Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tội gián điệp trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.27 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN ANH TUẤN

TỘI GIÁN ĐIỆP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRƯƠNG QUANG VINH

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỘI GIÁN ĐIỆP TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 6
NĂM 1999
1.1.

Khái niệm tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam


6

1.2. Dấu hiệu pháp lí hình sự của tội gián điệp

9

1.2.1. Khách thể của tội phạm

9

1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

9

1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

26

1.2.4. Chủ thể của tội phạm

28

1.3. Đường lối xử lí tội gián điệp

30

1.3.1. Nguyên tắc xử lí

30


1.3.2. Hình phạt

38

Chương 2: HOÀN THIỆN QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT

42

HÌNH SỰ VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP
2.1.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về dấu hiệu

43

định tội đối với tội gián điệp
2.2.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về hình phạt

57

đối với tội gián điệp
2.3.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về

61

miễn trách nhiệm hình sự đối với tội gián điệp

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

67


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

An ninh quốc gia

ANQG

Bộ luật hình sự

BLHS

Trách nhiệm hình sự

TNHS

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Tội gián điệp là tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG, nên pháp
luật hình sự Việt Nam qui định hình phạt rất nghiêm khắc để áp dụng đối với
người phạm tội. Ở Việt Nam, từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay,
để tiến hành xâm lược và thực hiện ý đồ xoá bỏ chế độ XHCN, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch luôn tiến hành các hoạt động chống Nhà nước ta
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hoạt động gián điệp được bọn chúng coi là
một phương tiện rất hữu hiệu. Thực tế cho thấy, hoạt động này đã diễn ra trên
các lĩnh vực quan trọng như: chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học công nghệ, an ninh, quốc phòng và đối ngoại gây cho ta không ít thiệt hại. Do
vậy, việc phòng ngừa, phát hiện và xử lí các hành vi phạm tội gián điệp
luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” [9, tr.39-40]. Để tạo cơ sở pháp lí cho
việc phòng ngừa, phát hiện và xử lí các hành vi phạm tội gián điệp, Nhà nước
ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật hình sự qui định về tội phạm
và hình phạt đối với hoạt động gián điệp, đặc biệt là việc ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 và 1999. Những qui định này là cơ sở pháp lí quan trọng để
xử lí người thực hiện hành vi phạm tội gián điệp, góp phần to lớn trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án gián điệp
cho thấy: nội dung qui định trong cấu thành tội phạm của tội gián điệp “còn
có những bất cập, khó thực hiện, khó chứng minh trên thực tế, vì vậy, gây
không ít khó khăn cho công tác điều tra, xử lí, thậm chí là để bỏ lọt tội phạm”


2

và “dễ bị các thế lực thù địch và phản động quốc tế tìm cách xuyên tạc” [2,
tr.13-14]. Do đó, những qui định của BLHS về tội gián điệp cần phải mô tả cụ

thể, rõ ràng về các dấu hiệu thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm nhằm tạo
điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách dễ dàng, thuận
tiện và thống nhất; đồng thời, đảm bảo được yêu cầu bảo vệ ANQG và không
để các thế lực thù địch, các phần tử chống đối lợi dụng tuyên truyền vu cáo,
xuyên tạc chính sách hình sự của Nhà nước ta. Hơn nữa, về mặt lí luận, việc
nghiên cứu những qui định của BLHS về tội gián điệp để chỉ ra những nội
dung còn bất cập, vướng mắc chưa được thực hiện một cách hệ thống và toàn
diện. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện qui định của Bộ luật
hình sự về tội gián điệp, góp phần thực hiện tốt chính sách hình sự của Nhà
nước ta trong giai đoạn cách mạng mới.
Với những lí do trên, việc nghiên cứu đề tài "Tội gián điệp trong Luật
hình sự Việt Nam" là cần thiết, có ý nghĩa lí luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay ở Việt Nam, tội gián điệp trong Luật hình sự Việt
Nam đã được một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trong các công trình
như: "Các tội xâm phạm ANQG" trong “Giáo trình Luật hình sự - Tập 1” do
GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2008; “Các tội xâm phạm ANQG trong
Luật hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội, năm 2000 hoặc
“Một số suy nghĩ về hoàn thiện qui định TNHS tội gián điệp”, Tạp chí Công
an nhân dân, số 10 năm 1999 của tác giả Bạch Thành Định; "Các tội xâm
phạm ANQG" trong “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các
tội phạm)", Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2007 của PGS.TS
Phùng Thế Vắc; “Các tội xâm phạm ANQG và vấn đề hoàn thiện Luật hình
sự qui định TNHS với các tội xâm phạm ANQG” trong “Luật hình sự Việt


3

Nam - Những vấn đề lí luận và thực tiễn”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 1997 hoặc “Hoàn thiện các qui
định về TNHS và các tội xâm phạm ANQG trong bối cảnh đổi mới toàn diện
đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” trong Chuyên đề:
Một số vấn đề lí luận, thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi),
Thông tin khoa học pháp lí, Viện nghiên cứu khoa học pháp lí, Bộ Tư pháp
năm 1998 của PGS. PTS Kiều Đình Thụ; “Bảo vệ ANQG bằng pháp luật hình
sự” trong "Bảo vệ ANQG, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp
luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH. PGS
Lê Cảm (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2007 hoặc “Những
vấn đề lí luận về bảo vệ ANQG bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 07 năm 2007 của
TSKH. PGS Lê Cảm; “Về thời điểm hoàn thành tội gián điệp (Điều 80 BLHS
1999)”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 07 năm 2001 của Thạc sĩ Lê Đăng
Doanh; “Trách nhiệm về tội gián điệp”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 05 và 06
năm 1991 của Nguyễn Vạn Nguyên; “Hành vi khách quan của tội gián điệp
trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 01 năm 2003 của
Thạc sĩ Nguyễn Duy Thuân;…
Những kết quả nghiên cứu trong các tác phẩm và các bài nghiên cứu
khoa học nêu trên là những tư liệu quí giá về mặt lí luận cho việc nghiên cứu
đề tài. Mặc dù vậy, những kết quả đó mới đề cập đến một số nội dung nhất
định của tội gián điệp mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về
tội gián điệp dưới góc độ Luật hình sự. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: "Tội
gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam" là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về tội gián điệp, qua đó nhằm
góp phần hoàn thiện qui định của Bộ luật hình sự về tội gián điệp.


4


3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích được xác định như trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích qui định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gián điệp,
qua đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của Bộ luật hình sự cũng như khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử tội gián điệp của
các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện qui định của Bộ luật hình sự về tội
gián điệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội
gián điệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm các phương pháp phân tích,
tổng hợp, hệ thống, lịch sử, tổng kết kinh nghiệm, so sánh pháp luật và
phương pháp chuyên gia.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Làm sáng tỏ về mặt lí luận của cấu thành tội phạm và TNHS về tội
gián điệp, đồng thời chỉ ra được những điểm hạn chế của Bộ luật hình sự qui
định về tội gián điệp, cũng như những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của Bộ luật hình sự
về tội gián điệp, qua đó đề xuất mô hình lí luận của tội gián điệp trong BLHS.


5


7. Giá trị lí luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
quan trọng.
- Về lí luận:
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống
về tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam với những đóng góp về mặt
khoa học đã nêu trên.
- Về thực tiễn:
Luận văn góp phần vào việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của
người phạm tội gián điệp trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Luận văn còn có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
công tác lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn của
các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp
luật, sinh viên và học viên ở các Trường, Học viện và Viện nghiên cứu đào
tạo chuyên ngành Luật hình sự.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
luận văn gồm 2 chương, 6 mục.
Chương 1: Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự năm 1999
Chương 2: Hoàn thiện qui định của Bộ luật hình sự về tội gián điệp


6

Chương 1
TỘI GIÁN ĐIỆP TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
1.1. Khái niệm tội gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam
Dưới góc độ lập pháp hình sự thì tội gián điệp đã được qui định trong

các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta từ sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, tuy nhiên quan niệm về tội gián điệp ở từng thời kì cách mạng còn
có sự khác biệt nhau. Vì vậy, dưới góc độ khoa học, chúng ta cần thiết phải
làm rõ khái niệm tội gián điệp. Bởi vì, khái niệm tội gián điệp là khởi điểm
cho việc giải quyết bản chất tất cả những vấn đề của TNHS về tội gián điệp.
Việc nhận thức đúng đắn khái niệm tội gián điệp là cơ sở quan trọng cho quá
trình lập pháp cũng như áp dụng pháp luật hình sự đối với tội gián điệp và xây
dựng nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này.
Theo Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 qui định trừng trị những tội
phạm xâm hại đến an toàn nhà nước, đối nội và đối ngoại thì: Tội làm gián
điệp là “hành vi làm nội gián trong các tổ chức quân, dân, chính; cố ý tiết lộ hoặc
bán bí mật quốc gia cho địch; dò xét bí mật quốc gia; mua, cướp, lấy cắp những
tài liệu bí mật quốc gia; làm dấu hiệu cho địch bắn phá hoặc lùng bắt cơ quan, cán
bộ, nhân dân; làm liên lạc, đưa thư, tài liệu, tin tức, đưa người cho địch”.
Theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 thì
tội gián điệp là “hành vi cung cấp, chuyển giao hoặc lấy cắp, thu thập cất giữ
để cung cấp, chuyển giao những bí mật Nhà nước, bí mật quân sự cho bọn đế
quốc và bè lũ tay sai của chúng, cho cơ quan tình báo nước ngoài, nhận chỉ thị
của nước ngoài, tổ chức người điều tra tình báo hoặc tiến hành những hoạt
động phản cách mạng khác, chỉ điểm cho bọn xâm lược ném bom, bắn phá;
nhận chỉ thị của nước ngoài, thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu tuy không
thuộc bí mật Nhà nước, nhưng để nước ngoài sử dụng gây thiệt hại cho lợi ích
của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa”.


7

Theo qui định của BLHS năm 1999 thì tội gián điệp là “hành vi hoạt
động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại

theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn
đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình
báo, phá hoại; cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho
nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước
ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.
Trên cơ sở qui định của BLHS năm 1999 về tội gián điệp, hiện nay
trong khoa học luật hình Việt Nam các nhà nghiên cứu có những quan niệm
khác nhau về tội gián điệp.
Theo PGS.TS Phùng Thế Vắc thì: Tội gián điệp là hành vi của người
nước ngoài, người không quốc tịch hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ
sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
hoặc là hành vi của công dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá
hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài, hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa
chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt
động tình báo, phá hoại hoặc có hành vi cung cấp hay thu thập nhằm cung cấp
tin tức tài liệu thuộc bí mật Nhà nước hay không thuộc bí mật Nhà nước cho
nước ngoài để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
[21, tr.16].
Theo Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: Tội
gián điệp là hành vi của công dân nước ngoài, người không có quốc tịch hoạt
động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tội gián điệp cũng có thể là hành vi của
công dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo
của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc


8

thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;
cung cấp hay thu thập nhằm cung cấp tin tức tài liệu thuộc bí mật Nhà nước

hay không thuộc bí mật Nhà nước cho nước ngoài để nước ngoài sử dụng
chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam [18, tr.338-339].
Theo TSKH.PGS Lê Cảm thì: tội gián điệp có thể được hiểu là việc
thực hiện bất kì hành vi nào (được liệt kê tại điều luật đã nêu) của người nước
ngoài hoặc người không quốc tịch nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam [6, tr.110-111].
Những khái niệm nêu trên về tội gián điệp, dù ở phương diện lập pháp
hay nghiên cứu khoa học, các nhà lập pháp hay nhà khoa học đều chưa phản
ánh đầy đủ các dấu hiệu thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm của tội gián
điệp, mà mới chỉ ra được dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội
phạm. Chúng tôi cho rằng, dưới góc độ khoa học Luật hình sự khái niệm tội
gián điệp cần phải phản ánh được một cách đầy đủ các dấu hiệu thuộc các yếu
tố cấu thành tội phạm của tội phạm này. Và do vậy, theo chúng tôi khái niệm
tội gián điệp cần được định nghĩa như sau:
Tội gián điệp là hành vi hoạt động tình báo, phá hoại, gây cơ sở để
hoạt động tình báo phá hoại; hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo
của nước ngoài, hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc
thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;
cung cấp, thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước, tin tức tài liệu khác cho
nước ngoài do công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch
có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định thực hiện một cách cố ý trực tiếp
nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Như vậy, khái niệm này đã phản ánh được đầy đủ các dấu hiệu thuộc các
yếu tố cấu thành tội phạm của tội gián điệp. Phân tích định nghĩa về tội gián điệp
nêu trên sẽ cho phép chúng ta nhận thức về các yếu tố cấu thành tội phạm của tội
gián điệp, qua đó sẽ nắm vững được nội dung của khái niệm tội gián điệp.


9


1.2. Dấu hiệu pháp lí hình sự của tội gián điệp
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Theo khoa học Luật hình sự thì khách thể của tội phạm là quan hệ xã
hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất cứ tội phạm nào
cũng đều trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một hoặc nhiều
quan hệ xã hội nhất định. Chính qua sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
này mà tội phạm xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung. Mặt khác, sự
gây thiệt hại cho khách thể dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra
trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của các đối
tượng tác động là bộ phận cấu thành nên các quan hệ xã hội [18, tr.84-86].
Vấn đề lí luận cơ bản trên đây sẽ là cơ sở cho phép chúng ta nghiên cứu về
khách thể của tội gián điệp và đối tượng tác động của tội phạm này.
Khách thể trực tiếp của tội gián điệp là quan hệ xã hội bảo đảm an toàn
đối nội và đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
An toàn đối nội là sự an toàn cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ
XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
An toàn đối ngoại là sự an toàn cho các quan hệ đối ngoại của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam với các nước, các vùng lãnh thổ, các tổ
chức quốc tế.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Trên cơ sở lí luận về cấu thành tội phạm và qui định tại Điều 80 BLHS
năm 1999 thì tội gián điệp có cấu thành tội phạm hình thức, có nghĩa là trong
cấu thành tội phạm của tội phạm này chỉ qui định hành vi nguy hiểm cho xã
hội là dấu hiệu phản ánh yếu tố mặt khách quan của tội phạm.
Mặt khách quan của tội gián điệp thể hiện ở những hành vi sau đây:


10


Hoạt động tình báo.
Hoạt động tình báo là những hành vi điều tra, thu thập tin tức, tài liệu
thuộc bí mật Nhà nước hoặc những tin tức, tài liệu không thuộc bí mật Nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ,
an ninh, quốc phòng và đối ngoại bằng con người hay qua phương tiện kĩ
thuật dưới hình thức công khai hoặc bí mật nhằm sử dụng để gây thiệt hại cho
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Hoạt động tình báo là hành vi rất phổ
biến của gián điệp.
Hoạt động tình báo có thể được tiến hành bằng nhiều phương thức, thủ
đoạn khác nhau như dụ dỗ, mua chuộc, moi hỏi, lấy cắp, vẽ sơ đồ, quay phim,
chụp ảnh, nghe trộm điện thoại hoặc bằng cách sử dụng kĩ thuật thu tin tức
khác, khai thác sách báo công khai hoặc phỏng vấn,…
Hoạt động tình báo thường được thực hiện bởi các nhân viên tình báo
nước ngoài hoặc không phải là nhân viên tình báo nước ngoài nhưng được cơ
quan tình báo nước ngoài tuyển lựa, giao nhiệm vụ hoạt động tình báo. Những
người tiến hành hoạt động tình báo chủ yếu là từ nước ngoài vào Việt Nam
hợp pháp dưới các danh nghĩa khác nhau như viên chức ngoại giao, nhân viên
các tổ chức quốc tế, thành viên đoàn hội nghị, thương gia, thực hiện dự án,
hợp tác đầu tư, phóng viên, khách du lịch, thăm thân,…hoặc bất hợp pháp. Ví
dụ: Trong vụ án Michael Morrow. Lợi dụng chính sách mở cửa, hợp tác đầu
tư của Đảng và Nhà nước ta, M.Morrow đã nhiều lần vào Việt Nam với danh
nghĩa làm ăn kinh tế. Sau sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc, M.Morrow
đã liên kết chặt chẽ với Malloni, phóng viên tự do hoạt động ở Hồng Kông,
lén lút chuyển nhiều tài liệu có nội dung phản động, kích động đa nguyên, đa
đảng vào nước ta. Chúng lợi dụng danh nghĩa tìm kiếm thị trường, hợp tác
đầu tư để móc nối với những người bất mãn, biến chất, cực đoan, những
người trong phong trào sinh viên cũ và trong Câu lạc bộ kháng chiến. Malloni


11


còn móc nối với Nguyễn Phước Th, Hồ Tấn Bích Th trong đạo Cao Đài, Hòa
Hảo. Để phục vụ yêu cầu chính trị, trong quá trình xử lí vụ án cơ quan Công
an đã trục xuất chúng ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Phá hoại.
Phá hoại là hành vi cố ý làm cho hư hỏng, làm cho bị thiệt hại nặng hay
tiêu hủy đối tượng nhất định. Hành vi phá hoại có thể thực hiện bằng hành
động cụ thể hoặc lời nói.
Phá hoại được qui định trong tội gián điệp có thể là hành vi phá hoại cơ
sở vật chất - kĩ thuật, phá hoại các chính sách kinh tế, xã hội, phá hoại chính
sách đoàn kết dân tộc hoặc phá hoại tư tưởng. Phá hoại cũng là loại hành vi
phổ biến của bọn gián điệp.
Xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, thì việc nhà làm luật qui định hành vi
phá hoại trong tội gián điệp đã bộc lộ một số hạn chế sau:
Một là, qua nghiên cứu qui định của BLHS năm 1999 về các tội xâm
phạm ANQG thì hành vi “phá hoại” không chỉ là dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội gián điệp mà còn được qui định là dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của nhiều tội khác như tội phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 85), tội phá hoại việc thực hiện các chính
sách kinh tế - xã hội (Điều 86), tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87) và
tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 88). Về
mặt lí luận thì các hành vi nêu trên đều có thể được thực hiện bởi công dân
Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Vấn đề đặt ra là,
trong trường hợp nào chúng ta sẽ truy cứu TNHS họ về tội gián điệp hoặc về
các tội khác tương ứng. Đây là qui định thể hiện rõ sự không hợp lí, chưa
khoa học về kĩ thuật lập pháp khi xây dựng cấu thành tội phạm của tội này.


12


Trong thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu TNHS đối với
người thực hiện hành vi phá hoại như sau: Nếu là người nước ngoài, người
không quốc tịch thực hiện “hành vi phá hoại” nhằm chống Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam thì xử lí về tội gián điệp; nếu là công dân Việt Nam thì
họ sẽ bị xử lí về tội gián điệp khi thực hiện “hành vi phá hoại” nhằm chống
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà có sự chỉ đạo của nước ngoài,
ngược lại, họ sẽ bị xử lí về các tội phạm khác tương ứng trong trường hợp
thực hiện “hành vi phá hoại” nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam mà không có sự chỉ đạo của nước ngoài.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự để xử lí đối với những người thực
hiện hành vi “phá hoại” như trên không những chưa thể giải quyết được sự
bất cập do qui định của BLHS về tội gián điệp, mà còn dẫn đến một điều phi
lí nữa là: trong trường hợp, người phạm tội theo lệnh của nước ngoài thực
hiện hành vi “phá hoại” chỉ phải chịu TNHS về một tội hoặc là tội gián điệp
hoặc một trong các tội khác tương ứng nhưng nếu người phạm tội thực hiện
hành vi khác như khủng bố, bạo loạn,.. thì phải chịu TNHS về hai tội.
Hai là, hành vi “phá hoại” được qui định ở nhiều tội xâm phạm ANQG
như trên sẽ dẫn đến một thực tế là: phạm vi giới hạn chứng minh của tội gián
điệp mở rộng thêm nhiều giả thiết chứng minh trong quá trình điều tra các vụ
án gián điệp. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, khi hành vi “phá
hoại” được thực hiện thì có thể đưa đến cho cơ quan điều tra nhiều giả thuyết
khác nhau. Hành vi “phá hoại” có thể vì mục đích chống chính quyền nhân
dân, nhưng cũng có thể thực hiện hành vi “phá hoại” vì mục đích khác. Hành
vi “phá hoại” có thể do người nước ngoài, người không quốc tịch thực hiện
hay do công dân Việt Nam thực hiện và nếu công dân Việt Nam thực hiện
hành vi đó thì có làm “theo sự chỉ đạo của nước ngoài” hay không. Điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động điều tra các vụ án xâm
phạm ANQG nói chung và vụ án gián điệp nói riêng.



13

Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại.
Gây cơ sở là hành vi tuyển lựa, thu hút người vào mạng lưới gián điệp
để tiến hành hoạt động tình báo, phá hoại, liên lạc, chuyển tin hoặc tạo ra chỗ
dựa, nơi ẩn náu để tiến hành các hoạt động trên.
Đối tượng gây cơ sở có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài,
người không quốc tịch nhưng thường là công dân Việt Nam. Thủ đoạn gây cơ
sở rất đa dạng như dụ dỗ, mua chuộc, kích động, đe dọa, khống chế,…Thực
tiễn cho thấy, khi đã tìm được đối tượng để gây cơ sở, cơ quan tình báo nước
ngoài thường sử dụng thủ đoạn như cử nhân viên tình báo vào Việt Nam hoặc
giao nhiệm vụ cho cơ sở đã được xây dựng ở trong nước nghiên cứu, tìm
chọn người đủ khả năng, điều kiện làm gián điệp, sau đó sẽ làm quen, kết
nghĩa anh em, bạn bè rồi tạo điều kiện để đưa họ ra nước ngoài dưới danh
nghĩa tham quan, du lịch, chữa bệnh, công tác, học tập,…để cơ quan tình báo
nước ngoài tiếp xúc, xây dựng làm cơ sở để tiến hành hoạt động tình báo, phá
hoại. Khi đối tượng ra nước ngoài, cơ quan tình báo nước ngoài tìm cách đưa
họ vào con đường ăn chơi, hưởng lạc sa đọa rồi quay phim, chụp ảnh dùng
làm tài liệu khống chế, đồng thời kết hợp tuyên truyền, kích động tư tưởng bất
mãn, dân tộc hẹp hòi, hứa hẹn đáp ứng các yêu cầu về lợi ích vật chất. Thủ
đoạn này thường được áp dụng đối với cán bộ, đảng viên công tác trong các
cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Theo qui định của điều luật thì ngoài hành vi “gây cơ sở để hoạt động
tình báo, phá hoại” qui định tại điểm a khoản 1 Điều 80, còn bao gồm hành vi
“gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài”
qui định tại điểm b khoản 1 Điều 80. “Sự chỉ đạo của nước ngoài” là sự chỉ
huy, điều khiển, giao nhiệm vụ của nước ngoài đối với người thực hiện hành
vi gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại. Chẳng hạn: Trong vụ án
Cammili. Cammili là sĩ quan tình báo Pháp đã tuyển dụng Nguyễn Công Ch,



14

Nguyễn Văn Đ, Nguyên Đăng Nh và Nguyễn Công N vào mạng lưới gián
điệp và chỉ đạo N cùng đồng bọn thu thập tin tức bố phòng về quân sự, kho
tàng, giao thông và tình hình di cư vào Nam,… gửi cho Cammili. Y còn giao
cho N kế hoạch đặt mìn phá hoại nhà máy gạch chịu lửa Giếng Đáy, HP. Khi
bắt nhóm gián điệp này, cơ quan Công an thu được chất nổ, hai bộ vô tuyến
điện, sáu cuốn mật mã, mười hai lọ mực hóa học và các tin tức, tài liệu mà
bọn chúng đã thu thập.
Qua nghiên cứu về dấu hiệu hành vi “gây cơ sở để hoạt động tình báo,
phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài” qui định tại điểm b khoản 1 Điều 80
BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội gián điệp,
chúng tôi nhận thấy qui định này đã bộc lộ một số điểm bất cập sau đây:
Một là, để phân biệt hai hành vi “gây cơ sở” được qui định tại điểm a
và điểm b khoản 1 Điều 80 BLHS, trong khoa học Luật hình sự hiện nay, các
tác giả đều cho rằng hành vi “gây cơ sở” qui định tại điểm a khoản 1 được
thực hiện bởi chủ thể là người nước ngoài, người không quốc tịch, còn hành
vi “gây cơ sở” qui định tại điểm b khoản 1 do công dân Việt Nam thực hiện vì
có “sự chỉ đạo của nước ngoài”. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ là sự giải
thích không chính thức, trong khi đó qui định của điều luật mô tả yếu tố chủ
thể bằng thuật ngữ “người nào”. Chúng tôi cho rằng, qui định về hành vi “gây
cơ sở” tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 80 BLHS hiện hành là chưa khoa
học vì có sự trùng lặp khi qui định dấu hiệu hành vi thuộc mặt khách quan của
tội phạm này.
Hai là, qui định của điều luật không thể áp dụng để truy cứu TNHS đối
với công dân Việt Nam thực hiện hành vi hoạt động tình báo, phá hoại theo sự
chỉ đạo của nước ngoài. Bởi lẽ, tại điểm b khoản 1 chỉ qui định hành vi gây cơ
sở để tiến hành hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài
nhằm phân biệt với hành vi gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại do



15

người nước ngoài, người không quốc tịch thực hiện qui định tại điểm a khoản
1, mà không qui định hành vi hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của
nước ngoài. Mặt khác, chúng ta cũng không thể áp dụng qui định tại điểm a
khoản 1 vì trong khoa học luật hình sự hiện nay các tác giả đều cho rằng, loại
hành vi này do người nước ngoài hoặc người không quốc tịch thực hiện.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, “để truy cứu TNHS đối với
công dân Việt Nam thực hiện hành vi hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo
của nước ngoài chỉ có thể vận dụng gượng ép qui định tại điểm a khoản 1, trên cơ
sở lập luận họ tham gia vào tội phạm với vai trò đồng phạm” [15, tr.15].
Ba là, về thuật ngữ “nước ngoài” qui định tại điểm b khoản 1 Điều 80.
Trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học Bộ luật hình sự,
các bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành khi phân tích về tội gián điệp
thì một số tài liệu không giải thích (hoặc lẩn tránh việc giải thích), nhưng
cũng có một số tài liệu đã giải thích nhưng cách giải thích còn có sự khác biệt.
Có ý kiến cho rằng, nước ngoài “phải được hiểu là trung tâm tình báo” [6,
tr.177], nước ngoài là “cá nhân, tổ chức tình báo hay cơ quan khác” [15,
tr.16], hoặc trong bản Dự thảo 3 Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số
qui định tại Chương XI “Các tội xâm phạm ANQG” của BLHS năm 1999 do
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao soạn thảo năm 2002 cho rằng: “các từ nước ngoài qui định ở tội gián điệp
được hiểu là bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài nào (khác với các từ
nước ngoài qui định ở tội phản bội Tổ quốc - các từ nước ngoài qui định ở tội
phản bội Tổ quốc được hiểu là chính quyền, cơ quan tình báo, gián điệp, quân
đội hoặc các tổ chức chính trị phản động…của một nước có âm mưu, hoạt
động thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam; các tổ chức chính trị phản
động ở nước ngoài của người Việt lưu vong được nước ngoài hậu thuẫn”,

nhưng cũng có quan niệm khác về nước ngoài như giải thích tại Công văn số


16

783/UBPL-QH ngày 16/07/2002 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội: “nước
ngoài là bất kỳ nước nào khác ngoài nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cá
nhân nước ngoài, là cơ quan nhà nước, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ, cơ
quan tình báo nước ngoài, cá nhân người Việt Nam, các tổ chức phản động
người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài”. Theo Công văn này thì thuật ngữ
nước ngoài được áp dụng cho cả qui định tại điểm c khoản 1 Điều 80 BLHS
năm 1999. Chúng tôi cho rằng, các quan niệm nêu trên về thuật ngữ “nước
ngoài” đều có hạt nhân hợp lí, nhưng nội dung của thuật ngữ nước ngoài được
quan niệm quá hẹp hoặc quá rộng, chưa thống nhất và không phải là giải thích
chính thức, vì vậy, sẽ gây khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội gián điệp của các cơ quan tiến hành tố tụng. Chẳng hạn: Trong bài
bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm ngày 31/12/2003, xét xử Nguyễn Vũ Bình
phạm tội gián điệp, các luật sư Đàm Văn Hiếu và Trần Lâm lập luận rằng:
nước ngoài được qui định trong tội gián điệp Điều 80 BLHS năm 1999 là một
nước khác mà đại diện là chính phủ hoặc các tổ chức tình báo nước đó. Thuật
ngữ nước ngoài không bao gồm công dân, ngoại kiều hay tổ chức ngoại kiều
làm tay sai hoặc chịu sự chỉ đạo của tổ chức tình báo nước này. Hoặc trong
quá trình trao đổi giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát về việc xác định tội
danh của Nguyễn Vũ V, Nguyễn Trực C bị bắt năm 2001 vì có hành vi thu
thập, cung cấp tin tức không thuộc bí mật Nhà nước cho một người Việt Nam
sống lưu vong ở Mỹ để người này sử dụng viết bài cho đài phát thanh nhằm
nói xấu chính quyền Việt Nam, Viện kiểm sát cho rằng các bị can V và C
không phạm tội gián điệp vì người yêu cầu cung cấp tài liệu là Việt kiều sống
ở nước ngoài, không phải là “nước ngoài” theo qui định tại điểm c, khoản 1
Điều 80 BLHS.

Bốn là, khi đề cập đến thuật ngữ “theo sự chỉ đạo của nước ngoài”, các
nhà nghiên cứu đã cố gắng phân biệt với “hành vi câu kết với nước ngoài”
trong tội phản bội Tổ quốc (Điều 78 BLHS năm 1999) bằng giải thích: Trong


17

tội phản bội Tổ quốc, sự quan hệ có tính chất qua lại chặt chẽ, biểu hiện của
sự câu kết. Trong tội gián điệp, sự quan hệ ít chặt chẽ hơn, thể hiện ở hành vi
làm “theo sự chỉ đạo của nước ngoài”. Tội phản bội Tổ quốc nhằm mục đích
thay đổi chế độ kinh tế - xã hội, lật đổ chính quyền nhân dân. Tội gián điệp
chỉ nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân. Nếu công dân Việt Nam hoạt
động gián điệp nhưng đã câu kết với nước ngoài nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân thì sẽ bị coi là phạm tội phản bội Tổ quốc [18, tr.341], [6, tr.115].
Việc phân biệt tội phản bội Tổ quốc với tội gián điệp bằng cách giải thích
thuật ngữ như trên chưa thật sự thuyết phục. Bởi lẽ, sự khác biệt giữa tội phản
bội Tổ quốc và tội gián điệp không phải là ở tính chất của “mối liên hệ với
nước ngoài”, thực tiễn cho thấy gián điệp thực hiện hoạt động tình báo mang
tính chất nghề nghiệp, được đào tạo, huấn luyện công phu, tính chất bí mật,
kỷ luật cao và có sự chỉ đạo “rất chặt chẽ” của nước ngoài. Đặc biệt, mối liên
hệ với nước ngoài càng chặt chẽ hơn qua việc giao nhiệm vụ, chỉ đạo hoạt
động và chuyển tin tức về trung tâm, mối liên hệ này nhiều khi duy trì trong
nhiều thập kỷ, nhất là các đối tượng hoạt động nội gián. Theo chúng tôi, sự
khác biệt nhất giữa hai tội này chính là ở bản chất của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được phản ánh trong mặt khách quan của hai cấu thành tội phạm. Khi
thực hiện hành vi phản bội Tổ quốc, người phạm tội đã xâm phạm đến các
quan hệ xã hội cơ bản, bao trùm thuộc bản chất chế độ xã hội. Đây chính là
vấn đề cần xem xét khi phân biệt tội phản bội Tổ quốc với các tội xâm phạm
ANQG, trong đó có tội gián điệp. Do vậy, trong vụ án Lê Quốc Túy và Mai
Văn Hạnh, cơ quan tiến hành tố tụng đã truy cứu TNHS nhiều đối tượng trong

vụ án về tội phản bội Tổ quốc và tội gián điệp.
Hoạt động thám báo.
Hoạt động thám báo là hành vi thu thập các tin tức tình báo quân sự,
tập kích, phục kích, bắt cóc cán bộ, bộ đội, nhân dân để khai thác tin tức tình
báo quân sự phục vụ mục đích chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
trên một địa bàn nhất định.


18

Địa bàn tiến hành hoạt động thám báo thường ở vùng biên giới, vùng
rừng núi hoặc nơi hiểm yếu trên lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ: Toán gián điệp
biệt kích Eros gồm Hà Trọng Th (toán trưởng), Phạm Công D (toán phó),
Phạm Công Th (nhân viên truyền tin), Hà Công Q (nhân viên truyền tin phụ
trợ), Phạm Công T (nhân viên tình báo) được thả xuống Pù Cọ, Hồi Xuân,
Quan Hóa, TH ngày 20/05/1962. Tại đây chúng có nhiệm vụ móc nối với họ
hàng, người thân, xây dựng cơ sở để thu thập tin tức tình báo dọc biên giới
Việt - Lào và sau đó sẽ vượt qua sông Mã, móc nối cơ sở ở vùng Bá Thước và
hoạt động trên địa bàn Hồi Xuân - Bá Thước.
Xét cả dưới góc độ lí luận và thực tiễn thì việc qui định “hoạt động
thám báo” là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tội gián
điệp là chưa hợp lí, cũng như không khoa học về mặt kĩ thuật lập pháp. Bởi
vì, thực chất thám báo là lực lượng được huấn luyện kỹ và có sự chỉ đạo, chỉ
huy chặt chẽ. Phương thức hoạt động của thám báo chủ yếu mang tính chất vũ
trang. Các mặt hoạt động của thám báo chủ yếu là thu thập tin tức tình báo
chiến thuật, nhất là bí mật quân sự và phá hoại kho tàng, thiết bị quân sự của
đối phương, trong trường hợp này họ đã thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong mặt khách quan của tội gián điệp qui định tại điểm a khoản 1
Điều 80. Trong trường hợp xâm nhập lãnh thổ (hoạt động theo kiểu gián điệp
biệt kích) thì về bản chất pháp lí hành vi này là hành vi trong mặt khách quan

của tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 BLHS năm 1999).
Chỉ điểm.
Chỉ điểm là hành vi dùng ám tín hiệu để báo hoặc mật báo cho nước
ngoài những mục tiêu để thu thập tin tức tình báo, phá hoại, đánh chiếm, bắn
phá hoặc bắt cóc, bắn giết cán bộ, bộ đội.
Hành vi “chỉ điểm” được qui định là dấu hiệu phản ánh mặt khách quan
của cấu thành tội phạm tội gián điệp trong các văn bản pháp luật hình sự của


19

Nhà nước ta ngay từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến BLHS hiện
hành. Theo Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 qui định trừng trị những tội
phạm xâm hại đến an toàn nhà nước, đối nội và đối ngoại qui định: “làm dấu
hiệu cho địch bắn phá cơ quan hoặc lùng bắt cán bộ, nhân dân” hoặc Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 qui định: “chỉ điểm
cho bọn xâm lược ném bom, bắn phá”. Pháp luật hình sự của Nhà nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa cũng qui định hành vi chỉ điểm là dấu hiệu thuộc
mặt khách quan của tội gián điệp nhưng nội dung của hành vi chỉ điểm hẹp
hơn so với pháp luật hình sự của Nhà nước ta bằng qui định: “Chỉ điểm cho
kẻ thù bắn phá mục tiêu” [11, tr.82]. Trong khi đó, pháp luật hình sự một số
nước khác lại không qui định hành vi chỉ điểm là dấu hiệu phản ánh mặt
khách quan của cấu thành tội phạm tội gián điệp như BLHS của Liên bang
Nga, Vương quốc Thụy Điển.
Chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện những hành vi khác giúp người
nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại.
Biểu hiện cụ thể của hành vi này có thể là che chở, nuôi dưỡng, dẫn
đường, mua sắm, vận chuyển, cung cấp vũ khí, phương tiện hoạt động, liên
lạc, chuyển giao tin tức, tài liệu giúp cho người nước ngoài hoạt động tình
báo, phá hoại.

Hành vi chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người
nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại, về bản chất là hành vi giúp sức. Vì
vậy, chúng ta có thể vận dụng lí luận về đồng phạm để truy cứu TNHS đối
với người thực hiện hành vi này. Hơn nữa, trong những giai đoạn cách mạng
trước đây, để phục vụ cho yêu cầu phòng chống loại tội phạm này và đảm bảo
phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân nên việc qui định như vậy là cần
thiết, nhưng việc BLHS hiện hành vẫn qui định những hành vi này trong cấu
thành tội phạm tội gián điệp là không hợp lí.


20

Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài.
Cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài là hành vi chuyển giao bí
mật Nhà nước cho nước ngoài của người đang nắm giữ bí mật Nhà nước.
Người nắm giữ bí mật Nhà nước có thể do chức trách nhiệm vụ được
giao hoặc do bắt được, nhặt được, thậm chí chiếm đoạt được. Người thực hiện
hiện hành vi cung cấp bí mật Nhà nước có thể vì động cơ cá nhân mà tìm đến
cơ quan tình báo nước ngoài hoặc tìm gặp người nước ngoài để cung cấp bí
mật Nhà nước mà họ đang nắm giữ. Ví dụ: TD là chuyên viên một cơ quan
của Đảng đã bị phát hiện khi đang cung cấp cho một sứ quán nước ngoài tại
Hà Nội những tin tức thuộc bí mật Nhà nước về chủ trương, đường lối của
Việt Nam trong giải pháp về vấn đề Campuchia, tình hình quan hệ Việt Nam Trung Quốc và nội bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta. Khi bị bắt, TD đã thú
nhận làm gián điệp cho cơ quan tình báo nước ngoài từ năm 1990. TD khai
báo những nhiệm vụ mà cơ quan tình báo nước ngoài giao cho là thu thập và
cung cấp về tình hình nội bộ đảng, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Nhà nước,
những nhân vật và xu hướng chính trị, các chủ trương, chính sách đối nội và
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài là hành vi
tìm kiếm, tập hợp những bí mật Nhà nước để chuyển giao cho nước ngoài với

bất kỳ thủ đoạn nào. Chẳng hạn: Đối tượng Nguyễn V. T nguyên là cán bộ Ủy
ban mặt trận Tổ quốc huyện. T, tỉnh H đã thu thập các tài liệu của cơ quan
mặt trận Tổ quốc huyện để chuyển giao cho cơ quan tình báo nước ngoài. Sau
hai lần chuyển giao tài liệu, T tự thấy nguồn tài liệu đã hết, cơ quan tình báo
nước ngoài lại thúc giục, đe dọa nên T đã lợi dụng quan hệ bạn bè, quan hệ
thân tộc với N (là cán bộ cơ yếu huyện ủy) để N cung cấp tài liệu bí mật cho
T chuyển cho cơ quan tình báo nước ngoài.


21

Người thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài là người
chưa nắm giữ bí mật Nhà nước nhưng có ý thức cung cấp cho nước ngoài nên đã
tiến hành thu thập. Hành vi thu thập bí mật Nhà nước với ý thức cung cấp cho
nước ngoài mới bị truy cứu TNHS về tội gián điệp. Nếu người thu thập bí mật
Nhà nước không có ý thức cung cấp cho nước nước ngoài thì có thể bị truy cứu
TNHS về tội chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước (Điều 263 BLHS).
Thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài
sử dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Đây là hành vi tìm kiếm, tập hợp và chuyển giao tin tức, tài liệu khác
cho nước ngoài nhằm mục đích để họ sử dụng chống Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
Tin tức, tài liệu khác có thể là tài liệu bí mật công tác hoặc bất kì tin
tức, tài liệu công khai nào về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục, pháp luật, khoa học công nghệ, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Những tin tức, tài liệu này có thể được thu thập từ các phương tiện truyền
thông như báo viết, đài phát thanh, đài truyền hình, internet, người thân, bạn
bè, anh em,… để chuyển giao cho nước ngoài.
Ví dụ: Trong vụ án được xét xử ngày 5/8/2009 tại TAND tỉnh QN. Hai
bị cáo: Nguyễn Ngọc H (42 tuổi), trú tại tổ 6, khu 3, phường Yết Kiêu và Vũ

Đình T (52 tuổi), trú tại tổ 6, khu 2, phường Trần Hưng Đạo, TP HL phạm tội
gián điệp. Theo cáo trạng, đầu năm 2000, Nguyễn Ngọc H đã tìm gặp và
thống nhất với Vũ Đình T về việc tìm kiếm các tài liệu của cơ quan Nhà nước
để bán cho cơ quan tình báo nước ngoài. H giao cho T biên soạn tài liệu báo
cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2001 và hoạt động của một số cơ quan Trung
ương. Sau đó, H đã tự bổ sung thêm một số thông tin để tăng giá trị của bản
báo cáo rồi chuyển bán cho người của cơ quan tình báo nước ngoài được
3.000 NDT và chia cho T 1.000 NDT. Ngoài ra, T còn 2 lần cung cấp thông


22

tin về hoạt động đầu tư nước ngoài, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh QN cho
cơ quan tình báo này. Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn Ngọc H 12 năm
tù về tội gián điệp và phạt quản chế 3 năm; Vũ Đình T 6 năm tù về tội gián
điệp và quản chế 2 năm.
Người thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác cho nước ngoài nếu nhằm
mục đích để nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thì bị
truy cứu TNHS về tội gián điệp. Người có hành vi này, nhưng vì mục đích
khác thì không phạm tội gián điệp, mà có thể bị truy cứu TNHS về các tội
khác, như tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội (Điều 268 BLHS), tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội
chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (Điều 286 BLHS).
So với BLHS năm 1985 thì trong BLHS năm 1999 khi qui định về tội
gián điệp tại điểm c khoản 1 Điều 80 nhà làm luật đã bổ sung cụm từ “nhằm
mục đích” để xác định rõ hơn ý thức chống chính quyền nhân dân của người
phạm tội trong trường hợp có hành vi cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp
bí mật Nhà nước và tin tức, tài liệu khác cho nước ngoài để nước ngoài sử
dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Qua đó, giúp cho việc phân
biệt tội gián điệp với một số hành vi phạm tội khác như cố ý làm lộ bí mật

Nhà nước, vô ý làm lộ bí mật Nhà nước, làm mất tài liệu bí mật Nhà nước. Về
kĩ thuật, BLHS năm 1999 đã sửa đoạn “cung cấp tài liệu không thuộc bí mật
Nhà nước” thuộc điểm c khoản 1 thành “cung cấp tin tức, tài liệu khác” cho
gọn hơn và tránh sự thắc mắc, hiểu sai về tình tiết cụ thể này [1, tr.121].
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội gián điệp đối với hành
vi “thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác cho nước ngoài nhằm mục đích để
nước ngoài sử dụng chống nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” đã nảy sinh một
số bất cập như sau:


×