Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

TRƯỜNG CA RUXLAN và LIUDMILA của a x PUSKN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.04 KB, 100 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Bộ môn Ngữ Văn
--------

---------

NGUYỄN NGỌC YẾN NHI
MSSV: 6086267

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn – Khoá 34(2008 – 2012)

Cán bộ hướng dẫn: Th.S TRẦN VĂN THỊNH


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Văn học hiện thực Nga thế kỷ XIX là một trong những nền văn học
phong phú và tiên tiến của nhân loại, là nền văn học đạt được những thành tựu
rực rỡ trong lịch sử phát triển nghệ thuật của thế giới cho tới bây giờ. Với tốc
độ phát triển phi thường và sức sống mãnh liệt, văn học Nga thế kỉ XIX đã sáng
chói với những tên tuổi lớn như Puskin, Đôxtôiepki, Tuôcghenhep, Sêkhôp,
Bêlinxki…Những sáng tác của họ đã góp phần đưa văn học Nga đứng vững bên
cạnh nền văn chương lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn học khác trên thế
giới.
Yêu mến nền văn học Nga và đặc biệt là đại thi hào Puskin nên chúng tôi
đã chọn trường ca Ruxlan và Liudmila cho đề tài luận văn. Chúng tôi chọn đề tài
này cũng bởi một số lí do sau đây:
Thứ nhất : Nếu như Đôxtôiepki được xem là một nhà văn đặc biệt của văn
học Nga thì đại thi hào Puskin được mệnh danh là “ mặt trời của thi ca Nga” , là


“khởi đầu của mọi khởi đầu” (M.Gorki). Trong sự phát triển của văn học Nga,
Puskin đóng một vai trò quan trọng. Thời kì 1815 – 1825, văn học Nga có sự nổi
bật về văn học đó là sự xuất hiện của bản trường ca Ruxlan và Liudmila (1820)
và một số trường ca Phương Nam khác như : Người tù Capca (1820-1821), Anh
em kẻ cướp (1821-1822), Lệ đài Bakhơsixarai(1822-1823)… Những sáng tác của
Puskin không những đánh dấu sự toàn thắng của chủ nghĩa lãng mạn trước chủ
nghĩa tình cảm và chủ nghĩa cổ điển nói chung, mà còn đánh dấu sự thắng lợi của
dòng văn học lãng mạn tích cực trước dòng văn học tiêu cực.


Thứ hai: Các phẩm trường ca của Puskin nói chung và trường ca Ruxlan
và Liudmila nói riêng, tuy được viết theo phương pháp lãng mạn những vẫn có
sự xuất hiện của yếu tố hiện thực. Đó là sự kết hợp thành công của thi sĩ. Trong
trường ca này, cảm hứng chủ đạo của Puskin là ngợi ca chính nghĩa, tình yêu sắt
son chung thủy, là tiếng nói tự do cho tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột. Do đó,
Puskin trở thành đại diện cho khuynh hướng lãng mạn cách mạng. Sự nghiệp của
ông gắn liền với toàn bộ nền văn học Nga, góp phần đưa văn học Nga đến đỉnh
cao của sự phát triển.
Thứ ba: Thể loại trường ca trong toàn bộ sáng tác của Puskin chiếm một vị
trí quan trọng. Ông có 12 bản trường ca đã hoàn thành và 12 bản trường ca bỏ dở.
Có thể nói Puskin đã viết trường ca trên suốt con đường thơ, viết liên tục và song
song với các thể loại khác, kiên trì tìm tòi, thể nghiệm. Và điều quan trọng nhất là,
qua bản trường ca Ruxlan và Liudmila, lần đầu tiên Puskin đã đưa vào bản trường
ca của mình : “ những con người chứ không phải những cái bóng” [5, tr.73] . Đó
là những con người sống thật, yêu thương, vui buồn, mong nhớ, căm giận, những
con người của cuộc sống trần tục, không xa lạ với hiện thực và mang sắc thái riêng
biệt.
Thứ tư: Bản trường ca lãng mạn Ruxlan và Liudmila là bản trường ca lãng
mạn đầu tiên của A. Puskin. Nó ra đời được sự hoan nghênh và bị chê trách từ hai
phái bảo thủ chính vì đã khẳng định những nguyên tác sáng tác mới, vượt ra khỏi

những công thức khuôn mẫu không còn thích hợp của chủ nghĩa cổ điển, khác hẳn
với những bản trường ca lãng mạn u buồn đương thời. Puskin đã táo bạo đưa vào
bản trường ca cái anh hùng và cái bình thường, cái cao cả và cái đáng cười, chất
trữ tình và chất tự sự, kết hợp ngôn ngữ cao và thấp. Mặc dù, có người biến ưu
điểm trường ca thành khuyết điểm như sử sụng từ ngữ nôm na nơi phố xá, nhịp
điệu dân quê, chất liệu của văn học dân gian…nhưng Ruxlan và Liudmila đã “hữu
xạ tự nhiên hương” báo hiệu thời kì mới trong nền văn học Nga.


Puskin – nhà thơ Nga vĩ đại, niềm tự hào của nền văn học Nga nói riêng
và nhân loại nói chung. Ông đã tiếp thu những tinh hoa của văn học truyền thống,
phát triển toàn diện và hoàn thiện nó. Ông đã nâng nó lên một trình độ cao hơn,
mở đầu cho một nền văn học tiên tiến và hoàn mĩ.
Với đề tài luận văn trường ca Ruxlan và Liudmila, chúng tôi viết vì sự say
mê yêu thích của mình và sẽ cố gắng hoàn thành tốt vấn đề đặt ra. Đồng thời qua
đó, chúng tôi sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm nghiên cứu văn học và mở mang
kiến thức, làm hành trang cho việc học tập và công việc sau này. Thông qua đề tài,
chúng tôi có thể trình bày những hiểu biết, ý kiến cùng quan điểm của mình về vấn
đề này.

2.Lịch sử vấn đề
Puskin – đại thi hào của nước Nga, niềm tự hào của mỗi người Nga nói
riêng và nhân loại nói chung, là đại diện xứng đáng nhất, toàn vẹn nhất cho nền
văn học Nga, tổng kể sự phát triển của quá khứ, mở ra một giai đoạn mới cao hơn,
chuẩn bị cho tương lai huy hoàng. Đúng như Biêlinxki nhận xét: “ Viết về Puskin
có nghĩa là viết về toàn bộ nền văn học Nga” . Thật sự thế, hầu như toàn bộc cuộc
đời Puskin đều dành cho việc đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ
XIX. Puskin cũng chính là người đưa ngôn ngữ Nga thoát khỏi sự vay mượn để
đạt đến sự giản dị, trong sáng, sinh động mang hơi thở và tâm hồn nước Nga.
Trong quyển lịch sử văn học Nga (Nhiều tác giả) đã viết: “Những đóng

góp cách tân của Puskin gây nên không ít phản ứng trong thế giới phê bình bảo
thủ, phản động. Họ xem tác phẩm như một gã mugich thô lỗ bước vào phòng
khách quý tộc, họ phản đối việc sử dụng tiếng nôm na, giản dị của người bình
dân, đánh giá những cố gắng của Puskin nhằm dân chủ hóa nội dung và hình
thức như một “tai họa” cho văn học, mặc dầu con đường đi mở ra triển vọng lớn
cho trường ca lãng mạn” [4; tr.62]. Việc trình bày vấn đề này nhằm khẳng định
đóng góp của Puskin trong quá trình phát triển của văn học lãng mạn nói chung và


trường ca lãng mạn nói riêng.
Để khẳng định vai trò của A.Puskin với chủ nghĩa lãng mạn, Đỗ Hồng
Chung đã nhấn mạnh trong quyển “Puskin nhà thơ Nga vĩ đại” : “Mặc cho giới
quý tộc chê bai, bản trường ca đã khẳng định âm điệu mới tích cực của chủ nghĩa
lãng mạn và mở đầu cho giai đoạn sáng tác mới của Puskin” [4; tr.24] Với bản
trường ca Ruxlan và Liudmila là bản trường ca đầu tiên của đại thi hào Puskin :
“Bản trường ca ra đời đánh đã đánh dấu sự thắng lợi toàn vẹn của phương pháp
sáng tác lãng mạn, đánh dấu sự cáo buộc chung của chủ nghĩa cổ điển và chủ
nghĩa tình cảm tồn tại trước đó.” [14; tr.34].
Khi Ruxlan và Liudmila xuất hiện, Biêlinxki đã thấy ngay tính chất mới
mẻ trong bản trường ca lãng mạn đầu tiên của Puskin: “…nền văn học Nga trước
đây chưa từng có một cái gì tương tự như Ruxlan và Liudmila. Trong thiên trường
ca này cái gì cũng mới, câu thơ cũng như chất thơ, cũng như giọng đùa bỡn, tính
chất thần tiên bên cạnh những bức tranh nghiêm túc”. [4; tr.72]
Đúng như nhận xét của nhà thơ Ấn Độ nổi tiếng Harivansha Rai Bachan
viết về Puskin năm 1964: “Puskin trước hết là một ca sĩ của dân tộc mình. Theo
nghĩa rộng nhất của từ này thì đây là nhà thơ dân tộc vĩ đại của nước Nga, cũng
như Shakespiere ở nước Anh, Dante ở nước Pháp, Goethe ở nước Đức, Calidasa
ở Ấn Độ. Tất cả những gì trong cuộc sống, trong ý nghĩ, tình cảm của người Nga,
nói một cách khác, trong tâm hồn người Nga – tất cả những cái đó được thể hiện
trong sáng tác của Puskin.” [2; tr.29]. Trong hơn 30 năm qua, các tác phẩm của

Puskin được nghiên cứu và giới thiệu nhiều ở Việt Nam. Puskin- người ca sĩ của
tự do cũng được yêu quí, trân trọng ở nước ta. Những bạn chưa thể đọc thơ bằng
tiếng Nga có thể đọc thơ dịch do các nhà thơ Hoàng Trung Thông, Xuân Diệu, Tế
Hanh, Nguyễn Xuân Sanh, Hồng Thanh Quang... Dịch ngôn ngữ thơ của Puskin
rất khó bởi vì nó giản dị, đẹp đẽ và dễ mất mát, hao hụt khi chuyển ngữ…Vì thế,
chúng tôi cũng muốn làm theo công việc của người đi trước trong việc nghiên cứu
sự nghiệp sáng tác cũng như tác phẩm của Puskin, nên chúng tôi chọn đề tài luận


văn trường ca Ruxlan và Liudmila – cũng là bản trường ca lãng mạn đầu tiên của
ông để nghiên cứu. Tuy nhiên, qua các tác giả đã nhận xét trên, một lần nữa có thể
khẳng định, hầu như ít ai đề cập đến đề tài chúng tôi nghiên cứu. Có chăng chỉ là
những lời nhận định mang tính khái quát chung, những đánh giá khi bàn về cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác của Puskin. Vì vậy, chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc tác
phẩm, trình bày hệ thống mạch lạc và rõ ràng về các vấn đề của tác phẩm mà các
tác giả trước còn bỏ ngỏ.

3. Mục đích yêu cầu
Luận văn thực hiện với đề tài Trường ca Ruxlan và Liudmila của
Alecxanđrơ Xecgâyevich Puskin. Vì thế trong tập luận văn này, chúng tôi tìm
hiểu khái quát văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của Puskin, và những đóng góp cũng như vai trò của ông trong nền văn học Nga.
Chúng tôi cũng tìm hiểu cơ sở lí luận thể loại trường ca và trường ca của Puskin
cũng như khái quát về tác phẩm để làm nền tảng phân tích rõ ràng nội dung và
nghệ thuật tác phẩm.
Về nội dung chúng tôi nghiên cứu vấn đề: trường ca Ruxlan và Liudmila là
đại diện cho tiếng nói tình yêu của nhân dân với nhiều cung bậc tình cảm đa dạng.
Nó còn là hiện thân cho khát vọng phản kháng, tiếng nói tự do của nhân dân bị áp
bức bóc lột với xã hội thối nát đương thời. Cuối cùng là vấn đề triết lý, ước mơ
công lí và đạo lí làm người trong tác phẩm.

Về nghệ thuật, chúng tôi vạch ra các biện pháp nghệ thuật : nghệ thuật khắc
họa nhân vật đa dạng và khắc họa cảnh thiên nhiên trong tác phẩm. Và cuối cùng
là sự thắm đượm màu sắc dân gian trong sáng và trữ tình với nội dung, mô-típ,
chất liệu của văn học dân gian.

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Do không có điều kiện tiếp xúc với bản gốc tiếng Nga, vì thế phần phân
tích và triển khai trong luận văn chủ yếu dựa trên những tư liệu dịch và vài tác


phẩm nghiên cứu về A.X.Puskin có ở Việt Nam. Chúng tôi nghiên cứu Trường ca
Ruxlan và Liudmila dựa trên bản dịch Việt Thương, một dịch giả khá nổi tiếng ở
Việt Nam. Qua đó giới thiệu về tác giả Puskin nhưng quan trọng nhất là tập trung
nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của Trường ca Ruxlan và Liudmila.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đè tài , chúng tôi sử dụng nhiều thao tác khác nhau:
Thứ nhất: Thao tác thống kê nhằm tập hợp các tài liệu, văn bản có liên quan
đến đề tài nhằm tham khảo thêm.
Thứ hai: Phương pháp tìm hiểu về bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, về tiểu sử
và con đường sáng tác giả, và về tác phẩm.
Thứ ba: Sử dụng kết hợp hai hai phương pháp phân tích và tổng hợp để đi
sâu nghiên cứu vấn đề. Đồng thời vận dụng những thao tác nghị luận: giải thích,
chứng minh, bình luận và so sánh để làm nổi bật vấn đề. Cuối cùng dùng phương
pháp diễn dịch và quy nạp để trình bày kết quả thu được thông qua quá trình
nghiên cứu.

PHẦN NỘI DUNG



CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI ĐẠI,
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1.Khái quát nền văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX
Văn học Nga thế kỉ XIX là một trong những nền văn học phong phú, tiên
tiến nhất của nhân loại và là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của thế giới.
Nó phát triển đỉnh cao với những ngôi sao sáng chói như Puskin, Đôxtôiepki,
Tuôcghênhep, Sêkhôp, Bêlinxki…Những tác phẩm của các gia này là những mẫu
mực, tinh hoa của nền nghệ thuật hiện đạivà có ảnh hưởng lâu dài, sâu rộng đến
các nền văn học khác trên thế giới. Nhà văn Macxim Gorki cũng đã nói về văn học
Nga nửa đầu thế kỉ XIX như sau: “Trong lịch sử phát triển của nền văn học Châu
Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì lạ; tôi sẽ không phóng
đại sự thật khi nói rằng không có một nền văn học phương Tây nào ra đời với một
khí thế mạnh mẽ, với một tốc độ thần kì trong một ánh hào quang rực rỡ của tài
năng như nề văn học của ta. Ở Châu Âu không có ai sáng tác được những cuốn
sách lớn được cả thế giới hâm mộ như thế, và không có ai sáng tạo được cái đẹp
thần diệu như vậy trong những hoàn cảnh gian nan không sao tả xiết. Đó là kết
luận không thể bác bỏ được rút ra từ việc so sánh lịch sử các nền văn học phương
Tây với lịch sử nền văn học của ta, không có nơi nào mà chỉ trong non một thế kỉ
đã hiện lên cả một vầng sao rực rỡ của những tên tuổi vĩ đại như ở Nga và cũng
không nơi nào đông đảo những nhà văn tuẫn đạo như ở nước ta…” [6, tr.30]. Với
một sức sống mãnh liệt và một tốc độ phát triển phi thường, văn học Nga thế kỉ
XIX đã khẳng định có một nền văn học Nga mà cả nhân loại có thể tự hào.
Văn học Nga thế kỉ XIX luôn luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
nông nô Nga. Văn học Nga thời kì này đã đuổi kịp và bắt đầu phát huy ảnh hưởng
tốt đẹp và lâu bền đến văn học thế giới. Nước Nga thế kỉ XIX đã ghi thêm nhiều
tên tuổi trên tấm bia tưởng niệm các nhà văn hi sinh “vì sự nghiệp thiêng liêng” :


Rưlêep chết dưới giá treo cổ ; Gribôeđốp, Puskin, Lecmôntốp bị đày ải và sát hại
… Nhưng vượt lên trên tất cả các nhà thơ, nhà văn Nga vẫn kiên trì đấu tranh cho

những tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa, đưa cái nhìn tràn đầy hi vọng và
những ước mơ tươi sáng đến cho nhân dân và đất nước Nga.
Thế hệ sau lại có sự tiếp bước của thế hệ trước. Tuy vậy, mỗi người lại để
lại một dấu ấn riêng, không ai lặp lại người khác và cũng không ai lặp lại chính
mình để đưa nền văn học phát triển đi lên. Suốt cả thế kỉ, các thế hệ tiếp sức nhau
suy nghĩ, tìm đường giải phóng Nga.
Chủ nghĩa cổ điển xuất hiện từ giữa thế kỉ XVIII là một khuynh hướng văn
học tiến bộ, mạnh mẽ và tràn đầy sức sống. Tuy nhiên trong hoàn cảnh mới, chủ
nghĩa cổ điển không còn thích hợp. Năm 1816, “Hội tọa đàm” tan vỡ, chủ nghĩa
cổ điển đi đến kết thúc, nền văn học Nga sắp bước sang một giai đọan mới.
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tình cảm bắt đầu phát triển ở
Nga và nó dần dần thay thế chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa tình cảm mang trong
mình những ưu điểm như : quan tâm đến quyền sống của cá nhân con người, tình
yêu, tình bạn, niềm say mê thiên nhiên đẹp đẽ, ngợi ca nông thôn yên ả, thanh
bình… Tuy nhiên, bên cạnh đó chủ nghĩa tình cảm còn mắc nhiều sai sót: quá thi
vị hóa nông thôn, tô điểm thực tại Nga đen tối, xóa mờ những quan hệ áp bức bóc
lột của địa chủ với nông dân,… Các nhà văn tình cảm chủ nghĩa quá quan tâm
đến tình cảm và đời sống riêng tư, tự hạn chế mình trong phạm vi nhỏ hẹp nên đã
trở nên xa lạ với đời sống hiện thực và cuộc đấu tranh hàng ngày của nhân dân .
Caramdin là đại diện tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa tình cảm , ông có những cải
cách về ngôn ngữ nhưng cải cách đó không thực tế, xa lạ với quần chúng nhân dân
mà gắn liền với thị hiếu của giới quý tộc ; cùng với ông có Đmitơriep…Cuối cùng
chủ nghĩa tình cảm cũng bị suy tàn nhưng đó là bước chuẩn bị tích cực cho sự ra
đời của chủ nghĩa lãng mạn.


Nửa sau thế kỉ XVIII dòng văn học châm biếm cũng hình thành và phát
triển mạnh mẽ với những tên tuổi như Nôvicôp, Phônvidin, Crưlôp. Đến đầu thế kỉ
XIX, cùng với hai dòng văn học là chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm đang
đấu tranh lẫn nhau, dòng văn học châm biếm không ngừng phát triển với tên tuổi

Crưlôp.
Chủ nghĩa lãng mạn ra đời một thời gian thì có sự phân hóa, khác với lãng
mạn của Bachiusốp và Giucôpxki, dòng lãng mạn mới mang tư tưởng tiến bộ
và tích cực hơn. A.Puskin giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của chủ
nghĩa lãng mạn Nga, ông cùng các nhà thơ Tháng Chạp nổ lực tìm tòi, cách tân,
giải quyết những nhiệm vụ luôn luôn mới do cuộc đấu tranh văn học đặt ra. Họ
là những người có công đối với dòng văn học lãng mạn cách mạng Nga. Các nhà
lãng mạn cách mạng đấu tranh cho một nền văn học nghệ thuật phục vụ xã hội, tác
phẩm của họ tràn đầy hai nguồn cảm hứng mãnh liệt là yêu tự do và phản kháng
xã hội. Các tác phẩm của họ đã vượt qua thế giới lãng mạn chủ quan của các nhà
thơ khác để tiếp cận với đời sống hiện thực, các thể loại ngày càng hướng đến thực
tế cuộc sống. Bên cạnh những đóng góp về nội dung, các nhà văn lãng mạn cách
mạng cũng có những đóng góp về giá trị trong việc tiếp tục cải cách và hoàn thiện
ngôn ngữ Nga. Các nhà thơ Tháng Chạp nổi bật : Raepxki, Rưlêep, Bextugiep…
Trường ca Ruxlan và Liudmila của A..Puskin được viết trong giai đoạn này
và là tác phẩm trường ca mở đầu cho dòng văn học lãng mạn tích cực Nga. Thông
qua trường ca, Puskin ngợi ca tình yêu chung thủy và tinh thần đề cao tự do của
tầng lớp nhân dân bị áp bức; đồng thời tố cáo sự bất công trong xã hội thối nát
đương thời.

1.2 Sơ lược tiểu sử và con đường sáng tác của A.Puskin
1.2.1. Thời thơ ấu
Alecxanđrơ Xecgâyevich Puskin sinh ngày 6-6-1799 tại Moscow trong

một gia đình dòng dõi quý tộc lâu đời và có truyền thống văn chương. Gia đình


Puskin thuộc dòng dõi quý tộc đã sa sút. Cha ông là một người say mê văn học,
thích sân kháu; ông đã từng làm thơ bẳng tiếng Pháp. Chú của Puskin cúng là một
nhà thơ tên tuổi lúc bấy giờ. Các nhà thơ, nhà văn lớn lúc bấy giờ như Karamdin,

Đơ-mi-tơ-ri-ép, Giu-cốp-xki thường đến thảo luận các vấn đề văn học tại nhà bố
mẹ Puskin. Thi sĩ đã sớm được tiếp xúc với không khí văn học. Mới 10 tuổi đầu,
Puskin đã đọc nhiều tác phẩm văn học Nga, văn học các nước Tây Âu, thuộc hàng
loạt thơ Pháp và làm quen với văn học dân gian Nga phong phú qua A-ri-na Rô-điô-nôp-na và người nô bộc Ni-ki-tin Cô-dơ-lôp.

1.2.2 Thời kì học ở trường Li-xê (1811- 1817)
Năm 1811, Puskin vào học ở trường Li-xê. Ở đây, thi sĩ được tiếp xúc với
những thầy giáo,bạn bè có tư tưởng tự do. Do đó tư tưởng tự do đã bắt rễ ngay vào
tâm hồn nhạy cảm của Puskin. Hơn thế nữa, năm 1812, cuộc chiến tranh chống
Na-pô-lê-ông thắng lợi đã làm cho Puskin thêm tự hào về sức mạnh của nhân dân
Nga. Thế giới quan của Puskin hình thành gắn liền với tư tưởng tự do của thời
đại,với tinh thần yêu nước và niềm tự hào của nhân dân Nga chiến thắng.
Thời kì này Puskin bắt đầu sáng tác liên tục. Bài thơ xưa nhất của Puskin
còn lại đến nay là “ Gửi Nátasa” (1813). Năm 1814, tờ “ Người truyền tin Châu
Âu ” đăng bài “Gửi bạn thơ” của Puskin. Đây là bài thơ của Puskin được đăng
báo, thơ trữ tình của Puskin thời kì này thường ngợi ca ngợi tình bạn, tình yêu,
nỗi hân hoan trong cuộc sống. Trong các bài thơ trữ tình, Puskin cũng đã thể hiện
chủ đề văn hóa nghệ thuật Gửi Giu-cốp-xki, Thị trấn,…. Ngay trong thời kì này,
Puskin đã có khuynh hướng vượt ra ngoài phạm vi nhà trường, đề cập đến những
đề tài có ý nghĩa xã hội. Do đó trong hàng loạt bài thơ, chủ đề “Tổ quốc”, “Tự
do” xuất hiện. Bài thơ “Hồi ức hoàng thôn” là một chứng cớ để chúng ta thấy rõ
tinh thần yêu nước của Puskin. Nhiệt tình tự do, chống chế độ độc tài thể hiện nổi
bật nhất trong bài “Gửi Li-xi-nhi”.


Ngoài thơ trữ tình, Puskin còn chú ý đến các thể loại khác như trường ca
Tu sĩ (1813), Bôva (1814), kịch Bước vào xã hội thượng lưu như thế, Nhà hiền
triết…
Nhìn chung, nội dung sáng tác của Puskin thời kì học Li-xê tương đối
phong phú. Về mặt nghệ thuật thì trình độ còn non, chịu ảnh hưởng của các nhà

thơ lớp đàn anh. Tuy nhiên có nhiều dấu hiệu chứng tỏ rằng Puskin sẽ còn vươn
cao hơn, đi xa hơn các bậc nghệ sĩ tiền bối của mình.

1.2.3 Thời kì Pê-téc-bua (1817- 1820)
Năm 1817, Puskin tốt nghiệp trường Li-xê. Sau đó thi sĩ được bổ nhiệm
vào cơ quan ngoại giao. Thi sĩ bắt đầu sống cuộc sống của một thanh niên quý tộc
thực thụ; nhưng càng ngày thi sĩ càng chán xã hội thượng lưu, nơi mà theo thi sĩ
thì “ khôn tức là im lặng một cách nô lệ ” , nơi có “ những con tim lạnh lùng ” và
“ tất cả đều ngu ngốc một giuộc ”.
Thời kì này chính phủ Nga hoàng tỏ ra phản động hơn trước. Bên trong,
nó đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa nông dân, bên ngoài cấu kết với bọn phản
động quốc tế dìm các cuộc cách mạng vào bể máu. Tuy nhiên phong trào cách
mạng ở các nước phương Tây vẫn lên mạnh ( Tây Ban Nha ). Ở Nga các tổ chức
như “ Liên minh cứu quốc ”(1816), “ Liên minh hạnh Phúc ”(1818) ra đời và phát
triển. Giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng giải phóng ở Nga do những người
quý tộc tiến bộ lãnh đạo thực sự bắt đầu.
Do liên hệ mật thiết với những nhà hoạt động cách mạng, làm bạn với
những thanh niên có tư tưỏng tự do, lập trường chính trị và văn học của Puskin
được xác định. Đó là lập trường của những chiến sĩ đấu tranh cho một nền văn học
nghệ thuật Nga tiến bộ chống lại các nhà văn phản động, bảo thủ.
Giờ đây, sáng tác của Puskin đã đề cập đến những chủ đề xã hội lớn lao.
Thi sĩ đã viết hàng loạt bài thơ nói lên tư tưởng, tình cảm của tầng lớp tiến bộ nhất
của nước Nga lúc bấy giờ như Tự do(1817), Gửi Sa-đa-ép(1818), Nôen(1818),


Làng quê (1819)…
Năm 1820, tác phẩm lớn đầu tiên của Puskin ra đời, đó là bản trường ca
Ruxlan và Liudmila. Trường ca bắt đầu viết từ 1817, lúc thi sĩ sắp ra trường. Bản
trường ca nạy đã nâng địa vị Puskin lên ngang hàng với các nhà thơ có tên tuổi
bấy giờ. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Giu-cốp-xki, nhà thơ bậc thầy thời đó,

sau khi đọc bản trường ca, đã đề vào bức ảnh của mình gửi Puskin “ thầy chiến
bại tặng trò chiến thắng ’’.

1.2.4 Thời kì đi đày ở Phương Nam ( 1820- 1824 )
Năm 1820, Puskin bị Nga hoàng đày xuống phương Nam vì những bài thơ
nói lên tinh thần tự do và chống đối chế độ nông nô. Ở miền Nam, khoảng 18201821, các tổ chức cách mạng hoạt động mạnh. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
ở Hy Lạp (gần miền Nam nước Nga) đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng của Puskin.
Tinh thần yêu tự do, yêu nước vốn có của thi sĩ lại được thể hiện trong hàng loạt
bài thơ trữ tình: Gửi Ô-vít (1821), Người tù (1821), Con chim nhỏ (1818). Puskin
ca ngợi những chiến sĩ đấu tranh cho tự do, những người khởi nghĩa Hy Lạp:
Cô nàng Hy Lạp thủy chung (1821), ca ngợi chiến tranh giải phóng: Chiến tranh
(1821), ca ngợi việc dùng bạo lực để đấu tranh chống bạo lực: Chiếc dao găm
(1821).
Có thể nói rằng lúc này Puskin đã thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ
điển. Bài ca Vầng thái dương đã tắt (1820) được xem như bài thơ mở đầu thời kì
lãng mạn của thi sĩ.
Song song với thơ trữ tình, từ 1820 trở đi Puskin viết hàng loạt trường ca:
Người tù Cáp-ca (1820-1821), Đài phun nước Bác-khơ-si-xa-rai (1820-1821),
Anh em kẻ cướp (1821-1822). Đó là trào lưu lãng mạn cách mạng thể hiện những
quan niệm, tình cảm của một tầng lớp xã hội tiến bộ, thể hiện ý thức cách mạng
của thanh niên quý tộc mà những phần tử tích cực nhất của họ là những nhà tháng
Chạp tương lai.


Từ 1823 trở đi phong trào cách mạng ở Tây Âu lần lượt thất bại, một số tổ
chức cách mạng ở miền Nam bị vỡ, lãnh tụ V.P.Rai-ép-xki bị bắt. Tất đó những
sự kiện đó là đòn nặng nề giáng vào tính chất lãng mạn chính trị của Puskin và hy
vọng thắng lợi nhanh chóng của phong trào giải phóng dân tộc lúc đó. Thế giới
quan lãng mạn của Puskin bị khủng hoảng. Thi sĩ cố nhận thức lại thực tế một
cách tỉnh táo để thấy đúng bản chất của nó hơn. Nhờ thế, tính nhân dân, tính lịch

sử trong sáng tác Puskin càng sâu sắc. Đó là một khâu quan trọng để Puskin dần
dần tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Puskin viết hàng loạt những bài thơ Người gieo
tự do, Quỷ sứ (1823), Câu chuyện của người bán sách với thi nhân, trường ca
Những người Xư-gan. Trong tác phẩm đó thi sĩ chế nhạo, phê phán những điểm cơ
bản trong thế giới quan lãng mạn của mình. Mặt khác, Puskin cũng thể hiện thực
tế bằng phương pháp mới hơn- Phương pháp hiện thực qua tiểu thuyết bằng thơtrung tâm sáng tác của Puskin- Epghênhi Ônhêghin (bắt đầu viết từ tháng 5-1823).

1.2.5 Thời kì bị đày lên phương Bắc (1824 – 1826)
Tháng 8-1824, Puskin bị đày lên phương Bắc ở xã Mi-khai-lốp-xcôi-ê
thuộc trại ấp của cha mình. Thi sĩ bị quản chế khá chặt chẽ. Sống xa bạn bè, cô
độc, thi sĩ phải gần gũi với vú nuôi A-ri-na Rô-đi-ô-nôp-na. Thi sĩ thường xuyên
liên hệ với nhân dân, tìm hiểu sáng tác, tinh thần của nhân dân. Những ngày phiên
chợ , Puskin thường ăn mặc áo quần nông dân đi nhảy múa, ghi chép các sáng tác
dân gian.
Nhờ gần gũi với nhân dân, Puskin đã thoát khỏi cơn khủng hoảng thế giới
quan trầm trọng của mình.
Năm 1825,trong sáng tác của Puskin có một bước ngoặt quan trọng. Thi sĩ
từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn, chuyển sang phương pháp hiện thực. Thơ ca của ông trở
thành phương tiện nhận thức thực tế.
Giờ đây, cuộc sống, con người, thiên nhiên được thi sĩ chú ý miêu tả. những
tác phẩm xuất sắc của Puskin trong thời kì này là những bài thơ nói về tình bạn,


tình yêu: 19-10 , Bức thư bị đốt , Gửi Kéc (1825), những bài thơ viết về đề tài
chính trị: An-đơ-rê Sê-nhi-ê … và các chương 3, 4 của tiểu thuyết thơ Ep-ghê-nhi
Ô-ghê-nhin.
Muồn hiểu biết thực tế đương thời một cách sâu sắc, Puskin nghiên cứu quá
khứ , tái hiện những giai đoạn quan trọng của lịch sử đấu tranh dân tộc. Vở bi kịch
lịch sử Bô-rit Gô-đu-nôp (1825)- bi kịch đầu tiên trong văn học hiện thực Nga ra
đời là vì thế. Như vậy, rõ ràng Puskin lại mở đầu một trào lưu văn học mới. Trào

lưu này từ những năm 40 trở đi đã trở thành trào lưu củ đạo của văn học Nga, trào
lưu hiện thực.

1.2.6 Sau cuộc khởi nghĩa tháng Chạp 1825
Trong khi Puskin đang sống cô đơn ở Mi-khai-lốp-xcôi-ê thì cuộc khởi
nghĩa nổ ra ở Pê-téc-bua đêm 14-12-1825. Cuộc nổi dậy bị dập tắt nhanh chóng.
Bắt đầu thời kì phản động gay gắt. Cách mạng thoái trào. Trong không khí ngột
ngạt đó, Puskin cảm thấy bất hạnh hơn ai hết. Nga hoàng ra sức mua chuộc, dọa
nạt thi sĩ, bọn văn sĩ phản động ra sức tấn công, vu khống ông, do đó có một thời
gian ngắn Puskin tỏ ra thất vọng.
Đó cũng là tâm tư chung của tầng lớp trí thức trong thời kì khủng bố gay
gắt dưới triều Ni-cô-lai I.
Hàng loạt bài thơ của Puskin thể hiện sự đấu tranh giữa nỗi đau buồn và
lòng tin vào cuộc sống. Tuy nhiên, lòng tin vào cuộc sống, vào lý tưởng cuối cùng
đã thắng : A-ri-ôn, Gửi đi Xibia (1827), Cây thuốc độc (1828).
Một chủ đề quan trọng khác được Puskin khai thác đó là chủ đề Nhà nước,
dân tộc Nga và các dân tộc khác trong nước Nga. Chủ đề này thể hiện rõ nhất
trong bản trường ca Pôn-ta-va (1828).


Nửa sau những năm 20 cũng là giai đoạn Puskin viết những chương chính
của tiểu thuyết Ép-ghê-nhi Ô-ghê-nhin (5,6,7,8) và bắt đầu chú ý đến văn xuôi
(truyện ngắn Người da đen của Piốt đại đế (1827).

1.2.7 Những năm cuối cùng ( Từ 1830 trở đi )
Giai đoạn cuối cùng trên bước đường sáng tác của Puskin có thể kể từ 1830
trở đi. Thời kì này trong cuộc sống xã hội cũng như đời tư của Puskin có nhiều
biến chuyển, có ảnh hưởng đến sáng tác của thi sĩ. Sau cuộc cách mạng tháng 71830 ở Pháp, phong trào cách mạng ở các nước Tây Âu lại bắt đầu phục hồi. Ở
Nga, các cuộc biến động nông dân lại lan tràn khắp mọi nơi.
Tháng 2-1831 Puskin thành lập gia đình. Thời kì trăng mật qua nhanh, khó

khăn của cuộc sống gia đình thường xuyên xảy đến. Trong một bức thư đề tháng
11-1833 thi sĩ viết : “ Tôi không có thì giờ rãnh; cuộc sống lạnh lùng, tự do cần
thiết cho một nhà văn cũng không có nốt. Tôi quay cuồng trong xã hội thượng lưu,
vợ tôi lại rất ăn diện- Tất cả những điều đó cần tiền. Đối với tôi, muốn kiếm ra
tiền phải thông qua lao động, mà lao động thì cần phải yên tĩnh ”. Mặc dầu vậy,
Puskin cũng cố gắng tận dụng hết thời gian sáng tác. Những vấn đề xã hội lại xuất
hiện thường xuyên trong tác phẩm của thi sĩ. Nhân dân, nông nô, cuộc sống và đấu
tranh của họ, ước mơ giải phóng là những chủ đề chính của Puskin.
So với thời kì trước thì giai đoạn này Puskin sáng tác thơ ít hơn ( trừ lúc ở
Bôn-đi-nô – mùa thu 1830 ). Mùa thu (1833), Tôi trở lại thăm (1835), Đài kỉ niệm
(1836) là những bài thơ xuất sắc trong giai đoạn này. Người kị sỹ đồng (1833), bản
trường ca nổi tiếng tiếp tục chủ dề Nhà nước và số phận con người nhỏ bé đã được
hoàn thành. Năm 1831, Puskin kết thúc tiểu thuyết Ép-ghê-nhi Ô-ghê-nhin.
Trong giai đoạn sáng tác cuối cùng này, Puskin chú ý nhiều đến kịch ( 4
kịch ngắn (1830), Rút-xan-ca (1833), Những màn từ thời hiệp sĩ (1835) và đặc biệt
là văn xuôi. Trong văn xuôi Puskin đề cập đến các tầng lớp nhân dân truyện ngắn
của ông Benkin, đến cuộc sống nông nô Lịch sử làng Gô-ri-u-khi-nô (1830), đến


cuộc đấu tranh của nông dân chống lại địa chủ Đu-bơ-rốp-xki (1833). Xuất sắc
nhất là quyển Người con gái viên đại úy (1836) mô tả cuộc khởi nghĩa nông dân
thực sự.
Từ 1830 trở đi, những âm hưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tác
của Puskin không còn nữa, xu thế hiện thưc đã trở thành tất yếu trong mọi lĩnh
vực sáng tác. Đây cũng là bước đi có tính chất nguyên tắc của toàn bộ nền văn học
tiến bộ Nga. Trong lúc Puskin tập trung trí lực vào việc sáng tác, tổ chức văn học
thì bọn quý tộc cùng Nga hoàng tìm đủ trăm phương nghìn kế để bức hại nhà thơ.
Chúng làm nhục Puskin bằng cách bố trí tên Pháp lưu vong Đăng-tét ve vãn vợ thi
sĩ. Sau đó phau tin để làm cho cuộc xung đột này trở nên gay gắt. Để bảo vệ gia
đình, trước dư luận xã hội. Puskin buộc phải đấu với tên Đăng-tét. Cuộc quyết đấu

xảy ra vào ngày 8-2-1837. Thi sĩ bị thượng ở bụng. Hai ngày sau, Puskin qua đời.
Thế là “ Mặt trời của nền thi ca Nga đã lặn”. Cái chết của Puskin đã làm cho tất cả
nước Nga tiến bộ đau buồn và phẫn nộ. Léc-môn-tốp đã nói lên nỗi đau buồn và
lòng phẫn nộ đó của nhân dân trong bài thơ nổi tiếng “Cái chết của nhà thơ ”. Cái
chết của Puskin chứng tỏ số phận đau thương của các nhà thơ, nhà văn Nga tiến
bộ dưới chế độ hà khắc của Ni-cô-lai I. Rư-lê-ép, Gơ-ri-bu-ê-đốp, Léc-môn-tốp và
hàng loạt nghệ sĩ khác là nạn nhân của xã hội tàn nhẫn đó.

1.3 Một số vấn đề về thể loại trường ca và trường ca Ruxlan và
Liudmila của A.Puskin
1.3.1 Về thể loại “trường ca”
Trường ca là thuật ngữ văn học chỉ các tác phẩm thơ có dung lượng lớn,
thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca cũng cũng thường để gọi các
tác phẩm sử thi cổ đại và trung đại, khuyết danh hoặc có tên của tác giả. Theo
Alexsanđer Nikolayevich Veselovski thì chúng được sợn bằng cách xâu chuỗi
các bài thơ sử thi và truyện kể, hoặc theo A.Hoysler thì nới rộng hoặc vài truyền
thuyết dân gian. Theo Albert Bates Lord và Milman Parry thì trường ca được soạn


bằng cách cải biên các cốt truyện xưa trong tiến trình tồn tại sáng tác dân gian
Nhìn tổng thể, ta có thể chia được một số thể loại của trường ca như: trường
ca anh hùng, trường ca giáo huấn, trường ca châm biếm, trường ca có cốt truyện
lãng mạn, trường ca manh tính kịch – trữ tình…Dần dần, trong trường ca các đề
tài cá nhân, triết lý, đạo đức được đặt lên hàng đầu . Các yếu tố kịch – trữ tình
được tăng cường, các truyền thống Jolklore được phát hiện và khai thác, tạo nên
những trường ca của thời đại tiền lãng mạn, như trường ca của Jame Macpherson,
Walter Scott. Về nội dung thì trường ca thể hiện sự quan tâm đến con người và
những tình cảm của nó với đủ các cung bậc, cũng tập trung miêu tả những mối
tình đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó, trường ca cũng tố cáo các thế lực phong
kiến đen tối và khẳng định quyền sống, quyền tự do của con người, như trường

ca Ruxlan và Liudmila của A.Puskin, trường ca Ác quỉ của Mikhail Juryevich
Lermontov…
Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của trường ca là thời đại của chủ nghĩa
lãng mạn với sự chú trọng đặc biệt đến thể loại của nhiều nhà thơ khắp thế giới.
Các tác phẩm chiếm vị trí cao của thời kỳ thường có tính triết lý xã hội hoặc
tượng trưng triết lý, như trường ca Kỵ sĩ đồng của A.Puskin, trường ca Ác quỉ của
Lermontov…
Đến nửa thế kỉ XIX, lúc thể loại đang suy thoái vẫn xuất hiện một số
trường ca lãng mạn xuất sắc như The Song of Hiawatha của Henry Wadsworth
Longfllow…Đồng thời, có sự xuất hiện của những trường ca theo xu hướng hiện
thực như Thần băng giá mũi đỏ, Ai được sống sung sướng ở Nga của tác giả
Nikolay Alecayevich Nekrasov.
Bước sang thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, trường ca thường phát
triển theo hướng trữ tình, tâm lí, triết lý: “Các cảm xúc riêng tư trong liên hệ với
những chấn động lịch sử, trong khi đó yếu tố cốt truyện được giảm xuống thậm chí
tương đối mờ nhòe” [13; tr.1867]. Và “dù không trở lại thờ hoàng kim như những


năm đầu thế kỉ XIX nhưng trường ca, với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình –
tự sự, hoàng tráng, cho phép kết hợp những chuyển động lớn, những cảm xúc trầm
sâu và những quan niệm lịch sử, vẫn chiếm vị trí nhất định trong thi ca thế giới”
[1; tr.365] và đây là thể loại mà nhà thơ lớn nào cũng muốn thử sức.

1.3.2 A.Puskin với thể loại trường ca
Puskin là tác giả của những bản trường ca nổi tiếng: Ruxlan và Liudmila
(1820) , Người tù Capca (1820-1821), Anh em kẻ cướp (1821-1822), Lệ đài
Bakhơsixarai(1822-1823), Đoàn người Sưgan (1824), Poontava (1828), Kỵ sĩ
đồng (1833)…Và nhiều bản trường ca khác, nhiều phác thảo, đề cương, nhiều
tác phẩm chưa hoàn thành. Puskin viết trường ca trên suốt cả đường thơ, viết liên
tục, viết song song với các thể loại khác, kiên trì tìm tòi, thể nghiệm. Mỗi bản

trường ca là một bước tiến mới, một sự kiện văn học gây nên những phản ứng
khen chê khác nhau trong dư luận, giúp nhà thơ nhìn lại công trình của mình, thừa
nhận những nhược điểm và cố gắng sáng tạo những tác phẩm mới hoàn mỹ hơn,
khẳng định những giá trị của thể loại trường ca. Khi Ruxlan và Liudmila xuất
hiện, V.G.Biêlinxki đã thấy ngay tính chất mới mẻ trong bản trường ca đầu tiên
của Puskin: “…nền văn học Nga trước đây chưa từng có một cái gì tương tự như
Ruxlan và Liudmila. Trong thiên trường ca này cái gì cũng mới, câu thơ cũng như
chất thơ, cũng như giọng đùa bỡn, tính chất thần tiên bên cạnh những bức tranh
nghiêm túc”. [5; tr.72]
Chùm trường ca Phương Nam của Puskin cũng gây nên nhiều ấn tượng cho
nhà phê bình: “Hình tượng hùng vĩ của dãy núi Capca với những người dân thiện
chiến của nó lần đầu tiên được tái hiện trong thơ ca Nga và thiên trường ca của
Puskin đã lần đầu tiên giới thiệu vùng Capca với xã hội Nga tuy nước Nga đã từ
lâu biết rõ vùng này về phương diện quân sự” [12; tr.17]. Biêlinxki nói: “Kể từ
đây, từ dưới ngòi bút nhẹ nhàng của Puskin, đối với người Nga, vùng Capca đã
trở thành một xứ sở thiêng liêng, không phải chỉ là xứ sở của một nền tự do phóng
khoáng mà còn là xứ sở của thi vị vô tận, xứ sở của sức sống dạt dào và của


những ước mơ táo bạo” [12; tr.17].
Tác phẩm của nhà thơ là sự phát minh nghệ thuật “chưa từng có”, “lần đầu
tiên” xuất hiện trong thơ ca Nga. Puskin đã khởi đầu một cách tốt đẹp và sẽ tiếp
tục một cách tốt đẹp.
Con đường trường ca của Puskin cùng hướng cùng chiều con đường thơ
của Puskin nói chung, con đường từ chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiện thực.
Ngay khi ở trường Li-xê nhà thơ trẻ đã có khuynh hướng mở rộng phạm vi sáng
tác, muốn bao quát rộng rãi đời sống muôn vẻ, muốn đi vào những thể loại lớn và
ngay từ khi đó Puskin đã viết trường ca. Trong thể loại này, Puskin không chịu gò
bó mình trong khuôn khổ truyền thống , quy phạm. Puskin mở rộng trường ca một
cách phóng khoáng, kết hợp với thơ những yếu tố của kịch, của truyện, kết hợp trữ

tình và hài hước, dựa trên phương thức tự sự, vận dụng âm thanh, nhịp điệu, hình
ảnh của thơ để thể hiện một nội dung lớn.
Cũng như trong kịch thơ và tiểu thuyết thơ, Puskin trong khi tiếp thu truyền
thống đã mạnh dạn đổi mới thể loại, đổi mới kết cấu, đổi mới ngôn ngữ. Với
Puskin đó là một hiện tượng có tính quy luật.
Nhà thơ khai thác kho tàng sáng tác dân gian phong phú đã quen thuộc
từ thời thơ ấu và tiếp tục sưu tầm nghiên cứu trong những năm “sống với nhân
dân”. Nhà thơ thu thập tài liệu ngay trong cuộc sống hàng ngày, “những hình
ảnh mới mẻ” ở bên ngoài địa bàn Pêtécbua, những câu chuyện có thực về “người
tù” về “anh em kẻ cướp”; lần theo dấu tích của “lệ đài” xưa, của truyền thuyết
cổ, “nhập” vào cuộc sống lịch sử của nước Nga thời Piốt Đại đế.
Sáng tạo thêm một bản trường ca mới thì các hình tượng nhân vật thêm
rõ nét, các chủ đề thêm sâu sắc, những biện pháp nghệ thuật thêm điêu luyện,
tác dụng truyền cảm thêm lớn lao. Trường ca Puskin lưu hành rộng rãi khắp phố
phường và làng sớm Nga , như Biêlinxki nhận xét: “Tất cả những người biết chữ
ở nước Nga đều đọc những bản trường ca này” [5; tr.73]. Và mọi người biết chữ


và không biết chữ thời đó cũng đã “xem” những bản trường ca này qua các bản
nhạc, các vũ điệu balê, các nhạc kịch opera của các nghệ sĩ thiên tài Nga.

1.3.3 Vài nét về trường ca Ruxlan và Liudmila
Tác phẩm có tính chất quá độ nối liền thời kì Pêtecbua với thời kì Phương
Nam là bản trường ca Ruxlan và Liudmila. Puskin có ý định viết bản trường ca
này ngay từ khi còn học ở trường và thật sự xây dựng tác phẩm trong ba năm
(1817-1820). Có lẽ ngoài cuốn tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin viết trong tám
năm thì không có tác phẩm nào lại chiếm nhiều thời gian và công sức của Puskin
như bản trường ca này. Đây là tác phẩm tự sự bằng thơ cỡ lớn đầu tiên của Puskin
gồm tới sáu ca khúc, không kể phần mở đầu và phần kết thúc. Ngày 20.3.1820
tác giả đọc cho Giucôpxki nghe và Giucôpxki đã trao bức chân dung với lời đề

tặng “Thầy chiến bại tặng trò chiến thắng”. Giucôpxki và nhiều nhà thơ lãng mạn
khác đều mong ước viết bản trường ca có tính chất dân tộc nhưng đã không thành
công. Chàng thanh niên Puskin hai mươi mốt tuổi đã viết được bàn trường ca như
thế trách gì nhà thơ bậc thầy không ngợi ca, tán thưởng. Nếu không có sự giúp đỡ,
khuyến khích của các nhà thơ lớp trước thì Puskin sẽ khó khăn bao nhiêu trong
công việc tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật.
Bản trường ca ra đời trong hoàn cảnh xã hội và văn học đặc biệt. Biến cố
của lịch sử như cuộc chiến tranh của nhân dân đã khiến nhà thơ tìm về cội nguồn
dân tộc, tìm về văn học dân gian xa xưa, khai thác chất liệu cho một bản trường
ca kiểu mới , lãng mạn chủ nghĩa, khác hẳn những bản trường ca anh hùng hoặc
hài hước cổ điển. Puskin sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt nhiều nguồn
chất liệu: những truyện cổ tích do bà nhũ mẫu kể lại, những tuyển tập bài hát
cổ, tác phẩm Bài ca về đạo quân Igo, tám tập đầu bộ Lịch sử quốc gia Nga của
Caramdin…Puskin không chỉ khai thác cốt truyện, hình tượng nhân vật, ngôn ngữ,
nhịp điệu như nhiều người đã làm mà quan trọng hơn nữa là nắm bắt “tinh thần
nhân dân” qua các bài ca.


1.3.4. Tóm tắt trường ca Ruxlan và Ludmila
Ruxlan và Liudmila viết trong gần ba năm (1817-1820) gồm sáu ca khúc,
lời đề tặng và lời bạt, là một bản trường ca đầy sức hấp dẫn.
Ca khúc thứ nhất:
Trong một đoạn ngắn mở đầu, người kể câu chuyện mô tả một cây sồi xanh
trên bờ biển và làm tài liệu cho một số yếu tố phổ biến trong văn học dân gian Nga
như mụ phù thủy Baba-Iaga độc ác sống trên căn nhà dựng bằng chân gà trong
khu rừng sâu thẳm và lão hoàng đế Casei giàu có, bất tử, bạo tàn . Đặc biệt nhất
là hình ảnh chú mèo thông thái biết kể chuyện bị xích vào cây sồi bằng xích vàng
và người kể chuyện nhớ lại một trong những câu chuyện của con mèo, cụ thể như
sau:
Câu chuyện mở đầu với một bữa tiệc của hoàng đế Vladimir để chúc mừng

cuộc hôn nhân của con gái út của ông, đó là công chúa Liudmila xinh đẹp và tráng
sĩ Ruxlan anh dũng. Trong số khách mời là ba đối thủ của Ruxlan đó là tráng sĩ
Rogdai, Pharlaph kiêu căng và Ratmir_ hãn vương trẻ tuổi xứ Khazar.
Trong đêm tân hôn của Ruxlan và Liudmila, tất cả mọi thứ đều hoàn hảo
nhưng lại xuất hiện một sự kiện kỳ lạ là sấm vang , đèn phụt tắt, khói bay, mọi thứ
rung lên và tối sầm lại. Sau đó, Ruxlan đã phát hiện cô dâu của mình đã biến mất
một cách bí ẩn.
Khi xét sử sự mất tích của Liudmila, Vladimir nổi cơn thịnh nộ và bãi bỏ
cuộc hôn nhân, đồng thời hứa gả Liudmila và tặng một nửa quốc gia cho bất cứ ai
đem cô trở về an toàn. Ruxlan và ba đối thủ của mình liền lên lưng ngựa và đi cứu
nàng Liudmila xinh đẹp.
Ruxlan gặp một ông già Phần Lan (đạo sĩ) trong một hang động, ông nói
với chàng rằng Liudmila đã bị bắt cóc bởi tên phù thủy Trernomor. Sau đó ông đã
kể câu chuyện thời trẻ của mình với cô gái Naina xinh đẹp_người đã không chấp


nhận tình yêu của mình. Để giành được tình yêu của mình, ông đã trở thành một
chiến binh đầy vinh quang. Nhưng Naina vẫn từ chối ông và thế là ông học phép
thuật để phù phép Naina yêu mình. Nhưng cuối cùng chỉ để nhận ra rằng Naina đã
trở thành một mụ phù thủy già nua, nhiều tuổi và mang nặng lòng thù hận trong
người.
Ca khúc thứ hai:
Rogdai quyết định thay vì cứu Liudmila, thì hắn tìm và giết chết Ruxlan
nhưng lại tấn công nhằm Pharlaph. Sau khi thắng Pharlaph thì một mụ phù thủy
già xuất hiện và khuyên Rogdai hãy đi về hướng Bắc. Còn tên Pharlaph đang ẩn
nấp trong hố thì nghe tiếng mụ kêu hắn hãy quay trở lại Kiev để chờ đợi sự vinh
quang và thời cơ của mình.
Tiếp đó, một kỵ sĩ hung hăng đã thách thức Ruxlan và câu chuyện đã
chuyển sang nơi Luidmila bị giam cầm.
Khi tỉnh dậy, Liudmila thấy mình trong căn phòng xa hoa với ba cô gái sẵn

sàng đáp ứng mọi mong muốn của nàng. Sau khi mở cửa phòng, nàng phát hiện
ra một khu vườn kỳ diệu và tuyệt đẹp. Tuy nhiên, Liudmila lại cảm thấy vô cùng
trống rỗng khi không có Ruxlan bên cạnh.
Liudmila hãi hùng và thét lớn khi nàng thấy gã lùn lưng gù với bộ râu
trắng bạc tiếp cận mình, khiến gã hoảng sợ đạp phải bộ râu của mình và ngã nhoài
xuống đất. Sau đó, đoàn người A-rập mang gã đi và bỏ lại chiếc mũ của gã ,
Liudmila đã giữ chiếc mũ đó. Còn về phần Ruxlan, chàng đã đánh bại kẻ thách
thức là Rogday và đối thủ đã bị chết đuối dưới dòng sông Dniepr.
Ca khúc thứ ba:
Trernomor được một con rắn có cánh màu đen viếng thăm và hóa ra đó là
mụ phù thủy Naina. Sau đó, cả hai liên minh nhau để đánh bại Ruxlan và các dũng
sĩ. Trernomor quyết tâm đến chỗ Liudmila nhưng lại không thể nào tìm ra nàng.


Còn về phần Liudmila, nhờ có chiếc mũ tàng hình của lão phù thủy
Trernomor mà nàng có thể biến mất và xuất hiện trở lại theo ý muốn bằng cách đổi
vị trí của nó trên đầu.
Còn Ruxlan khi đi qua khu rừng rậm mơ màng, chàng thấy mình ở giữa
một chiến trường hoang vắng, nằm rải rác với xương, ngựa chết và các di tích
chiến tranh…Chàng bỗng thở dài và thương tiếc cho số phận của chính mình, để
rồi nhận ra đó là cơ hội cứu mình. Chàng tìm được cho mình chiếc tù, mũ sắt, áo
giáp trong đống đổ nát, tuy nhiên lại không tìm được vũ khí vừa tay mình.
Tiếp tục cuộc hành trình tìm Liudmila, Ruxlan nhận thấy con đường của
mình bị chặn bởi một quả đồi kỳ dị đang thở khò khè. Khi tới gần, chàng nhận
thấy đó là đầu lâu của gã khổng lồ đang say ngủ . Chàng đánh thức cái đầu khiến
hắn tức giận và chế nhạo chàng. Chàng tấn công vào lưỡi, vào má của hắn và tìm
thấy được thanh gươm thần. Sau đó, chàng định giết chết đầu lâu bằng lưỡi gươm
thần thì hắn đã tha thiết van xin chàng tha mạng .
Đầu lâu đã kể câu chuyện của mình: ngày xưa, hắn ta đã từng là một hiệp sĩ
hùng mạnh và thật thà, là anh trai của Trernomor_tên phù thủy độc ác và hay ghen

tỵ. Trernomor nói với hắn ta là phải bảo vệ thanh gươm thần vì nó có sức mạnh
giết chết cả hai bằng cách cắt bộ râu của Trernomor và chặt đầu hắn. Sau đó, cả
hai đi tìm thanh gươm và tranh chấp khi thấy nó. Trernomor nói dối gã khổng lồ
là cả hai nằm xuống đất để thanh gươm sẽ thuộc về người nghe thấy âm thanh đầu
tiên. Sau đó, Trernomor đã dùng thanh gươm thần cắt đứt đầu hắn và phù phép
linh hồn hắn vào cái đầu lâu để canh giữ thanh gươm thần. Sau đó, đầu lâu thể
hiện sự biết ơn với Ruxlan nếu chàng dùng thanh gươm thần giết chết Trernomor.
Ca khúc thứ tư:
Hãn vương Ratmir bị gián đoạn cuộc hành trình tìm Liudmila bởi sự vẫy
gọi của cô gái trẻ vào một tòa lâu đài. Sau đó, Ratmir đã sớm lãng quên Liudmila
để sống trong lâu đài với sự xa hoa đầy những buổi yến tiệc và mỹ nữ.


Về phần Ruxlan, chàng vẫn giữ vững lòng chung thủy và không ngại gian
khổ đi tìm Liudmila.
Nhờ có mũ tàng hình mà không ai tìm được Liudmila và đôi khi nàng cũng
hiện ra để chọc tức những tên tay sai của gã phù thủy.
Tên phù thủy Trernomor quyết tâm dùng mưu kế để bắt Liudmila. Hắn ta
biến mưu mẹo đã biến thành hình bóng của Ruxlan lúc bị thương để dụ Liudmila
xuất hiện và bắt nàng. Sau khi bắt được Liudmila, Trernomor lại bị tiếng tù vang
lên cản trở. Hắn vội lấy chiếc mũ tàng hình đội lên đầu Liudmila và hất râu lên vai
bay đi.
Ca khúc thứ năm:
Ruxlan và Trernomor chiến đấu với nhau , gã phù thủy đầy gian kế
khoa ngọn chùy khủng khiếp bay trên không trung nhưng Ruxlan đã nhanh chóng
chiếm ưu thế và khiến gã ngã nhào xuống tuyết. Chàng túm lấy bộ râu của
Trernomor và cùng hắn bay trên không trung hai ngày liền. Mặc cho mọi lời dụ dỗ
ngon ngọt của gã phù thủy, Ruxlan vẫn không lay động buông gã ra. Đến ngày thứ
ba, khi hết chịu đựng nổi, Trernomor van xin Ruxlan tha mạng cho mình. Hắn bay
trở về nhà và Ruxlan đã cắt phăng bộ râu (cũng là sức mạnh) của gã Trernomor ,

để buộc vào đỉnh đầu chiếc mũ trụ chiến binh. Sau đó, chàng lao vào cung điện để
tìm kiếm người vợ yêu dấu nhưng lại không tìm thấy nàng , mất bình tĩnh chàng ra
khu vườn và vung kiếm khắp nơi phá nát nó. Nhưng chàng nào biết công chúa
Liudmila đang ngủ say và đã được đội chiếc mũ tàng hình nên chàng không thể
tìm thấy nàng. Trong lúc vung kiếm trong không trung, chàng vô tình làm rơi
chiếc mũ tàng hình khỏi đầu Liudmila. Ruxlan mừng rỡ và hạnh phúc khi nhìn
thấy người vợ yêu dấu của mình đang say ngủ và bị nhốt trong tấm lưới bịt bùng,
chàng xé lưới và ôm chặt Liudmila vào lòng , chàng bỗng nghe tiếng nói của ông
lão Phần Lan nói rằng: chàng hãy quay trở về Kiev thì Liudmila sẽ tỉnh giấc ngủ.
Ruxlan ôm giữ Liudmila trên lưng ngựa , còn tên phù thủy Trernomor thì bị buộc


×