Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

ĐIỂN TÍCH TRONG NGỤC TRUNG NHẬT ký của HỒCHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
K HOA K HOA HỌC XÃ HỘ I VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN
--------

NGUYỄN THỊ NGỌC NGÂN
MSSV: 6095874

ĐIỂN TÍCH TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
CỦA HỒ CHÍ MINH

Luận văn tốt nghiệp ngành Ngữ văn
Niên khóa: 2009 - 2013

Cán bộ hướng dẫn: ThS. ĐẶNG THỊ HOA

Cần Thơ, tháng
5/2013
1


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
ĐIỂN TÍCH TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
CỦA HỒ CHÍ MINH

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu


5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Về tác giả Hồ Chí Minh
1.1.1. Đôi nét về tiểu sử
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
1.1.3. Quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh
1.1.4. Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
1.2. Giới Thiệu tác phẩm “Ngục trung nhật ký”
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
1.2.2. Thể thơ
1.2.3. Nội dung tác phẩm “Ngục trung nhật ký”
2


1.2.3.1. “Ngục trung nhật ký” là một tập nhật ký bằng thơ, thể hiện chân thực
thái độ tình cảm của tác giả trước thực trạng đen tối ngột ngạt của chế độ nhà tù Quốc
dân đảng Tưởng Giới Thạch.
1.2.3.2. “Ngục trung nhật ký” là một tập nhật ký thể hiện tiếng lòng của Bác đã
thành thơ.
1.2.3.3. “Ngục trung nhật ký” đã thể hiện một tinh thần lạc quan phơi phới và
một ý chí bất khuất kiên cường.

CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐIỂN TÍCH
2.1. Một số khái niệm điển tích, điển cố
2.2. Những đặc điểm chung của điển tích

2.3. Phân loại điển tích
2.4. Đặc tính tu từ của điển tích văn học
2.4.1. Tính liên tưởng
2.4.2. Tính hình tượng
2.4.3. Tính cô đọng, hàm xúc
2.4.4. Tính đa dạng và sinh động

CHƯƠNG 3
ĐIỂN TÍCH TRONG NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
3.1. Việc dùng điển, lấy chữ trong Ngục trung nhật ký
3.1.1 Điển tích truyện
3.2.1 Điển tích chữ
3.3. Công dụng của việc sử dụng điển tích trong Ngục trung nhật ký
3.3.1. Dùng điển làm cho câu văn gọn gàng, ít chữ mà nhiều ý
3.3.2. Dùng điển khiến người đọc nhớ đến một sự tích xưa hoặc một câu văn cũ
3.3.3. Dùng điển làm cho lời văn trang nhã
3.3.4. Dùng điển củng cố thêm chứng cứ trong văn chương
3.4. Giá trị thẩm mỹ của điển tích trong Ngục Trung Nhật Ký
3


PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói “văn học hiện đại” của Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm đến, đánh giá nó khá cao ở nhiều góc độ phương diện: nội dung lẫn nghệ

thuật. Nhưng chỉ dừng lại ở mặt nội dung và nghệ thuật, chứ chưa đi sâu vào tìm
hiểu vấn đề. Kế thừa từ “văn học cổ” nền “văn học hiện đại” một phần vẫn sử dụng
điển tích vào trong các tác phẩm văn chương. Tuy nhiên ít người quan tâm đến
dụng ý nghệ thuật này. Nếu có nói qua, thì chỉ nghiên cứu một cách sơ lược, phần
nhiều tập trung nghiên cứu các vấn đề khác.
Việc sử dụng điển tích trong các tác phẩm văn chương làm tăng thêm tính hàm
xúc, có tính biểu đạt cao. Sự xuất hiện của điển tích, điển cố góp phần thể hiện sự
uyên bác, uyên thâm của các nhà thơ. Phần lớn, một số nhà nghiên cứu ít quan tâm
đến nghệ thuật này, chỉ chú trọng đến những vấn đề khác. Vì thế, việc tìm hiểu vấn
đề này góp phần làm cho nền văn chương thêm phong phú.
Nhắc đến văn chương hiện đại, không thể bỏ qua tác phẩm Ngục trung nhật ký
của Hồ Chí Minh. Tập thơ mang dấu ấn của thơ Đường, nhưng nó có phần dễ hiểu,
giản dị, có sự mới mẻ. Kế thừa văn chương cổ, Bác sử dụng điển tích vào tập nhật
ký, mà rất ít những nhà thơ thời này dùng điển tích như một phương tiện nghệ
thuật. Bác sử dụng rất hạn chế điển cố, điển tích, nhưng khi sử dụng thì rất sâu sắc,
điều đó làm nên nét đặc sắc của tác phẩm. Đi vào tìm hiểu đề tài “Điển tích trong
Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta hiểu hơn một khía cạnh
nghệ thuật tạo nên nét đặc sắc của tập thơ. Và đây là đề tài khá lý thú và bổ ích.
Chúng ta sẽ thấy rõ hơn giá trị của tập thơ trong lịch sử chữ Hán của dân tộc. Đồng
thời, nó là chìa khóa để phục vụ cho công việc nghiên cứu Hán nôm ở nhà trường.

2. Lịch sử vấn đề
Việc sử dụng điển tích trong các tác phẩm văn chương hiện đại phần nhiều ít
xuất hiện. Nhưng có xuất hiện thì việc nghiên cứu vấn đề điển tích vẫn chưa thấu
đáo, chưa đưa ra những lý giải nhằm giúp cho người đọc hiểu được rõ vấn đề. Cho
nên chưa đáp ứng được yêu cầu của người đọc và xã hội. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu điển tích, điển cố xuất hiện: Văn học điển cố thuyết minh, Trung hoa
điển cố... Các công trình nghiên cứu này chỉ tập trung vào những phần mang tính
điển hình và khái quát cao. Do văn học hiện đại ít sử dụng điển tích vào trong tác
phẩm, nếu có thì việc nghiên cứu nó vẫn chưa mang tính điển hình cao. Tác phẩm

4


Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh là một điển hình, một trong những tập thơ
hay của văn học hiện đại. Phần nhiều một số nhà nghiên cứu chỉ quan tâm đến nội
dung tinh thần yêu thiên nhiên, tinh thần thép, đặc điểm nghệ thuật của tập thơ...
nhưng quên đi một khía cạnh nghệ thuật, tạo nên sự thành công của tập thơ là điển
tích.
Tập thơ là một xã hội Trung Quốc thu nhỏ kể về sự bất công và tàn bạo của chế
độ Tưởng. Một lượng điển tích được sử dụng khá công phu, mang ý nghĩa sâu sắc
xuất hiện trong tác phẩm.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu nghệ thuật “ Điển tích trong Ngục trung nhật ký”
từ trước đến nay có được đề cập đến, nhưng chỉ dừng lại ở một chừng mực nào đó.
Vì vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật dùng điển tích trong tác phẩm này là điều hết sức
cần thiết. Mặc dù, các điển tích điển cố trong tập thơ được nhiều học giả chú thích
khá cụ thể và chi tiết. Nhưng người đọc cũng cần có một trình độ nhất định mới có
thể tiếp thu được cái hay ý nghĩa sâu sắc mà tác giả muốn gửi đến qua câu thơ. Từ
trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu “Điển tích trong Ngục trung
nhật ký” phải kể đến như:
Tạp chí Hán nôm số 4 (83) 2007 có bài nghiên cứu “Điển tích trong Ngục
trung nhật ký” của Nguyễn Thế Nữu và Trần Hữu Dinh. Đây là bài viết cũng khá
hoàn chỉnh khi nêu ra một số điển tích có trong tập nhật ký. Hai tác giả này đã nhận
định: “Phần lớn điển tích được dùng đều đã biến thành thành ngữ được dùng phổ
biến trong ngôn ngữ Trung Quốc, nhưng cũng có một số điển tích, ý nghĩa khá
thâm thúy, văn vẻ, có nguồn gốc sâu xa, ít người biết rõ xuất xứ. Để hiểu sâu sắc,
thấu đáo Ngục trung nhật ký, thiết tưởng ta cũng nên tìm hiểu kỹ nguồn gốc và ý
nghĩa của các điển tích này”. [13; tr.16]. Bài nghiên cứu khá đầy đủ, đưa người
đọc hiểu hơn về một khía cạnh nghệ thuật đưa đến thành công của tập thơ.
Tác giả còn chia điển tích trong Ngục trung nhật ký thành điển tích chữ và điển
tích truyện. Và sắp xếp theo thứ tự a,b,c của chữ đầu điển tích để mọi người tham

khảo một cách dễ dàng.
Trong bài nghiên cứu “Âm vang thơ Đường” của Giáo sư Lương Duy Thứ
nằm trong tập Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù. Giáo sư đã chỉ ra chất Đường thi
trong tập thơ. Nhưng có sự cách tân đổi mới của Bác, đó là không theo lối mòn cũ
và làm một cách máy móc. Vì vậy đã làm nên nét đặc sắc của thơ Bác như Hoàng
Đình Kiên đời Tống nhận định : “Văn chương quý bất tùy nhân hậu” (Cái quý của
văn chương là không theo đuôi người khác). Âm vang thơ Đường trong Ngục trung
nhật ký do nhiều yếu tố mang lại nhưng nhìn chung việc sử dụng điển tích cũng là
một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất Đường thi. Tác giả bài
viết đã nhận định “Chính vì tâm hồn thơ chung đúc khí thiêng các nền văn hóa nên
đọc văn thơ Hồ Chí Minh người ta thấy thấp thoáng đâu đây cái tinh thần thâm
thúy và cô đúc như những điển cố của văn chương Tả truyện, chiến quốc sách…”.
[2; tr. 181]. Cũng trong bài viết này Giáo sư Lương Duy Thứ nói: “Cũng có thể tìm
thấy trong Nhật ký trong tù những điển cố Trung Quốc thường được vận dụng như
những ước lệ thẩm mỹ trong thơ Đường – Tống như Bá Di, Thúc Tề, Quan Vũ,
Trương Phi, “Tuyết trung tống thán” (Cho than khi tuyết xuống) v.v…Hơn thế nữa,
5


có thể tìm thấy cả một bài gần như mô phỏng bài Thanh Minh của Đỗ Mục”.
[2; tr. 182]
Từ hai nhận định trên, chúng ta thấy bài viết đã một phần đề cập đến đề tài sử
dụng điển tích trong tập thơ Ngục trung nhật ký, nhưng chỉ nêu chung chung,
không đầy đủ.
Trong Tạp chí Văn học số 9 – 1999 của Vũ Thị Kim Xuyến có bài “Truyền
thống văn hóa trong thơ chữ Hán Hồ Chí Minh” đã nhận định: “Quả thật, trong
thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh có nhiều bài thơ, câu thơ, tứ thơ, hình ảnh, từ ngữ,
màu sắc, âm thanh, nhịp điệu được ông vận dụng tiếp thu có sáng tạo. Học tập các
nhà thơ cổ khi làm thơ phú theo luật Đường thi, Hồ Chí Minh cũng dùng “điển”
mượn “chữ” trong thơ Đường. Vì vậy, thơ Đường đã ảnh hưởng sâu sắc, đậm nét

trong tâm trí Hồ Chí Minh. Nhưng người đã vận dụng một cách sáng tạo”.
[20; tr. 23]
Bài nghiên cứu này cũng đã nêu lên được cái sáng tạo trong thơ của Bác đó là
việc mượn hình ảnh thơ Đường có sử dụng điển tích, để thể hiện nỗi lòng của Bác.
Không sao chép một cách nguyên mẫu, máy móc, mà Bác còn vận dụng một cách
mới mẻ trên cơ sở kế thừa “Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc văn hóa cổ
Trung Hoa, người biết kế thừa để cách tân và ngược lại cách tân trên cơ sở kế
thừa.” [20; tr. 23]. Hơn nữa, tác giả bài viết còn nêu lên được bút pháp cổ điển mà
Bác vận dụng trong thơ. Tuy bài viết chưa giải quyết được khía cạnh nghệ thuật
điển tích trong Ngục trung nhật ký nhưng một phần đã làm cho chúng ta hiểu hơn
cái tài của Bác trong việc vận dụng điển tích.
Nhìn chung, Vũ Thị Kim Xuyến và Giáo sư Lương Duy Thứ đều có chung một
nhận định, việc sử dụng điển ấy chính là sự gặp gỡ sâu sắc, chứ không hề mô
phỏng bắt chước.
Các công trình nghiên cứu này đều làm nổi bật vấn đề là thơ Bác có sử dụng
điển tích. Cái tài của việc vận dụng ấy là phải am hiểu và có kiến thức sâu rộng về
văn hóa Trung Hoa. Chính điều này làm cho thơ Bác mang âm hưởng của Đường
thi, sâu sắc trữ tình. Tuy nhiên, các công trình này chưa nghiên cứu một cách đầy
đủ về điển tích trong Ngục trung nhật ký nhưng nó góp phần định hướng đề tài của
chúng tôi. Qua đó, chúng tôi sẽ tiếp thu ý kiến mà những nhà nghiên cứu đã đưa ra,
để từ đó chúng tôi có định hướng chính xác về đề tài này để hoàn thiện, sâu sắc đề
tài này hơn.

3. Mục đích nghiên cứu:
Tập thơ Ngục trung nhật ký là cuốn nhật ký viết về những sự việc xảy ra thường
ngày khi Bác bị giam giữ ở nhà tù. Việc nghiên cứu tập thơ này là rất cần thiết cả
nội dung lẫn nghệ thuật, nhưng ở đây chỉ nghiên cứu một khía cạnh sử dụng điển
tích, điển cố trong tác phẩm. Muốn nghiên cứu, tập thơ này trước tiên chúng ta phải
xác định được mục đích nghiên cứu đề tài, để đạt hiệu quả tốt nhất. Việc nghiên
cứu đề tài “Điển tích trong Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh có hai mục

tiêu đặt ra đó là: Thứ nhất tìm hiểu khái niệm điển tích là gì? Những đặc điểm
6


chung của điển tích. Phân loại điển tích và đặc tính tu từ. Thứ hai là điển tích trong
“Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh.

4. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Tác phẩm Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh, phần
nghệ thuật. Văn chương hiện đại ít đề cập đến điển tích, điển cố. Nhưng kế thừa từ
văn học cổ, Bác đã tạo nên tập nhật ký, viết bằng chữ Hán, có các điển tích mang ý
nghĩa thâm thúy, nói ít hiểu nhiều. Tập nhật ký được đánh giá rất cao, từ nội dung
đến hình thức nghệ thuật. Nghiên cứu “Điển tích trong Ngục trung nhật ký” là
để tìm hiểu về một phương pháp nghệ thuật rất cổ điển là sử dụng điển tích trong
văn chương. Ở tác phẩm Ngục trung nhật ký, Bác Hồ đã sử dụng rất thành công
biện pháp nghệ thuật này.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
Phương pháp khảo sát: Xem xét qua tất cả tư liệu rồi phân loại, liệt kê nó, ghi
lại những dẫn chứng phù hợp.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích các dẫn chứng nhằm làm nổi bật
các luận điểm cần triển khai. Sau đó thâu tóm, khái quát chúng lại thành những đúc
kết mang tính kết luận vấn đề.
Phương pháp diễn dịch: đưa ra những ý kiến rồi dùng lý lẽ của mình để làm rõ
vấn đề được nói đến.
Phương pháp so sánh: đi sâu vào so sánh một số khía cạnh nào đó có liên quan
đến một số vấn đề cần chứng minh.

7



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Về tác giả Hồ Chí Minh
1.1.1. Đôi nét về tiểu sử
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc còn bé tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học đổi tên,
trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sinh ngày
19 tháng 5 năm 1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù, sau về quê nội là làng Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Người sinh trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân
sinh ra Người là Nguyễn Sinh Huy, tức là Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929). Cha mẹ
mất sớm, cụ Nguyễn Sinh Huy vừa đi học vừa phải lao động để sống. Là một người
hiếu học và thông minh, lại được nhà nho Hoàng Đường, ông ngoại của Hồ Chủ tịch,
hết lòng dạy bảo, cụ đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Đối với các
con, cụ giáo dục ý thức lao động và cho học tập để hiểu “đạo lý làm người”. Sau khi
đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái
độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ
thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất
ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời
thanh bạch, cho đến lúc từ trần.
Thân mẫu của Hồ Chủ tịch là Nguyễn Thị Thanh, tức Bạch Liên (1884 - 1954),
và anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888 – 1950), đều
tham gia phong trào chống thực dân Pháp và bị tù đày.
Hồ Chủ tịch là con thứ ba trong gia đình. Lúc nhỏ, người là học trò thông minh,
chăm chỉ học tập và ham tìm hiểu những điều mới lạ. Ngoài những sách phải học,
Người con ham đọc truyện và thơ ca yêu nước. Những chuyện anh hùng liệt sĩ ở địa
phương ; những buổi đàm luận về thời cuộc giữa cụ Phó bảng với những nhà yêu nước
khác mà Người được nghe đã sớm giáo dục cho Người tinh thần yêu nước, thương nòi,

8


Người sống cho nhân dân, hằng ngày được trông thấy cảnh bà con nông dân bị hành
hạ tàn nhẫn vì thiếu tiền nạp tô, nộp thuế, hoặc bị bắt đi phu làm đường. Người rất đau
xót trước cảnh thống khổ của đồng bào và bắt đầu có chí căm thù quân cướp nước và
bọn tay sai bán nước.
Người lớn lên từ các phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương mà tiêu
biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa
Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo bị thất bại.
Vào mùa hè năm 1908, Chủ tịch Hồ Chí Minh thôi học, rời Huế đi vào Nam và
người đã dừng chân dạy học ở trường Dục Thanh – Phan Thiết một thời gian. Trong
những ngày dạy học ở trường Dục Thanh, người không chỉ truyền thụ cho học sinh
những kiến thức văn hóa mà còn chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước thương dân
cho học trò mình.
Ít lâu sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Sài Gòn. Sau một thời gian ngắn ở Sài
Gòn, ngày 5 tháng 6 năm 1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên tàu La touche Tréville đi
ra nước ngoài với mong muốn thực hiện được hoài bão cứu nước của mình. Người
từng hoạt động ở nhiều nước thuộc Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ nhưng chủ
yếu là ở Pháp. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam ở Pháp, người gửi tới Hội
nghị hòa bình ở Vecxay bản yêu sách “Quyền các dân tộc”. Năm 1920, Nguyễn Ái
Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Ngày 3/2/1930, Người chủ trì Hội nghị
hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hương Cảng
– Trung Quốc. Tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước thành lập Mặt trận Việt
Minh. Từ khi về nước, Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ Chí Minh: đọc bản tuyên ngôn độc
lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ đến thắng lợi.
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh và tên Nguyễn Tất Thành do gia đình đặt, trong
cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như: Nguyễn
Ái Quốc, Paul Tất Thành, Văn Ba, Lý Thụy, Hồ Quang, Vương Tống Văn Sơ, Trần,
Chín, Chen Vang....

Bác còn dùng hơn 50 bút danh khi viết sách, báo: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn,
Nguyễn A.Q, Ng. Ái Quốc, Wang...
Người mất vào ngày 02/9/1969 tại Hà Nội vì bệnh nặng. Có thể nói, ngoài sự
nghiệp cách mạng vĩ đại, Bác còn để lại cho đời sau nhiều tác phẩm văn chương có giá
trị nghệ thuật mà trong số đó có tập Ngục trung nhật ký.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Hồ Chí Minh đã để lại một di sản văn học lớn bao gồm nhiều thể loại với tư
tưởng nghệ thuật lớn, đặc sắc.
Văn chính luận: Văn chính luận của Hồ Chí Minh có 2 giai đoạn sáng tác: thời
gian đầu thế kỉ XX và giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Trong thời gian đầu thế kỉ, khi người bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước thì
văn chính luận của người được sáng tác chủ yếu với mục đích tiến công trực diện chủ
9


nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các
tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn này là Bản án chế độ thực dân Pháp và những bài báo
bằng tiếng Pháp (bút danh Nguyễn Ái Quốc) đăng trên các tờ báo ở Pari như: Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền v.v.... Nội dung của các tác phẩm này thể
hiện tính chiến đấu mạnh mẽ, tập trung lên án chế độ thực dân Pháp, tố cáo chính sách
cai trị và bốc lộ vô nhân đạo của Pháp ở các nước thuộc địa đoàn kết, liên hiệp lại,
vùng lên đấu tranh để giành độc lập. Sức lôi cuốn và thuyết phục mạnh mẽ của các tác
phẩm chính luận này không chỉ ở cách viết sắc sảo, đầy chất trí tuệ và hóm hỉnh, ở
những cứ liệu, sự việc chân thực, phong phú, chính xác mà còn ở tình cảm sâu sắc và
nhiệt huyết cách mạng mãnh liệt của tác giả.
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, những tác phẩm chính luận của
người bám sát từng chặng đường cách mạng, thể hiện những sự kiện, những nhiệm vụ
chính trị trọng đại của dân tộc. Những tác phẩm tiêu biểu là: Tuyên ngôn độc lập
(1954), tuyên bố chế độ chấm dứt thực dân phong kiến và mở ra một kỉ nguyên độc

lập mới cho dân tộc Việt Nam, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946) và Không có
gì quý hơn độc lập tự do (1966) vang lên tiếng gọi thống thiết, thiêng liêng của non
sông đất nước vì được viết trong những giờ phút thử thách đặc biệt của dân tộc, trước
họa xâm lăng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; Di chúc là tác phẩm được viết trước
khi Người qua đời, để lại “muôn vàn tình thương yêu” cho dân tộc và những lời căn
dặn sâu sắc với các thế hệ cách mạng về những vấn đề chiến lược hệ trọng của Đảng
và đất nước.
Văn chính luận của Hồ Chí Minh không chỉ được viết bằng một trí tuệ uyên
bác, sáng suốt, một văn phong chặt chẽ, súc tích, giọng điệu hào sảng, giàu tính biểu
cảm mà còn bằng cả tấm lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc, bằng nhiệt huyết cách
mạng sục sôi và một trái tim vĩ đại mà chân thành, tha thiết... nên đã tạo được sức lôi
cuốn, thuyết phục lớn với người đọc.
Truyện và kí:
Trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng tác một số
truyện ngắn và bút kí bằng tiếng Pháp: Lời than vã của bà Trưng Trắc (1922), Con
người biết mùi hun khói (1922), Đồng tâm nhất trí (1922), Vi hành (1923), Những trò
lố hay Varen và Phan Bội Châu (1925)... Nội dung chủ yếu nhằm tố cáo tội ác vô nhân
đạo của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động Việt Nam
và các nước thuộc địa, đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng. Nghệ thuật
tiêu biểu của các tác phẩm truyện kí nói trên là ngắn gọn, sắc sảo, biến hóa linh hoạt
và đầy tính chất châm biếm nhưng cũng rất thâm trầm sâu sắc.
Sau cách mạng tháng Tám 1945 Hồ Chí Minh viết một số tác phẩm hồi kí có
tính chất tự truyện như: Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963) với bút danh T.Lan,
Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (1964) với bút danh Trần Dân
Tiên v.v...
Thơ ca, có ba giai đoạn sáng tác và cũng hình thành 3 mảng chính:
Ngục trung nhật ký là một tập thơ chữ Hán, được viết trong thời gian Người bị
cầm tù tại các nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc.
10



Những bài thơ chữ Hán và thơ tiếng Việt viết trong Kháng chiến chống Pháp từ
1941 – 1945 và trong thời kì kháng chiến có hai dạng: viết với mục đích tuyên truyền
có tính chất nôm na, dân giã như Ca dân cày, Ca binh lính, Ca công nhân...và những
bài thơ viết theo cảm hứng nghệ thuật như Pác Bó hùng vĩ, Tức cảnh Pác Bó, Đăng
sơn,... mang đậm màu sắc cổ điển và hiện đại, làm nổi bật hình ảnh một con người
mang nặng nỗi âu lo việc lớn của “nước nhà” nhưng vẫn luôn hòa hợp với thiên nhiên,
ung dung tự tại, làm chủ tình thế và tinh tưởng vững chắc vào tương lai tươi sáng, mặc
dù cuộc kháng chiến trước mắt còn biết bao gian nan thử thách.
Những bài thơ chúc tết của Hồ Chí Minh được viết liên tục từ năm 1946 đến
trước khi Người qua đời năm 1969 nhằm tổng kết những chủ trương, thành quả lớn
của đất nước một giai đoạn cách mạng qua từng năm, nhưng vẫn thấm đượm màu sắc
trữ tình và giàu tính nghệ thuật, có sức thu hút, động viên rất lớn đối với toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta trên các mặt trận chiến đấu và sản xuất, công tác.

1.1.3. Quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh
Chủ tich Hồ Chí Minh là một nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn hóa lớn, nhà chính trị
tài ba, một nhà văn, nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn chương hiện đại nước nhà.
Đến với văn chương nghệ thuật, Người không chỉ sáng tác mà còn đưa ra những quan
điểm sáng tác nghệ thuật của mình:“Cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách
mạng.” [11; tr.55] Hay :“Hiện đại thi trung ưng hữu thiết - Thi gia dã yến hội xung
phong.” [16; tr.102]
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem trọng vai trò và chức năng của chủ thể sáng
tạo, nên đối với Người: người nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức, giữ vững lập trường,
rèn luyện tư tưởng chính trị, ý chí phấn đấu, tinh thần trách nhiệm, không ngừng nâng
cao trình độ để mài dũa ngòi bút ngày một sắc bén hơn nhằm làm tốt nhiệm vụ của
người nghệ sĩ trên trận tuyến chống quân thù, chống lại cái ác, phê bình những cái xấu
còn tồn tại trên xã hội trên tinh thần “thật thà, chân chính, đúng đắn” mà vẫn đảm bảo
tính nghệ thuật của tác phẩm, không đánh mất vai trò tưởng tượng trong sáng tạo nghệ
thuật, đồng thời ca ngợi “những người mới, việc mới” góp phần xây dựng cuộc sống

tốt hơn, đẹp hơn. Hơn thế nữa, trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”, người chiến sĩ văn
hóa cần phải biến ngòi bút của mình thành một thứ vũ khí hữu hiệu:
“Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ
Mỗi vần thơ, bom đạn phá cường quyền”
(Sóng Hồng)
Quan điểm xem thơ văn là vũ khí trong sự nghiệp “phò chính trừ tà” còn thể
hiện thái độ đề cao vị thế văn nghệ, vai trò to lớn của văn học nghệ thuật đối với sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của đất nước. Khi dân tộc xung trận thì văn nghệ sĩ cũng
xung trận. Từ đó văn nghệ không chỉ tiếp sức cho dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh
tinh thần cho toàn dân tộc. Cho đến sau này, quan điểm văn nghệ của Bác còn được
phát huy mạnh mẽ như lời khẳng định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (12-1986): “Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được
văn học và văn nghệ trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào
11


việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người” [16; tr.103]. Cũng nhờ vậy, trải qua
hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, văn hóa nghệ thuật đã góp phần to lớn vào
việc nâng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam lên tầm cao của thời đại như lời biểu
dương của cố Tổng bí thư Lê Duẩn: “Với những thành tựu đã đạt được, chủ yếu trong
việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Văn học nghệ thuật dưới ánh
sáng quan điểm của Bác đã thực sự mang đậm bản sắc Việt Nam, tinh thần và sức
mạnh Việt Nam khi nền văn học này thực sự là một bộ phận khăng khít với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của đất nước và của dân tộc”. [16; tr.103]
Hồ chủ tịch không có ý định trở thành một nhà văn, nhà thơ: Vì trách nhiệm của
một người dân mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương lai của mình
không phải là con đường khoa cử văn chương.
Sinh thời không nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Trong Ngục trung nhật ký ,
Người viết: “Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”
Thơ văn của Người viết ra điều mang đặc tính: trước hết về cuộc đời hoạt động

cách mạng, Bác dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên truyền, phục vụ cách
mạng.

1.1.4. Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
* Những tác phẩm ký tên Nguyễn Ái Quốc:
+ Truyện ngắn “Vi hành” (1920)
+ “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925)
+ Kịch “Con rồng tre” (1922)
+ Ký “Nhật ký chìm tàu” (1935)
* Những tác phẩm ký tên Hồ Chí Minh:
+ Thơ “Ngục trung nhật ký” (1942 – 1943)
+ Truyện “Giấc ngủ 10 năm” (1949)
+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một số bài viết: chữ Quốc ngữ và chữ Hán từ 1941
đến 1969. Ngoài ra có nhiều bút ký, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái Lan,
Trung Quốc. Bác còn dịch cuốn “Tỉnh ủy bí mật” của Phê-đô-rốp. Năm 1974,
nhà xuất bản đã cho in 6 truyện ngắn và bút ký của Hồ Chí Minh khi Người
hoạt động cách mạng ở Pháp.

1.2. Giới Thiệu tác phẩm “Ngục trung nhật ký”
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Tháng 1 – 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo
cách mạng trong nước. Tháng 5 năm ấy, Hội nghị lần 8 của Trung ương Đảng họp ở
hang Pắc bó dưới sự chủ tọa của Người, quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng
12


minh hội tức là Mặt trận Việt Minh để đoàn kết đông đảo nhân dân đuổi Nhật, giải
phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm sự giúp đỡ của đồng mình, mà đồng minh gần ta
nhất là Trung Quốc. Người hiểu biết Trung Quốc hơn ai hết, nên Trung ương cử
Người đi Trùng Khánh nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới

Thạch, bên trong thì đặt quan hệ với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Bây giờ Người lấy
tên là Hồ Chí Minh.
Đi suốt 10 ngày 5 đêm, đến thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám
xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ
của Tưởng cho là Bác sang phá tổ chức ‘Việt Nam cách mạng đồng chi hội” của
Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần do chúng đỡ đầu. Cũng bởi thế cho nên những
bức điện của Bác gửi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều không được trả
lời.
Chúng giải Người đi khắp nơi, tay bị trói, cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi
nắng, trèo núi, vượt đèo. Hơn 1 năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Người đã làm
134 bài thơ in trong cuốn “Nhật Ký trong tù” trong đó có bài “Mới ra tù tập leo núi”
làm sau khi Người mới ra khỏi tù nhưng Nhà xuất bản Văn học vẫn in chung trong tập
“Nhật ký trong tù”, xuất bản năm 1960.
Tháng 5 – 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, người ta đã tìm được
20 bài thơ chữ Hán viết trong thời kì Bác bị giam giữ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Như vậy, Ngục trung nhật ký có 134 bài thơ bằng chữ Hán.
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29 – 8- 1942, được trả tự do ngày 10 – 9
– 1943, một năm sau đó, tức là tháng 9 – 1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để
Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn cảnh ấy. Ở đây, thơ bật ra ngoài
ý muốn của Người.
Ngục trung nhậ ký là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác
bị giam giữ. Ngục trung nhật ký viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ
trường thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài viết về một vấn đề, thể điệu có thay
đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của
Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết
dưới giá treo cổ M. Phuxich và Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh là một điều hiếm
có.

1.2.1. Thể thơ

Phần lớn những bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký đều thuộc thể thất ngôn tứ
tuyệt luật đường. Bên cạnh đó còn có một số bài thể tự do, ngũ ngôn tự do, không
phân biệt số câu (5 chữ 8 câu, 5 chữ 10 câu, 5 chữ 12 câu) và thất ngôn bát cú biến thể
nhưng chỉ chiếm một lượng nhỏ trong toàn tập Ngục trung nhật ký.

1.2.2. Nội dung tác phẩm “Ngục trung nhật ký”

13


1.2.2.1. “Ngục trung nhật ký” là một tập nhật ký bằng thơ, thể hiện chân
thực thái độ tình cảm của tác giả trước thực trạng đen tối ngột ngạt của chế
độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch.
Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942 - 1943 mục rỗng từ lâu. Ngục trung nhật ký đã
ghi lại sự việc Bác đã phải sống, đã chứng kiến. Qang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi
bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa chiều tối. Chuyện cái
cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Đây là đặc trưng của bút pháp tả thực,
đứng ở một góc độ nhất định cách rõ ràng, chính xác... Bác đã đứng ở góc độ người tù
nhân đã từng nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch.
Trước hết hãy nói đến sự bất công vô lý trong nhà tù. Vị lãnh tụ của Cách mạng
Việt Nam vừa sang khỏi biên giới đã bị bắt và đưa ngay vào nhà tù của bọn Tưởng:

“Ta là đại biểu dân Việt Nam
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió
Phải làm “khách quý” tại nhà giam”
(Đường đi khó khăn)
Cái gì đang chờ Bác ở đó? Nhất là khi chúng biết Bác là một người cộng sản.
Mà đường lối sử thế đối với Đảng viên cộng sản hồi bấy giờ là “Thà giết oan một

trăm, còn hơn là để một tên chạy thoát”.
Đặt chân lên đất Trung Quốc, Bác bị bắt ngay ở phố Túc Vinh “Túc Vinh
khước sử dư mông nhục”. Lối chơi chữ “vinh – nhục” nhưng quan trọng nhất đối với
con người là vấn đề danh dự. Nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch đã chà đạp lên
nhân quyền con người. Bọn quân phiệt khắp nơi trên thế giới là một lũ vô pháp, vô
thiên.
Chế độ xã hội Trung Quốc thời Tưởng mục nát từ bao đời thì nhà tù đâu còn là
nơi giáo dục, cải tạo mà ngược lại tội ác tha hồ mà phát triển. Một điều vô lý hết sức, ở
ngoài đánh bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc bởi vì đánh bạc ở ngoài làm rối ren trật
tự, đẻ ra trộm cắp, phạm đến quyền bốc lột và quyền tư hữu của bọn quan liêu. Cho
nên ở đây, có tiền thì mua cơm mà ăn, không có tiền thì chết đói:
“Tù cứng ngày ngày no rượu thịt
Tù nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn”
(Tù cờ bạc)
Vào tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc:
14


“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này”.
(Tù cờ bạc)
Bọn chúng không hề đếm xỉa đến công lý, pháp luật. Ngục trung nhật ký có hai
bài thơ Bác nhắc đến việc trốn lính, vợ phải tù thay cho chồng. Mà đi lính để làm gì?
Không phải để kháng Nhật, mặc dù Nhật đánh chiếm khắp nơi, mà để tấn công Hồng
quân Liên Xô, Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều để kiếm viện trợ cho Mỹ.
Trong tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù thay chồng.
Đã là công lý thì ai làm nấy chịu. Thế nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả,
chà đạp tất cả. Hơn thế nữa chúng còn bắt cả trẻ em vào tù:

“Sỡ dĩ ngã niên tài bán tuế”.
(Cháu bé trong nhà lao Tân Dương)
Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp tiền
giam, phải mua chỗ ngủ như ở quán trọ, nếu không thì phải nằm cạnh hố xí, thổi cơm
đun nước đều phải trả tiền cả:
“Thổi một nồi cơm trả sáu hào
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao
Một đồng, của đáng sáu hào chỉ
Giá cả trong tù định rõ sao!”.
(Tiền công)
Nhưng nét miêu tả trên đâu phải là những nét cá biệt. Mười tám nhà tù, Bác đã
miêu tả nhiều hay ít đều như thế. Nếu ngoài xã hội mà liêm chính, không có cảnh hối
lộ công khai, phổ biến thì những chuyện quái gỡ ấy lại thành lệ trong nhà lao.
Ngục trung nhật ký phải đâu chỉ tố cáo xã hội gián tiếp quan cảnh tượng nhà
lao, nó vươn ra ngoài diễn tả cái xã hội “thái bình” của từng ban trưởng suốt ngày
đánh bạc, cao hơn một bậc cảnh trưởng chạy quanh làm tiền, trên một bậc nữa là
huyện trưởng chong đèn hút thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói
lên cái vô lý, cái lố lăng, cái tàn nhẫn đang ngự trị trong xã hội Trung Quốc thời bấy
giờ:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Gải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
15


Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
(Ở Lai Tân)
Tóm lại, toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Ngục trung nhật ký là hình
ảnh thu nhỏ của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thói nát bất công
và tàn bạo của chế độ Tưởng đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói đến sự bất

công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ trong Ngục trung
nhật ký như một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép của Ngục trung nhật ký là ở đó.

1.2.2.2. “Ngục trung nhật ký” là một tập nhật ký thể hiện tiếng lòng của
Bác đã thành thơ.
Nói đến tâm hồn có nghĩa là nói đến tình cảm mà trước hết là nói đến tình yêu
thương con người của Bác. Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường
hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt ra những vấn đề mà tác giả không hề nghĩ tới như truyện
Kiều của Nguyễn Du. Với Ngục trung nhật ký thì trái lại, Bác chưa nói hết được những
điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời
sáng trong thơ. Đồng chí Viên Ưng- một nhà thơ Trung Quốc sau khi đọc Ngục trung
nhật ký đã viết: “Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại
dũng...tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm”.
Ánh sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Đồng chí Phạm Văn
Đồng nói: “Tình nhân đạo, tình thương đồng bào đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp
nhất trong con người Hồ Chủ tịch”.
Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người đứng trong
cửa sắt, người đứng ngoài của sắt mà cách biệt như một đại dương. Có lần trong tù
bỗng nổi lên tiếng sáo. Qua tiếng sáo không những Bác đoán được nỗi lòng của người
thổi sáo mà còn nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng như cũng đang bồi hồi
vì tiếng sáo:
“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu”
(Người bạn tù thổi sáo)
Cùng vất vả, cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng
giấy bồi, đêm thu cũng như Bác, trằn trọc ngủ không yên. Thương người tù cờ bạc
nghèo không có cái ăn trước cái cảnh “ngày ngày no rượu thịt” của kẻ khác, đành chịu
“nước mắt bọt mồm tuôn”. Thương người bạn tù đêm qua còn ngồi dựa lưng Bác, sáng
ngày đã chết cứng. Tuy chỉ là một người tù cờ bạc nhưng Bác thương xót như thương
xót một người thân, câu thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt:
“Thân anh da bọc lấy xương

Khổ đau đói rét hết phương sống rồi...”
16


(Một người tù cờ bạc vừa chết)
Thương những người lao động dầm mưa, dãi nắng mà công lao chẳng được bao
nhiêu. Tâm trí Bác đã âu yếm ghi lại cái quán nhỏ bên đường, chỉ có cháo hoa và muối
trắng nhưng khách qua đường vẫn lấy đó làm chỗ tạm dừng chân.
Thương tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội tình chi
cũng phải theo mẹ vào nhà tù. Bài thơ “Cháu bé trong nhà lao Tân Dương” là lời của
một em bé, đọc lên nghe như lên một tiếng khóc: “Oa...!oa...!oa...!”.
Bác thương mọi số phận, thiết tha với những biểu hiện của sự sống và của tâm
linh dù đó chỉ là cái run khẽ của hương hoa bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó
chỉ là chuyện “cái răng”, chuyện chiếc gậy bị “lính ngục đánh cắp”. Chẳng phải Bác
cao siêu gì trong quan niệm về con người. Người xưa nói: “Nhân chi sơ tính bổn
thiện” (Mạnh Tử), “tính tương cận, tập tương viễn” (Khổng Tử), Bác có thơ:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
(Nửa đêm)
“Dạ bán” (Nửa đêm) khi những người tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật, những
“bạn hữu” nơi tù ngục của Người ngủ thì chỉ mình Bác thức. Thức trắng đêm một
mình ngắm nghía những kẻ tội lỗi kia và bỗng từ khuôn mặt của những kẻ xấu số đó
gợi lên trong Người một nỗi xót xa thương cảm, cao hơn một hy vọng, một quyết tâm
cứu vớt chúng sinh. Xuân Diệu nói: “Người bạn tù, người bạn tù là đề tài nhân loại
đối với Bác”. Đặng Thanh Lê từ việc khảo sát “Hình tượng bằng hữu” trong “Ngục
trung nhật ký” nhận xét chính xác “Bác là một nhân cách văn hóa mang tâm hồn nhân
loại”. Đề tài nào Bác cũng viết, hình tượng nào Bác cũng xây dựng, nhân vật nào Bác
cũng hướng tới nên thơ của bác mang tâm hồn nhân loại rất rõ nét. Chế Lan viên đã

phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân tộc và nhân loại trong Bác “Ở Bác cái
nhân loại trước tiên là nhân loại – nhân bản, nhân loại – văn hóa”. Lòng thương
người ở Bác chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm thía ở đây là
mạch nhân đạo của nhân loại chìm sâu trong Hồ Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ
diệu. Mạch nhân đạo ấy giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập, tự do, hạnh phúc cứ như là
một điệp khúc vang mãi trong tâm tưởng của Người.
Nói với tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói đến lòng yêu người và tình yêu
thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên ở Bác cũng chính là lòng yêu đời. Cái mạch nhân
đạo trong thơ Bác giúp ta hiểu rõ cảm hứng thiên nhiên của Người.
Chúng ta thừa nhận một sự thực phổ biến ngày nay là sự khủng hoảng của môi
trường sinh thái, khủng hoảng trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên, khủng
hoảng này có tác hại không nhỏ đến sự suy thoái về đạo đức, ứng xử con người với
thiên nhiên bị phá vỡ. Thiên nhiên sinh ra con người, con người khai thác thiên nhiên
17


để sống, nhưng lại chống phá thiên nhiên bởi khai thác vô kế hoạch, con người vẫn
chưa cảm nhận đầy đủ sự phản ứng dữ dội của thiên nhiên đối với mình không công
bằng, chỉ biết vơ vét chứ không lo bù đắp trở lại.
Trong sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên nhiên trong
cách ăn mặc, ở, trong cách giao hào cảm xúc với cây cỏ, hoa lá, trăng sao... của Bác là
bài học nhân đạo lớn lao biết nhường nào đối với mỗi người và cả thời đại. Với Bác
thiên nhiên đã làm tốt vai trò sinh thái cảm hóa con người “Trăng nhòm khe cửa ngắm
nhà thơ”. Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trò người hóa: “Cảnh đẹp đêm nay khó
hững hờ” (Mác nói: Con người do hoàn cảnh tạo ra, bởi vậy phải làm cho hoàn cảnh
mang tính người). Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó:

“Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng

Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu”
(Trên đường đi)
Thiên nhiên như muốn chia sẽ nỗi vất vã với Bác, thiên nhiên muốn sưởi ấm
thêm tâm hồn Bác. Bởi Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến thiên nhiên. Có được tình cảm
ấy chính là lòng yêu đời của Bác.
Giữa bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm hồn thương
người và yêu đời vô hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui
tràn đầy trong cuộc sống. Cái vui với trời đất theo một cánh chim, một làn mây, một
xóm ven sông.
Những hình ảnh như thế không thiếu gì xung quanh ta, nhưng thường nó vẫn
trôi qua đi nếu như không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc thì không thể nào ghi lại
được.
Không phải cuộc sống ngoài nhà tù Bác mới vui mà ngay trong nhà tù, kẻ thù
cũng không sao cướp được cái vui hồn nhiên trong cuộc sống được. Quý làm sao cái
vui trên nét mặt những người đang sống cảnh tù tội:
“Nắng sớm mặt trời soi cả ngục
Sương mù khói đặc sẽ tan hơi
Tràn đầy sinh khí trong trời đất
Tất cả tù nhân mặt đỏ tươi”
(Nắng sớm)
18


Sống là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy. Nhưng chúng
ta còn nhớ biết bao nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết vút lên trong văn thơ ngày trước.
Trong lòng phải có sẵn một tâm hồn lớn, một niềm tin tưởng vô biên mới nhìn ra được
cái sự thật đơn giản và hiển nhiên ấy.
Trong hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đày và biết bao công việc lớn
đang chờ đợi thực không dễ gì mà vui. Cũng có lúc Bác cảm thấy buồn vô hạn:
“Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ

Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ở tù năm trọng thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi lòng”
(Đêm thu)
Tóm lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình yêu thương con người và
lòng yêu đời chính là lòng yêu nước. Ngục trung nhật ký canh cánh trong lòng nỗi nhớ
nước, thương dân. Chân bước đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về phương Nam, nhớ
đồng bào trong hoàn cảnh lầm than. Bác nhớ tiếng khóc của bao em bé Việt Nam qua
tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến bến sông, nhớ lá cờ
tung bay phấp phới, nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ:
“Một canh...hai canh...lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chọp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quan”
(Ngủ không được)

1.2.2.3. “Ngục trung nhật ký” đã thể hiện một tinh thần lạc quan phơi phới
và một ý chí bất khuất kiên cường.
Tình thương người, lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục
truyền thống thơ xưa, mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người
cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
Ý chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững qua muôn vàng khổ
cực và cũng đã nói lên được trong những hình ảnh nên thơ:
19


“Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông”
(Nghe tiếng giã gạo)
Trong cuộc sống tù túng, chật hẹp của nhà tù Quốc dân đảng, Bác đã tìm đủ đề
tài cho hơn 100 bài thơ. Cơ hồ đối với Bác, chuyện gì cũng thành thơ. Chuyện núi non
trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành thơ. Bác làm thơ vì một
cái răng, một cái gậy, kể cả những chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi
Bác nói trong thơ nên có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có thể
phải hiểu một cách linh hoạt mới đúng: “Không phải chỉ nói chuyện thép và lên giọng
thép mới có tinh thần thép”. Trong thơ văn cũng như trong cuộc đời, cái điều quan
trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người. Ngục trung nhật ký ít có những lời hô to
nói lớn:
“Giọng của người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước”.
(Sáng tháng năm)
Bác cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép,
tinh thần của một anh hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến
đấu.
Sống trong tù, lúc nào Bác cũng thể hiện một phong thái ung dung, bình tĩnh,
phảng phất thơ văn của các nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có
khi là cái ung dung của người quay lưng lại với cuộc đời: trả áo mũ từ quan về sống ẩn
dật, hay bất chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn k phải như vậy. Đồng
chí Phạm Văn Đồng nói: “Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không
khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào
lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử”. Chính Bác cũng đã nói:
“Sự vật vẫn xoay đà định sẵn
Hết mưa là nắng ửng lên thôi”.
(Trời hửng)
Đọc Ngục trung nhật ký, chúng ta tìm thấy một sức mạnh chịu đựng vô cùng
mãnh liệt của Bác. Nhà tù đã đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này
đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi thuyền thì bị treo giò:

“Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm không ngủ
Bốn tháng không giặt giũ
Bốn tháng không thay áo”.
20


Bị giam lâu, chân mềm đi, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc
băng rừng, lội suối về nước. Đó là tấm gương cương nghị của Bác.
Bài thơ “Bốn tháng rồi” đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc
liệt của Bác ở trong tù. Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, hủy
hoại thân thể Bác, chúng ta cảm thấy hết sức đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng ta
vô cùng sung sướng, tự hào trước chiến thắng của tinh thần Bác, tinh thần của một
chiến sĩ Cộng sản vĩ đại đã bấp chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ
thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:
“Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần”.
Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có
tinh thần thép mà mọi thiếu thốn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch
sử, khí phách dân tộc và tâm hồn thời đại.

21


CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐIỂN TÍCH
2.1. Một số khái niệm điển tích, điển cố
Khi tiếp cận đối với một tác phẩm văn học cổ hay đơn thuần chỉ trong cách nói
hằng ngày, ta thường bắt gặp việc sử dụng điển tích, điển cố. Ngay trong Tiếng Việt ta
cũng thấy 2 khái niệm là: Điển tích 典 昔 và Điển cố 典 故. Vậy định nghĩa cụ thể của

hai khái niệm này là gì?
Theo “Hán Việt từ điển” 漢 越 詞 典 của Nguyễn Văn Khôn viết: “Điển 典 :
Kinh điển. Thường. Phép tắc. Chủ trương. Coi sóc việc gì. Cầm cố. Họ. Tích 昔: xưa,
trước, lâu, ban đêm. Họ. Cố 故: Bền, vững bền. Kín đáo. Sẵn, vốn, đã. Nhiều lần. Bỉ
lậu. Cố nhiên. Tất nhiên. Họ. Điển tích: Sự tích chép trong sách vở xưa. Điển cố: Điển
cũ tích xưa, sự tích, luật lệ cũ.” [8; tr.284].
Theo Đào Duy Anh tích 跡 là dấu chân, dấu vết cũ. Theo Nguyễn Quốc Hùng
tích là dấu chân, vết chân, việc đời xưa, dấu vết đời xưa để lại. Từ điển Tiếng Việt của
trung tâm từ điển, Hoàng Phê chủ biên thì viết:
Điển tích: câu truyện trong sách đời trước được dẫn lại một cách cô đúc trong tác
phẩm. Điển cố: sự việc hay câu chữ trong sách đời trước được dẫn trong thơ văn.
Trong “Đại từ điển tiếng Việt” do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa điển cố
là “Sự nghiệp hay câu chữ trong văn học cổ được dẫn ra khi viết: Điển cố văn học”.
Điển tích là “Câu chuyện trong sách đời xưa dẫn lại trong bài viết, tác phẩm: điển tích,
thành ngữ”. [21; tr.634]
Việc dùng điển trong thơ từ xưa đến nay là điều rất phổ biến, mà theo Phạm
Đan Quế việc dùng điển là “một điều hết sức bình thường nếu không nói là bắt buộc”
[15; tr.6].
Vì thế điển tích và điển cố, có nghĩa tương đương nhau.
22


2.2. Những đặc điểm chung của điển tích
2.2.1. Đúc kết các chuyện xưa, tích cũ:
Phần lớn các điển tích đều chứa các câu chuyện xưa, tích cũ của nền Hán học.
Các nho gia, khi sáng tác văn thơ đều có xu hướng mượn một câu chuyện xưa hoặc
một câu văn, câu thơ cổ để diễn tả tình ý mà mình muốn thể hiện trong tác phẩm. Tuy
nhiên họ không diễn tả hết nguyên văn câu chuyện, mà họ chỉ dùng một vài chữ để nói
lên ngụ ý của mình trong câu văn, câu thơ mà mình diễn đạt.
Do đặc điểm của điển tích là chứa đựng nội dung các câu chuyện cổ, nên nội

dung của nó bao hàm nhiều sắc thái ý nghĩa và có thể đem áp dụng vào các câu văn,
câu thơ. Cho nên điển rất được các bậc nho gia ưa chuộng và sử dụng nhiều. Vì thế,
điển được sử dụng khá rộng rãi.
Ví dụ: trong “Cung oán ngâm khúc”, khi miêu tả nét mặt của người cung phi,
Nguyễn Gia Thiều viết:
“Áng Đào Kiển đâm bông não chúng
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành”.
(Câu 13-14)
Hai chữ “Áng Đào Kiển” và “Khuynh thành” là điển tích nhắc đến vẻ mặt tốt
tươi của nàng Đào Kiển, cung phi vua Thuận Đế nhà Nguyên được vua ưa chuộng hơn
các cung phi khác.
Hoặc trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, để diễn tả nồi niềm
của người thiếu phụ chờ tin chồng, tác giả đã sử dụng điển tích rất quen thuộc: ả Chức,
chị Hằng, sông Ngân để nói về cảnh ly biệt. Tác giả viết:
Khác gì ả Chức chị Hằng,
Bến ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.
(239-240)
Điển tích ả Chức khiến ta nhớ đến câu chuyện về Chức Nữ “vốn là Thiên Tôn
Nữ, hầu thượng đế có phần lo dệt, không bỏ thì giờ. Thượng đế thấy thương, gả cho
Khiêu Ngưu (ta kêu là chàng Ngâu) chăn trâu cho trời. Chức Nữ có đôi bạn rồi sinh ra
biếng nhác, không làm tròn phận sự như xưa. Thượng Đế bắt tội, không cho ở chung
với chồng nữa, đem về cho ở bên đông ngạn sông Ngân Hà, mỗi năm tới ngày mồng
bảy tháng bảy mới cho gặp mặt chồng một lần. Đêm đó (đêm thất tịch) có quạ đội cầu
ở sông Ngân Hà (Bến Ngân) cho Chức Nữ qua sông gặp mặt chồng.” [7, tr 68]
Còn điển tích ả Hằng nói về Hằng Nga vợ của Hậu Nghệ. Khi Hậu Nghệ xin
được thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga biết Hậu Nghệ làm những
việc sai trái, ngăn cản không được nên ăn cắp thuốc rồi thành tiên bay lên cung trăng.

2.2.2. Đúc kết các bài học thế sự
23



Qua các câu chuyện đối nhân xử thế của người xưa, đúc kết thành bài học ở đời,
nên sự xuất hiện của điển trong các tác phẩm là không nhỏ, dùng để diễn tả ngụ ý của
mình bằng một vài chữ, nói ít hiểu nhiều. Ví dụ như điển “Tiền nhân”, “Hậu quả” để
chỉ rằng: nếu đời trước ta vốn có nhân đức thì đời nay được hưởng thụ sự an lành, nếu
đời nay ta làm chuyện không lành thì đời sau ta sẽ phải lãnh hậu quả nặng nề.
Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội điều được đúc kết thành các
câu thành ngữ, câu văn, câu thơ mà nó chứa đựng các điển tích về sự thay đổi của cuộc
đời, số phận. Ví như câu: “Thương hải tang điền” được người Việt ví là “bãi bể nương
dâu” liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Tương truyền rằng, ở thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi đỗ đạt
và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ
quan đi tu. Ông đắc đạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà
Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo với Phương
Bình rằng:
“Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến
Đông hải tang vi tang điền”.
Nghĩa là “Từ khi hầu chuyện với ông, tôi thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu”.
Câu chuyện này được lưu truyền trong dân gian và được người đời chắt lọc lấy cái tinh
chất để phản ánh sự thay đổi của trời đất và cuộc sống. Trong thơ văn Trung Quốc,
hình ảnh “bãi bể nương dâu” trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng, như
trong thơ Tô Thức đời Tống có câu “Bất kinh bột giải tang điền biến”, có nghĩa là
“Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu”. Cũng nhờ câu chuyện trên mà dần dà
trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ “Thương hải tang điền”.
Việc dùng điển được các bậc nho gia đương thời rất tâm đắc, vì nó mang ý
nghĩa sâu sắc, thấm thía. Diễn tả hết ý nghĩa của câu văn, mà chỉ bằng vài từ gợi tả.

2.3. Phân loại điển tích
Điển tích hay còn gọi là điển cố được hiểu là những từ ngữ thuộc những chuyện

xưa, tích cũ, tư tưởng, hình tượng được ghi chép hay lưu truyền từ trong sách xưa,
chuyện cũ và được tác giả sử dụng như một phương tiện ngắn gọn, súc tích nhất những
ý tưởng, miêu tả những sự vật, hiện tượng con người ta có thể phân chia điển tích
thành các loại sau đây:
Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu truyện trong Kinh, Sử, Tử, Tập và
các tác phẩm văn học cổ điển khác trong thư tịch Trung Hoa...về nhân vật lịch sử, sự
kiện lịch sử, địa danh, những quan niệm về cuộc sống.
Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người trước hay được
trích từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao, cổ tích truyện đã được lưu truyền.
Sử dụng điển tích mang nhiều cách gọi khác nhau: Dụng sự 用 事, sử sự 使 事
, dẫn sự 引 事, lệ sự 栵 事, biên sự 褊 事...
24


Điển tích được sử dụng trong phạm vi vô cùng rộng rãi trong giao tiếp, nói
chuyện hằng ngày cho đến trong thơ văn.

2.4. Đặc tính tu từ của điển tích văn học
Trong văn học, một trong những biện pháp tu từ được sử dụng phổ biến nhất là
hình thức so sánh. So sánh là lấy phẩm chất của một cái này để làm rõ đặc điểm của
một cái khác. Tiến lên một bước, người ta không dùng hình thức so sánh, mà dùng
hình thức ẩn dụ, hoán dụ. Thông thường, trong so sánh hay ẩn dụ, hoán dụ, các tác giả
văn học thường lấy những hiện tượng thiên nhiên để lảm rõ những hiện tượng xã hội,
hay phẩm chất của con người. Về mặt nào đó, điển tích hay điển cố cũng có phần
giống với những hình thức ẩn dụ, hoán dụ. Nhưng có điều khác biệt là, điển tích như
chất liệu dùng trong những hình thức ẩn dụ, hoán dụ không phải lấy trong thiên nhiên,
mà lấy từ tác phẩm của các thời đại quá khứ xa xưa.
Đặc điểm cơ bản của so sánh và ẩn dụ là dùng tính chất, đặc điểm, hình tượng
của thế giới tự nhiên gán cho phẩm chất của con người để so sánh và ngược lại. Điển
tích hay điển cố bao hàm cả hai đặc điểm ấy, vì nội hàm của điển tích rất phong phú,

không chỉ là thế giới tự nhiên cùng những tính chất, đặc điểm của nó mà còn là con
người với đầy đủ tâm lý, phẩm chất, suy nghĩ, hành động, sinh hoạt, phong tục, tập
quán... và toàn bộ những hoạt động xã hội như văn hóa, giáo dục, y học, kinh tế, chính
trị.... Chất liệu của điển tích được lấy từ các tác phẩm của thời đại quá khứ xa xưa.
Điển tích vừa mang tính chất chung của phương thức so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhưng
cũng biểu hiện nét đặc thù trong hệ thống chung ấy. Nhìn chung điển tích hay điển cố
mang một số tính chất sau:

2.4.1. Tính liên tưởng
Điển tích là nghệ thuật xây dựng hình tượng bằng ngôn ngữ kích thích sự liên
tưởng và tưởng tượng. Đằng sau lớp vỏ từ ngữ là cả một cuộc sống sinh động mà khi
tiếp cận đến nó toàn bộ những hình ảnh về cuộc sống ấy được khơi dậy. Điển tích vận
dụng khả năng tư duy hình tượng rất phong phú và chính xác, khả năng liên tưởng
nhạy bén. Khi điển tích tồn tại và hoạt động trong một ngữ cảnh nhất định thì từ hình
tượng cụ thể của nó, người đọc nhanh chóng tái hiện một sự liên tưởng trong đầu óc
của mình. Nội dung điển tích lập tức được lĩnh hội với tư cách là những hình ảnh cụ
thể, sinh động, gợi cảm và hấp dẫn. Lấy điển Liễu Đường trong Chinh Phụ Ngâm 征
婦 吟 làm ví dụ, đọc điển này, những hình ảnh về câu chuyện được tái hiện: Hàn
Bằng 韓 鵬 đời chiến quốc làm chức trung thư xá nhân cho Tống Khang vương 宋 康
王, bị Tống Khang vương cướp vợ là Hà thị 荷 氏 và phải bị tù. Hàn Bằng buồn bã tự
tử. Trước khi chết theo chồng, Hà thị đề thư xin được chôn cùng chồng. Tống Khang
vương tức giận cho chôn riêng hai nơi. Chẳng bao lâu có hai cây liễu mọc ở hai ngôi
mộ, rễ và cành liền nhau. Rồi người đọc từ câu chuyện sinh động này liên tưởng đến
tâm trạng người chinh phụ nhớ thương chồng, so sánh với hình ảnh câu chuyện mà
hiểu được tình cảm của người vợ một lòng yêu thương chồng khi cả hai phải chịu cảnh
chia ly.

2.5.2. Tính hình tượng
25



×