;
hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi”.
Như vậy, đăng ký hộ tịch có hai nhóm hành vi với tính chất khác nhau rõ ràng:
- Hành vi xác nhận các sự kiện. Đối với các sự kiện hộ tịch nói trên, cơ quan
đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc,
đồng thời cấp cho đương sự giấy chứng nhận về việc đó như Giấy khai sinh; Giấy
chứng nhận kết hôn.... Hành vi xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch đã làm phát sinh
hiệu lực pháp lý của các sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi được đăng ký, các sự kiện
đó mới phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của cá nhân.
- Hành vi ghi vào sổ hộ tịch khác với hành vi xác nhận, đối với các việc hộ tịch
này, cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ vào các quyết định (bằng văn bản)
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi chú việc đó vào sổ hộ tịch. Hành vi này
không làm phát sinh hiệu lực pháp lý. Bởi vì bản thân các quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý của việc đó.
Yếu tố thứ hai hợp thành khái niệm đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài đó là
yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài trong đăng ký hộ tịch được xem xét dựa trên 3
yếu tố:
- Yếu tố chủ thể là:
+ Đương sự là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và các sự kiện hộ tịch phát
sinh ở Việt Nam, ví dụ như: việc sinh, tử của người nước ngoai tại Việt Nam. Người
nước ngoài ở đây được hiểu là người có quốc tịch nước ngoài mà không đồng thời có

quốc tịch Việt Nam và người không quốc tịch.


8
+ Một bên đương sự là người Việt Nam còn bên kia là người nước ngoài
+ Giữa người Việt Nam với nhau mà 1 bên định cư ở nước ngoài. (Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm
ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài, được chính quyền nước ngoài cấp phép cư trú vô
thời hạn )
+ Giữa người Việt Nam với nhau mà ít nhất 1 bên định cư ở nước ngoài đang
cư trú tại nước ngoài.
- Yếu tố sự kiện pháp lý: sự kiện đăng ký hộ tịch giữa các bên tham gia là công
dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
- Yếu tố tài sản: Việc đăng ký hộ tịch giữa công dân, tổ chức Việt Nam theo
pháp luật Việt Nam nhưng tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch có yếu
tố nước ngoài là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn;
tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều
chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc; ghi vào sổ hộ tịch các
việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái
pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.1.2 Nội dung đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài
Như đã phân tích trong mục 1.1.1 đăng ký hộ tịch bao gồm hai nhóm hành vi:
Hành vi xác nhận các sự kiện và hành vi ghi vào sổ hộ tịch.
Vậy xác nhận sự kiện trong đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài bao gồm xác
định sự kiện gì?
Hiện nay, đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định
tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị



9
định 158/2005/NĐ-CP) . Theo quy định tại Nghị định này thì xác nhận các sự kiện hộ
tịch có yếu tố nước ngoài bao gồm các công việc sau::
- Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài;
- Đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài;
- Đăng ký giám hộ có yếu tố nước ngoài;
- Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài;
- Đăng ký nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài;
- Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Đăng ký sửa đổi, bổ sung, cải chính các sự kiện hộ tịch trên có yếu tố nước
ngoài.
- Ghi vào sổ hộ tịch việc của công dân Việt Nam đã đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của nước ngoài.
Trong đó việc đăng ký kết hôn; nhận cha, mẹ, con; nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài được thực hiện theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình; Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài (Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) và Nghị định Nghị định 69/2006/NĐ-CP
sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Nghị định 69/2006/NĐ-CP).
Như vậy, để nghiên cứu về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài chúng ta sẽ đi
vào nghiên cứu hai nội dung chính là xác nhận các xự kiện hộ tịch có yếu tố nước
ngoài và ghi vào sổ các sự kiện hộ tịch. Vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu hợn trong
Chương 2 của bài luận văn.


10
1.1.3 Vai trò của việc đăng ký hộ tịchcó yếu tố nước ngoài
Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong thực

tế đời sống của mỗi quốc gia, thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước, là căn
cứ để nhà nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
- Đăng ký hộ tịch có vai trò to lớn trong quản lý nhà nước:
+ Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài là cơ sở để Nhà nước hoạch định các
chính sách phát triển kinh tế, đối ngoại, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...của
đất nước và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Một hệ thống quản lý dữ
liệu hộ tịch đầy đủ, chính xác, được cập nhật kịp thời, thường xuyên sẽ là nguồn tài
sản thông tin hết sức quí giá luôn sẵn sàng hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các
chính sách xã hội một cách chính xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội. Một hệ
thống quản lý hộ tịch đầy đủ, chính xác, kịp thời có thể cung cấp những thông tin cơ
bản về tình hình người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam (cơ cấu theo độ tuổi, giới
tính, dân tộc, tôn giáo, nơi cư trú, tỷ suất sinh, chết; tình hình hôn nhân...) vào bất cứ
thời điểm nào.
+ Hoạt động đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thể hiện tập trung nhất, sinh
động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân
cơ bản của công dân Việt Nam, người nước ngoài đã được ghi nhận trong Hiến pháp
1992 và Bộ luật dân sự như: quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác
định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi và
được nhận làm con nuôi... Ở phương diện này, đăng ký hộ tịch chính là phương tiện
để công dân Việt Nam nói chung và người nước ngoài thực hiện, hưởng thụ các
quyền nhân thân đó bảo đảm nguyên tắc đãi ngộ như công dân. Các dữ liệu về căn
cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thư hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng
nhận kết hôn...) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi
người, mà qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả


11
năng, điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không. Quản lý
hộ tịch là một lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước.
Với ý nghĩa như vậy, việc Nhà nước tổ chức quản lý, đăng ký hộ tịch có yếu tố

nước ngoài chính là sự bảo hộ đối với việc thực hiện các quyền con người trên lãnh
thổ Việt Nam.
+ Quản lý, đăng ký hộ tịch có vai trò to lớn đối với việc bảo đảm trật tự xã hội.
Hệ thống sổ bộ hộ tịch có thể giúp việc truy nguyên nguồn gốc của cá nhân một cách
dễ dàng. Các chứng thư hộ tịch do người có thẩm quyền lập theo thủ tục chặt chẽ có
giá trị là sự khẳng định chính thức của Nhà nước Việt Nam về vị thế của một cá nhân
trong gia đình và xã hội. Ví dụ, trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, khi cần đánh giá
năng lực chủ thể của một cá nhân, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến Giấy
khai sinh của cá nhân đó. Giấy khai sinh chứa đựng các dữ liệu gốc về nhân thân của
cá nhân như ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, họ tên, cha mẹ... Do
đó, khi được sử dụng với tính cách là chứng cứ, các thông tin thể hiện trên Giấy khai
sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án hình
sự, dân sự, lao động...
- Xét từ phương diện khoa học quản lý nhà nước thì quản lý hộ tịch có vị trí
trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Đây là lĩnh vực trọng yếu của nền hành
chính mà mọi quốc gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát
triển, đều phải quan tâm. Sự vững mạnh của một quốc gia liên quan mật thiết với hiệu
quả của hoạt động quản lý dân cư nói chung và quản lý hộ tịch nói riêng. Có thể
khẳng định rằng, các vấn đề pháp lý về quản lý hộ tịch có tầm quan trọng tương tự
như các vấn đề pháp lý về quốc tịch, về biên giới quốc gia, về tổ chức bộ máy nhà
nước… Vì vậy, quản lý hộ tịch phải được điều chỉnh bằng một đạo luật do Quốc hội
ban hành. Trên thế giới, nhiều nước như Pháp, Đức, Nhật Bản…đều điều chỉnh vấn
đề quản lý hộ tịch bằng văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành.


12
Bởi những ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi quốc
gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó phục vụ
cho công tác quản lý Nhà nước luôn được quan tâm.
1.2 Lịch sử pháp luật đăng ký hộ tịch ở Việt Nam

1.2.1 Đăng ký hộ tịch trước Cách mạng Tháng tám năm 1945
Pháp luật đăng ký hộ tịch đã xuất hiện từ rất sớm, trước đây nó là một bộ phận
quan trọng của pháp luật dân sự của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam từ thời kỳ phong
kiến, các vương triều phong kiến cũng chú trọng công tác hộ tịch để quản lý dân cư
trong lãnh thổ của mình. Trong đó có hai bộ luật nổi tiếng là bộ Quốc triều hình luật
và Bộ luật Gia Long của hai triều đại là triều nhà Lê và triều Nguyễn, hai bộ luật này
cho đến nay vẫn được các nhà luật học đánh giá cao về giá trị phát triển của nó.
Theo hai bộ luật này, tại mỗi châu, huyện đều có một viên hộ lại chuyên thực
hiện việc đăng ký nhân khẩu cho châu, huyện mình. Dưới thời kỳ phong kiến xã hội
hình thành hai giai cấp chính là địa chủ và tá điền. Do vậy, để quản lý xã hội, bảo vệ
giai cấp địa chủ - giai cấp thống trị và để dễ dàng cai trị tầng lớp nhân dân phụ thuộc.
Giai cấp thống trị (Vua) các thời đại phong kiến thường tăng cường công tác quản lý
dân cư, hộ khẩu trong toàn quốc. Đặc biệt thời nhà Lê, các đời vua Lê coi trọng việc
học hành, khoa cử, coi trọng hiền tài, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển văn
hoá dân tộc, đồng thời cũng như tất cả các đời vua phong kiến nhà Lê cũng rất coi
trọng tư tưởng nho giáo. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng mạng mẽ đến sự phát
triển của pháp luật của các đời vua khác nhau. Cũng chính vì coi trọng học hành khoa
cử, khuyến khích phát triển hiền tài mà nhà Lê đã cho ra đời bộ luật lớn và có bước
tiến lớn trong lịch sử lập pháp nước ta đó là Bộ Quốc triều hình luật gồm 772 điều,
chia làm 6 quyển, mỗi quyển 2 chương. Trong đó cũng thể hiện sự quan tâm của nhà
Lê với công tác hộ tịch đó là việc quy định 58 điều về hộ tịch tại Chương Hộ hôn (Từ
Điều 284 đến Điều 341).


13
Đến nhà Nguyễn, phần lớn thời kỳ này Việt Nam đặt dưới sự thống trị của thực
dân Pháp. Khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng
thực chất quyền lợi nằm trong tay người Pháp. Thời kỳ này nổi tiếng với bộ Hoàng
Việt luật lệ hay được gọi là Bộ luật Gia Long do vua Gia Long công bố vào năm
1812. Về cơ bản thì quy định về đăng ký hộ tịch trong văn bản này không có nhiều

thay đổi so với bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê.
Quy định về hộ tịch của thời kỳ này có nội dung chủ yếu:
- Pháp luật đều quy định về các “chứng thư hộ tịch” (giấy tờ hộ tịch). Các
“chứng thư hộ tịch” bao gồm: chứng thư giá thú (hay còn gọi là giấy chứng nhận hôn
nhân), chứng thư khai sinh, chứng thư khai tử. Đó là các giấy tờ cần thiết, bắt buộc
mỗi người đân đều phải có. Các giấy tờ này do một viên hộ lại cấp tại mỗi làng, xã.
Việc quản lý hộ tịch được viên hộ lại thực hiện thông qua “sổ hộ tịch”, khi cần thì
người dân có thể xin cấp trích lục.
- Chứng thư hộ tịch do hộ lại cấp có tính chất công khai, dùng làm bằng chứng
cho việc công nhận của chính quyền đồng thời nó cũng là bằng chứng để dẫn chứng
về thân trạng của đương sự khi cần thiết. Bất kỳ ai cũng có thể dùng các chứng thư hộ
tịch để dẫn chứng hoặc đối chiếu với đương sự, do vậy bất cứ ai cũng có thể xin cấp
trích lục chứng thư hộ tịch.
- Ngoài việc cấp các chứng thư hộ tịch thì việc cải chính, thay đổi các chứng
thư này tuy vào từng trường hợp mà do toà án quyết định.
- Các chứng thư hộ tịch phải tuân thủ các điều kiện nhất định nếu không sẽ bị
vô hiệu như: chứng thư phải do viên hộ lại cấp hay người được viên hộ lại uỷ nhiệm
cấp trong trường hợp vắng mặt; chứng thư hộ tịch phải được ghi chép vào sổ hộ tịch;
các chứng thư hộ tịch phải được ghi ngay khi đương sự khai. Trong trường hợp có sai
sót về họ tên, tuổi, địa chỉ mà không làm sai lệch căn cước của đương sự thì chứng
thư hộ tịch vẫn có giá trị pháp lý.


14
- Những người có trách nhiệm phải đến khai trực tiếp với hộ lại như việc lập
chứng thư khai sinh, khai tử. Đối với những việc cần có người làm chứng như lập hôn
thú thì cần phải có người làm chứng đi cùng. Người làm chứng có thể là nam hay nữ
nhưng độ tổi nhất định phải từ 21 tuổi trở lên.
- Trong quá trình đăng ký các sự kiện hộ tịch, để đảm bảo việc đăng ký được
khách quan, tránh việc làm bừa, làm ẩu, tuỳ tiện của viên chức hộ lại, Bộ luật hình sự

cũ đã quy định nhiều chế tài nghiêm khắc như phạt tù hay phạt bạc để trừng trị nhữn
hành vi vi phạm như: “cố ý làm hư hỏng, xoá bỏ, huỷ hoại hoặc làm thất lạc sổ hộ
tịch” (Luật Giản yếu); sơ xuất không đăng ký các sự kiện hộ tịch …..
- Về chứng thư khai sinh: chứng thư khai sinh do viên hộ hại lập để chứng nhận
sự sinh ra của một người trong phạm vi làng xã. Được thực hiện trong 8 ngày (đối với
miền Bắc và miền Trung) 1 ngày với (miền Nam) kể từ khi đứa trẻ sinh ra. Nội dung
của giấy chứng sinh bao gồm: ngày, tháng, năm khai sinh; ngày, tháng, năm đẻ;con
trai hay con gái; họ tên đứa trẻ; họ tên, chức vụ, chỗ ở của người cha; giá thú của cha,
mẹ (trừ trường hợp không biết như đẻ hoang, người khai muốn dấu tên mẹ); họ tên,
chức nghiệp, chỗ ở của người đứng khai và người làm chứng.
- Về chứng thư giá thú: gái thú là sự kết hợp của người đàn ông và người đàn
bà theo thể thức luật định (tức là được nhà nước công nhận hai người là vợ chồng).
Để được lập giá thú hai bên phải tuân thủ điều kiện về thể chất, tinh thần, tuổi, sinh lý,
có chứng chỉ tiền hôn nhâ (Giấy khám sức khoẻ) và yếu tố tinh thần là sự ưng thuận
của hai bên. Một số thời kỳ còn cần có sự đồng ý của bố mẹ. Đồng thời không vi
phạm điều kiện cấm kết hôn: như cấm song hôn, cấm kết hôn giữa những người có
quan hệ họ hàng gần.
- Chứng thư khai tử: quy định tại các làng, xã khi có người chết thì viên hộ lại
thực hiện khai tử theo yêu cầu của thân nhân người chết.
Nhận xét chung về pháp luật thời kỳ phong kiến:


15
- Trong thời kỳ phong kiến pháp luật của các triều đại phong kiến nước ta hầu
hết chịu nhiều ảnh hưởng của phong kiến Trung Quốc, các quy định về dân sự nói
chung về hộ tịch nói riêng gần như sao chép hoàn toàn của pháp luật Trung Quốc. Chỉ
có pháp luật thời nhà Lê là ít chịu ảnh hưởng và mang tính dân tộc cao. Thời nhà
Nguyễn thì chịu ảnh hưởng của Pháp, luật pháp quy định nhằm phục vụ cho sự cai trị
của thực dân Pháp.
- Phạm vi, đối tượng của đăg ký hộ tịch rất hẹp, chỉ có quản lý và chỉ coi đăng

ký các việc như đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, đăng ký hôn thú là việc đăng ký
hộ tịch. Việc giao nhận nuôi con nuôi, xác nhận cha mẹ con, giám hộ, đăng ký thay
đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký quá hạn, đăng ký lại, đăng ký hộ tịch có yếu tố nước
ngoài……đều được coi là chế định dân sự chứ không được coi là một phạm trù của
đăng ký hộ tịch.
- Thẩm quyền đăng ký hộ tịch chỉ được thực hiện ở cấp cơ sở, nơi xảy ra sự
việc (sinh, tử, kết hôn). Việc xin trích lục bản sao được cấp cho bất kỳ ai nhưng lại
gây khó khăn vì phải xuống tận nơi đăng ký ở cơ sở gốc xin.
- Những việc đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch rất ít xảy ra nên giao thẩm
quyền thực hiện cho toà án. Và được ghi bên lề của các chứng thư hộ tịch sau khi có
phán quyết của toà án.
1.2.2 Đăng ký hộ tịch sau năm 1945
1.2.2.1 Đăng ký hộ tịch từ năm 1945 đến năm 1961.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được
thành lập. Ngay từ khi ra đời, công tác hộ tịch đã được nhà nước ta quan tâm, đặc biệt
trú ý đến công tác thị thực và các giấy tờ hộ tịch. Tại Sắc lệnh số 59/SL ngày
15/11/1945 đã giao quyền thị thực các giấy tờ hộ tịch cho UBND xã mà trước đây là
do các Lý trưởng tại các làng, hay trưởng các khu phố ở thành thị đảm nhận. Riêng ở
thành thị việc thị thực của UBND các phố phải thêm dấu thị xã, khu phố chứng nhận.


16
Ngày 8/5/1956 lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nhà nước Việt Nam, Thủ
tướng chính phủ đã ban hành bản điều lệ đăng ký hộ tịch kèm theo Nghị định
764/TTg. Nghị định này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục các việc đăng ký hộ
tịch như việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký và ghi chú các thay đổi
hộ tịch. Ngoài ra liên quan đến đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài còn quy định
việc đăng ký hộ tịch đối với người Việt kiều về nước và ngoại kiều đang làm ăn sinh
sống tại Việt Nam. Tuy nghị định này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng đã
làm tiền đề cho sự ra đời của những quy định về hộ tịch sau này.

1.2.2.2 Đăng ký hộ tịch từ năm 1961 đến trước năm 1998
- Ngày 16/1/1961 Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định số 4-CP Ban
hành Bản điều lệ đăng ký hộ tịch thay thế Nghị định số 764-TTg.
Qua một thời kỳ dài tuy đất nước đã được thành lập nhưng chưa thống nhất hai
miền nam, bắc, nhiệm vụ quan trọng của đất nước lúc này là đấu tranh giải phóng đất
nước. Sau năm 1975 khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng, tình hình đất nước lúc này
còn nhiều khó khăn, công việc trọng yếu trước mắt là ổn định chính trị, xây dựng lại
bộ máy chính quyền, đồng thời ổn định sản xuất nâng cao đời sống của nhân dân.
Công tác hộ tịch trong một thời gian dài không được quan tâm, tình trạng hộ tịch có
yêu tố nước ngoài lại càng ít được trú trọng. Trước năm 1986, Nhà nước ta thực hiện
chủ trương bế quan toả cảng, chỉ giao lưu kinh tế với một số nước cùng trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa, số lượng người nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu theo chính
sách chính trị.
1.2.2.3

Đăng ký hộ tịch từ năm 1998 đến trước năm 2006

Bản diều lệ hộ tịch ban hành kèm theo Nghị định số 4-CP năm 1961 có nhiều
quy định không còn phù hợp. Nhiều sự kiện hộ tịch mới phát sinh chưa được quy định
hoặc quy định không cụ thể. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đăng
ký hộ tịch chưa được thực hiện một cách đầy đủ và thống nhất. Cán bộ thực hiện công


17
tác hộ tịch hầu như là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo nên trình độ chuyên môn kém,
vì vậy mà nhiều sự kiện xảy ra rất lâu sau mới được đăng ký, số liệu thống kê cũng
không chính sác ảnh hưởng rất lớn đến việc lập các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước. Ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch cũng chưa cao.
Đồng thời sau năm 1986 với chủ trương mở cửa nền kinh tế tỉ lệ người nước
ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều. Họ đến Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống do

đó nhà nước ta cũng cần có những chính sách hộ tịch bảo đảm cho người nước ngoài
cũng được đối xử như công dân Việt Nam, bảo đảm để họ được thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của người nước ngoài như công dân Việt Nam.
Để đáp ứng nhu cầu đó ngày 10/10/1998 Chính phủ ban hành Nghị định
83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch (Nghị định 83/1998/NĐ-CP). Đối chiếu với các
quy định về đăng ký hộ tịch năm 1961 phạm vi điều chỉnh của Nghị định
83/1998/NĐ-CP đã được mở rộng hơn như: điều chỉnh cả các sự kiện như ghi vào sổ
hộ tịch; đăng ký hộ tịch; điều chỉnh thống nhất quan hệ hộ tịch trong phạm vi cả nước,
kể cả các quan hệ hộ tịch tại các cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài; mở rộng không chỉ điều chỉnh quan hệ giữa công dân với nhau mà còn
giữa công dân với nhà nước.
So với Nghị định 04-CP Nghị định 83/1998/NĐ-CP có bố cục lớn hơn, thể hiện
một cách chi tiết trình tự, thủ tục, thẩm quyền đăng ký hộ tịch tại 6 chương, 97 điều.
Đã đưa ra khái niệm về hộ tịch “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng
nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đăng ký hộ tịch theo quy định
của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Xác nhận các sự kiện:
Sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ
đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký
khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng ký hộ


18
tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng
lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ hôn nhân trái pháp luật,
hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác do
pháp luật quy định.”.
Với khái niệm như vậy, chúng ta có thể thấy so với Điều lệ hộ tịch năm 1961,
Nghị định 83/1998/NĐ-CP đã thể hiện một cách rõ nét khái niệm hộ tịch và những
việc hộ tịch mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đăng ký và ghi vào sổ hộ tịch.

Nghị định này cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về đăng ký hộ tịch (Điều 3), quy định về nguyên tắc đăng ký hộ
tịch, kiểm tra, xử lý vi phạm (Điều 4); quy định đăng ký, quản lý hộ tịch (Điều 5)…..
Nghị định này cũng quy định những điều về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước
ngoài tại một chương riêng gồm đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, đăng ký khai
tử có yếu tố nước ngoài xảy ra ở Việt Nam cho công dân Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Còn việc đăng ký kết hôn, nhận nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ, con, nhận đỡ đầu
(giám hộ) giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa công dân Việt Nam
với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của Pháp
lệnh hôn nhân và gia đình năm 1993 và Nghị định 184/CP ngày 30/11/1994 về thủ tục
kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài.
1.2.2.4

Đăng ký hộ tịch từ năm 2006 đến nay

Nghị định 83/1998/NĐ-CP đã giải quyết được nhiều vấn đề mới phát sinh trong
việc đăng ký hộ tịch mà thời kỳ trước không giải quyết được. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của xã hội các mối quan hệ xã hội trong nước đã có nhiều sự biến động;
cùng với sự phát triển của nền kinh tế quá trình đăng ký hộ tịch cũng đòi hỏi cần giản
tiện, nhanh chóng bảo đảm quyền lợi của công dân. Do đó, Nghị định 83/1998/NĐCP đã không còn đáp ứng yêu cầu mới nữa. Ngày 27/12/2005, Chính phủ ban hành


19
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch. Nghị định bao gồm 99
Điều, 9 chương. Quy định cụ thể, giảm nhẹ thủ tục hành chính với công tác hộ tịch.
Liên quan đến vấn đề đăng ký hộ tịch, đặc biệt là đăng ký hộ tịch có yếu tố nước
ngoài hiện nay ngoài Nghị định số 158/2005/NĐ-CP còn được điều chỉnh theo một số
văn bản pháp luật khác:
- Bộ luật dân sự 2005;

- Luật Hôn nhân và Gia đình số 22/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội, có
hiệu lực ngày 01/01/2001;
- Luật Quốc tịch 2008;
- Luật Nuôi con nuôi năm 2010
- Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi
con nuôi.
- Nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
- Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật
hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Không chỉ điều chỉnh theo pháp luật trong nước mà đăng ký hộ tịch còn được
điều chỉnh bới quy chế pháp lý quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay trên phạm vi quốc tế
chưa có điều ước quốc tế nào điều chỉnh chuyên biệt về lĩnh vực quản lý và đăng ký
hộ tịch mà chỉ có các điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa các quốc gia
liên quan đến một số lĩnh vực của đăng ký hộ tịch.
+ Điều ước quốc tế đa phương: Công ước về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực con nuôi quốc tế (Công ước Lahay) ngày 29/5/1993. Việt Nam đã ký gia
nhập Công ước ngày 7/12/2010; Nguyên tắc thứ 3 của Tuyên bố Liên Hợp quốc về
quyền trẻ em năm 1959 cũng quy định: “trẻ em sinh ra có quyền được đăng ký khai
sinh” khoản 1 Điều 7 Công ước quy định: “trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức


20
sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời có họ tên, quốc tịch và trong chừng
mực có thể có quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc”.
+ Điều ước quốc tế song phương (Hiệp định tương trợ tư pháp). Hiện nay, Việt
Nam đã gia nhập 16 hiệp định song phương về tư pháp quốc tế. Trong các hiệp định
tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước đều có những quy định dẫn
chiếu đến áp dụng pháp luật nước nào sao cho có lợi nhất trong việc bảo vệ quyền lợi
của trẻ em, quyền dân sự của công dân đặc biệt là liên quan đến công tác hộ tịch như

đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi….Hầu hết đều sử dụng hệ thuộc
luật quốc tịch để giải quyết.
Những văn bản pháp lý trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc điều chỉnh có hiệu
quả việc đăng ký hộ tịch nói chung và đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói riêng
ở Việt Nam hiện nay.


21
CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Về đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam hiện nay được thực hiện
theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP, theo đó đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài bao
gồm: Đăng ký khai sinh; khai tử có yếu tố nước ngoài; giám hộ; nuôi con nuôi; kết
hôn; nhận cha, mẹ, con; sửa đổi, bổ sung, cải chính các sự kiện hộ tịch trên có yếu tố
nước ngoài. Và thủ tục ghi vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã
đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
2.1 Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài.
Giấy khai sinh được xem như là giấy tờ hộ tịch “gốc”, đầu tiên và quan trọng
nhất của mỗi cá nhân. Giấy khai sinh là bằng chứng pháp lý đầu tiên và quan trọng
nhất xác định một người đã sinh ra. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về
họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính, dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan
hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. Khi giữa các giấy tờ
liên quan đến nhân nhân thân của một người và giấy khai sinh của bạn có sự khác
biệt, thì cần phải điều chỉnh nội dung trong các giấy tờ khác phù hợp với giấy khai
sinh. Về nguyên tắc, giấy khai sinh hầu như không thể thay đổi nội dung. Thủ tục khai
sinh không chỉ quan trọng với cá nhân trong nước mà còn với cả những đối tượng trẻ
em có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, người không quốc tịch, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài (gọi chung là khai sinh có yếu tố nước ngoài. Vậy thủ tục khai sinh
có yếu tố nước ngoài được quy định như thế nào?

Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài được quy định tại 2 điều là Điều 49 và
Điều 50, Chương III, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.
2.1.1 Các trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài


×