Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

PHÁT TRIỂN hệ THỐNG SIÊU THỊ TRÊN địa bàn TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.93 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ HÀ MI

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SIÊU THỊ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Đà Nẵng - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ HÀ MI

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SIÊU THỊ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số : 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. NINH THỊ THU THỦY

Đà Nẵng - Năm 2014



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
KH
NSNN
QLNN
TTTM
SXKD
UBND

Nghĩa tiếng việt
Khách hàng
Ngân sách nhà nước
Quản lý nhà nước
Trung tâm thương mại
Sản xuất kinh doanh
Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.............................................................3
MỤC LỤC........................................................................................................4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU....................................................................5
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.............................................................3
MỤC LỤC........................................................................................................4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU....................................................................5
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện nay đang trên đà phát triển và hội nhập với các nền kinh
tế trên thế giới với mục tiêu đặt ra là trở thành nước công nghiệp vào năm
2020. Thu nhập không ngừng nâng cao, đời sống người dân ngày càng phát
triển, nhu cầu cũng thay đổi khác đi, sức tiêu dùng hàng hoá ngày càng tăng.
Do đó các hoạt động, các hình thức tổ chức thương mại diễn ra sôi động hơn
và ngày càng mở rộng.
Loại hình kinh doanh siêu thị ra đời đã làm thay đổi diện mạo ngành bán
lẻ Việt Nam, mang lại cho người tiêu dùng thói quen mua sắm hiện đại góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, kinh tế có tiềm năng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, du
khách đến tham quan ngày càng nhiều. Các siêu thị lần lượt hình thành nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hàng ngày của người dân địa phương và
du khách từ mọi miền đất nước, bước đầu đã tạo nền móng cho sự phát triển hệ
thống siêu thị trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, siêu thị vẫn còn là một loại hình
kinh doanh mới mẻ đối với người dân Việt Nam nói chung và người dân
Quảng Ngãi nói riêng. Thêm vào đó, sự hình thành và phát triển hệ thống siêu
thị còn mang tính tự phát, thiếu sự thống nhất quản lý từ phía Nhà nước nên
hoạt động kinh doanh siêu thị chưa đạt được hiệu quả cao.
Như vậy phải làm thế nào để hệ thống siêu thị trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi phát triển cả về quy mô và chất lượng, mang lại hiệu quả kinh doanh thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân, và để cho nó trở thành hạt nhân có sức
lan tỏa ra trong hệ thống ngành thương mại của tỉnh nói riêng và đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh nói chung, tôi chọn đề tài “Phát triển hệ

thống siêu thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ kinh tế.


2
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ về mặt lý luận các nội dung liên quan đến phát triển của siêu thị.
- Đánh giá thực trạng quá trình hình thành, phát triển của hệ thống siêu

thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển hệ thống siêu

thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống siêu thị đã và đang phát triển tại tỉnh Quảng Ngãi

3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Một số vấn đề về phát triển hệ thống siêu thị tại một địa

phương
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng trong giai đoạn 2008-2012 và đề

xuất giải pháp có ý nghĩa đến năm 2020
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng phát triển
hệ thống siêu thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
- Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp trong việc phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hệ thống siêu thị.

5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn, gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển hệ thống siêu thị
Chương 2: Thực trạng phát triển siêu thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020.
6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu
Những năm qua, những vấn đề liên quan đến mô hình phát triển hệ
thống siêu thị luôn được các tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Có thể
nêu ra một số công trình và tài liệu chủ yếu như sau:


3
Quyết định số 1371/2004/QĐ_BTM ngày 29/4/2004 của Bộ trưởng Bộ
Thương mại về việc ban hành quy chế siêu thị, trung tâm thương mại
Văn bản số 0592/TM-TTTN của Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện
quyết định 1371/2004/QĐ-BTM về quy chế siêu thị, trung tâm thương mại,
Nguyễn Đình Chính, Môi trường kinh doanh siêu thị, Tạp chí
Marketing, số 12/2004.
Nghệ thuật kinh doanh bán lẻ hiện đại_Viện nghiên cứu thương
mại_Năm 2002, Nhà xuất bản Thống kê.
Định hướng phát triển ngành thương mại Quảng Ngãi đến năm
2020_Phòng Quản lý thương mại, Sở Công thương Quảng Ngãi
Nhóm ngành khoa học kinh tế Ban chấp hành Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, “Nghiên cứu mô hình siêu thị Metro & Carry. Bài học kinh
nghiệm và ứng dụng”, Công trình dự thi giải thưởng “Khoa học sinh
viên_EUREKA” _Năm học 2002-2003.
Đề tài:“Phát triển hệ thống siêu thị và TTTM trên địa bàn thành phố Hà
Nội” – tác giả: Nguyễn Thị Thu Huyền _Khóa luận tốt nghiệp_Trường Đại
học Thương mại. Đề tài đã nghiên cứu sâu về mặt lý luận siêu thị và các lý

luận phát triển hệ thống siêu thị, TTTM. Các dẫn chứng được đưa ra phân tích
rõ ràng, thuyết phục. Tác giả đã đánh giá được xu thế phát triển của hệ thống
siêu thị và trung tâm thương mại ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010, đồng thời
đánh giá sự thay đổi nhu cầu của tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy
nhiên, giải pháp còn chưa đi sát và giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng. Đặc
biệt là đối với loại hình siêu thị có những đặc trưng riêng của nó. Các giải pháp
từ phía QLNN còn chưa cụ thể.
Đề tài: “Giải pháp phát triển siêu thị tại tỉnh Bình Dương đến năm
2015”_Luận văn thạc sỹ kinh tế năm 2007_Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chính Minh. Đề tài đã hệ thống hóa những lý luận chung về siêu thị, đồng
thời khái quát được lịch sử phát triển của hệ thống siêu thị trên thế giới và quá
trình hình thành siêu thị ở Việt Nam. Luận văn đã phân tích được tình hình
hoạt động của các siêu thị tại tỉnh Bình Dương, và đưa ra được các nhận định
triển vọng về phát triển siêu thị tại tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, cở sở lý luận


4
của đề tài chưa nêu bật được các nội dung phát triển siêu thị để làm cơ sở phân
tích cho những phần sau.
Đề tài “Giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa bàn Hà Nội giai
đoạn 2006 – 2010.” – tác giả: Nguyễn Thị Nhung _ Luận văn thạc sỹ kinh
tế_Năm 2005 – trường Đại học Thương mại. Đề tài đã đưa ra những lý luận cơ
bản nhất về siêu thị và các khía cạnh liên quan. Đặc biệt đã tổng kết lại lịch sử
hình thành và phát triển của hệ thống siêu thị trên cả nước và địa bàn thành
phố Hà Nội. Thực trạng hệ thống siêu thị trên địa bàn Hà Nội cũng đã được
nghiên cứu rõ ràng với các dẫn chứng cụ thể. Tuy nhiên các giải pháp đưa ra
chưa tập trung nhiều về phía giải pháp Nhà nước.
Đề tài: “Giải pháp phát triển hệ thống siêu thị tỉnh Bình Định đến năm
2015” – Tác giả Phạm Tấn Thành_Luận văn thạc sỹ kinh tế_Đại học Đà
Nẵng_Năm 2011. Đề tài đã nghiên cứu về lý luận, thực trạng hệ thống siêu thị

trên địa bàn tỉnh Bình Định. Thực trạng mang tính khái quát và tổng hợp được
những ưu điểm, nhược điểm của các loại hình thương mại này. Các giải pháp
đưa ra toàn diện và mang tính thiết thực. Tuy nhiên, tác giả chưa nhìn nhận vấn
đề ở tầm vĩ mô, chưa nêu bật được các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển hệ
thống siêu thị, các chính sách quản lý của Nhà nước còn chưa được đưa ra cụ
thể để xem xét và đánh giá.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về giải pháp phát triển hệ thống siêu
thị ở trên còn một số hạn chế. Những lý luận và giải pháp còn chưa đầy đủ.
Đặc biệt đối với giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đã có nhiều thay đổi, việc
phát triển các loại hình kinh doanh hiện đại có rất nhiều vấn đề cần được
nghiên cứu và có giải pháp phù hợp trong tương lai. Luận văn “Phát triển hệ
thống siêu thị trên địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi” sẽ tập trung nghiên cứu nội
dung phát triển hệ thống siêu thị cả trên lý luận và thực tiễn, qua đó, đưa ra các
giải p háp hoàn thiện chính sách QLNN tại địa phương nhằm phát triển hệ
thống siêu thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.


5


6
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG SIÊU THỊ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SIÊU THỊ VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG SIÊU THỊ
1.1.1 Khái niệm và phân loại siêu thị
a.Khái niệm siêu thị, hệ thống siêu thị
“Siêu thị” là từ được dịch ra từ tiếng nước ngoài – “Supermarket” (tiếng

Anh) hay “Supermarché” (tiếng Pháp). Siêu thị ra đời lần đầu tiên vào năm
1930 tại Mỹ. Hiện nay, khái niệm siêu thị được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau.
Nước Mỹ coi siêu thị là “cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi
phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hóa bán ra lớn, đảm
bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các
chất tẩy rửa, và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa. [11, tr.630]
Siêu thị ở pháp được định nghĩa là “cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự
phục vụ, có diện tích từ 400 m 2 đến 2.500 m2 chủ yếu bán hàng thực phẩm và
vật dụng trong gia đình” (Marc Benoun, “Marketing” Savoir et savoir – faire”,
1991).
Tại Anh, siêu thị là cửa hàng bán thực phẩm, đồ uống và các loại hàng
hóa khác, siêu thị thường đặt tại thành phố dọc đường cao tốc trong khu buôn
bán, có diện tích khoảng từ 4.000 đến 25.0000 bộ vuông. (1 bộ = 0,305 mét).
Ở Việt Nam, Siêu thị là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tổng hợp
hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hóa phong phú, đa dạng, đảm
bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ
thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn
minh, thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”.
[1, tr.1].


7
Tóm lại, có thể có rất nhiều khái niệm khác nhau về siêu thị nhưng người
ta vẫn thấy những nét chung nhất cho phép phân biệt siêu thị với các dạng cửa
hàng bán lẻ khác. Đó là:
- Dạng của hàng bán lẻ
- Áp dụng phương thức bán hàng tự phục vụ
- Chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng phổ biến
Hệ thống siêu thị là khái niệm dùng để chỉ mạng lưới cửa hàng bán lẻ hợp

nhất áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ, các hàng hóa tiêu dùng phổ
biến của người dân. Hệ thống siêu thị được cấu thành bởi các siêu thị có liên
kết chặt chẽ và có những tương tác nhất định.
Theo đó, hệ thống siêu thị là một hệ thống mở, một tập hợp các siêu thị
lớn nhỏ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có những đặc trưng riêng biệt nhằm
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
b.Phân loại siêu thị
Có nhiều cách phân loại siêu thị dựa trên các tiêu thức khác nhau, và tùy
thuộc vào điều kiện của từng quốc gia. Tuy nhiên, có hai cách phân loại rất
phổ biến đó là phân loại theo quy mô và phân loại theo hàng hóa kinh doanh:
- Phân loại theo quy mô:
o Siêu thị nhỏ: Là cửa hàng bán lẻ nhỏ, chủ yếu bán hàng thực
phẩm theo phương thức tự phục vụ, hợp nhất, thường nằm giữa các khu dân cư
đô thị (ở Pháp quy định diện tích bán hàng từ 120 m 2 đến dưới 240 m2, ở Thái
Lan cũng quy định cụ thể diện tích mặt bằng cho các minimart….)
o Siêu thị vừa: Thường có quy mô và diện tích mặt bằng vừa phải,
hàng hóa dùng để phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Các siêu thị ở Pháp
thường có diện tích từ 400 – 2.500 m2, và các siêu thị ở Mỹ thường có diện
tích trung bình là 1.250 m2. Số lượng hàng hóa thường từ vài trăm đến 20.000
sản phẩm. Các siêu thị này thường được đặt ở các khu dân cư có đường giao
thông thuận tiện.
o Đại siêu thị: Được định nghĩa là cửa hàng thương mại bán lẻ khối
lượng lớn tại một địa điểm, dựa trên nguyên tắc bán hàng tự phục vụ và quy


8
mô lớn hơn nhiều sơ với siêu thị, thường nằm ở ngoại ô các thành phố lớn có
bãi đổ xe rộng. Đại siêu thị ở Anh là siêu cửa hàng với diện tích trên 50.000 bộ
vuông. Đại siêu thị ở Pháp và Hoa Kỳ có khi có diện tích lên đến 100.000 bộ
vuông. Danh mục hàng hóa có thể lên tới 50.000 sản phẩm.

- Phân loại siêu thị theo hàng hóa kinh doanh:
o Siêu thị chuyên doanh: Siêu thị chuyên doanh là siêu thị chỉ
chuyên bán một số chủng loại hàng hóa nhất định, tập hợp hàng hóa tuy hẹp
nhưng sâu, có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của người tiêu dùng. Ví dụ: Siêu
thị sách, siêu thị điện máy, siêu thị đồ chơi, siêu thị mỹ phẩm.
o Siêu thị tổng hợp: Siêu thị tổng hợp là siêu thị bán nhiều loại hàng
hóa cho nhiều loại khách hàng. Hiện nay, siêu thị tổng hợp đang ngày càng
thịnh hành, có những siêu thị có danh mục hàng hóa vừa rộng vừa sâu có thể
lên tới hàng chục ngàn loại sản phẩm. Tại những siêu thị tổng hợp lớn như vậy,
khách hàng có thể mua được hầu hết tất cả các loại hàng hóa đáp ứng đủ nhu
cầu phục vụ cho sinh hoạt và cuộc sống, mà không cần phải bước ra khỏi siêu
thị để đến một siêu thị khác.
1.1.2 Cấu trúc cơ bản về tổ chức và hoạt động của siêu thị
a.Tiêu chuẩn siêu thị
Siêu thị đạt chuẩn là các siêu thị có địa điểm phù hợp với quy hoạch
phát triển thương mại của địa phương, đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản
theo quy định tại Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ
Công Thương. Tiêu chuẩn siêu thị được phân làm 3 hạng [2, tr.3], cụ thể như
sau:
- Về diện tích, số lượng, tên hàng:

Bảng 1.1: Tiêu thức phân hạng siêu thị
Hạng

Loại hình

Tiêu chuẩn tối thiểu


9

Diện tích

Danh mục hàng hóa

(m2)
(mặt hàng)
Siêu thị kinh doanh tổng hợp
5.000
20.000
Hạng I
Siêu thị chuyên doanh
1.000
2.000
Siêu thị kinh doanh tổng hợp
2.000
10.000
Hạng II
Siêu thị chuyên doanh
500
1.000
Siêu thị kinh doanh tổng hợp
500
4.000
Hạng III
Siêu thị chuyên doanh
250
500
Nguồn: Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM ban hành quy chế siêu thị, TTTM
- Về quy mô, trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức:
o Đối với siêu thị hạng I:

Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ cao,
có thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các yêu cầu
phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho mọi đối
tượng khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho khách hàng
phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị;
Có hệ thống kho và các thiết bị kỹ thụât bảo quản, sơ chế, đóng gói,
bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh tiên tiến, hiện đại;
Tổ chức, bố trí hàng hoá theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn
minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận
tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống,
giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng
mạng, qua bưu điện, điện thoại.
o Đối với siêu thị hạng II:
Công trình kiến trúc được xây dựng vững chắc, có tính thẩm mỹ, có
thiết kế và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đảm bảo các yêu cầu phòng cháy
chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn và thuận tiện cho khách hàng; có bố trí
nơi trông xe và khu vệ sinh cho khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh
của Siêu thị;
Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán
và quản lý kinh doanh hiện đại;


10
Tổ chức, bố trí hàng hoá theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn
minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận
tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân; có các dịch vụ ăn uống,
giải trí, phục vụ người khuyết tật, phục vụ trẻ em, giao hàng tận nhà, bán hàng
qua bưu điện, điện thoại.
o Đối với siêu thị hạng III:
Công trình trúc được xây dựng vững chắc, có thiết kế và trang thiết bị

kỹ thuật đảm bảo các yêu cầu phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an
toàn, thuận tiện cho khách hàng; có bố trí nơi trông giữ xe và khu vệ sinh cho
khách hàng phù hợp với quy mô kinh doanh của Siêu thị;
Có kho và các thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng gói, bán hàng, thanh toán
và quản lý kinh doanh hiện đại;
Tổ chức, bố trí hàng hoá theo ngành hàng, nhóm hàng một cách văn
minh, khoa học để phục vụ khách hàng lựa chọn, mua sắm, thanh toán thuận
tiện, nhanh chóng; có nơi bảo quản hành lý cá nhân, có các dịch vụ phục vụ
người khuyết tật, giao hàng tận nhà.
b.Cấu trúc cơ bản về tổ chức và hoạt động của siêu thị
- Siêu thị độc lập: Đây là dạng siêu thị có quy mô nhỏ và vừa, thuộc
quyền sở hữu của một gia đình hay công ty nhỏ. Số lượng nhân viên, hàng hóa
ở mức trung bình hoặc thấp. Cấu trúc tổ chức tổng quát thích hợp theo dạng
chức năng.
- Siêu thị mắc xích: Được điều hành bởi các công ty, tập đoàn lớn, hoạt
động trên địa bàn rộng. Cấu trúc tổ chức thích hợp theo dạng ma trận, cho
phép siêu thị tận dụng các lợi thế về vốn và nguồn nhân lực.
• Hoạt động của các bộ phận chức năng:
- Bộ phận khách hàng: Bộ phận này có hoạt động chủ yếu là mua đúng
hàng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đảm bảo đúng về số lượng, chất
lượng quy cách mẫu mã, chủng loại của hàng hóa.
- Bộ phận hoạt động: Có nhiệm vụ quản lý, trưng bày hàng hóa, và bán
hàng thực hiện các dịch vụ khác.


11
- Bộ phận Marketing: Nhiệm vụ chính là nghiên cứu thị trường, đề ra
các chiến lược Marketing và có biện pháp thực hiện hiệu quả.
- Hệ thống thông tin quản lý của siêu thị: Thong tin về số lượng hàng
hóa, số lượng giao dịch diễn ra.

c. Ưu thế và hạn chế của siêu thị
- Ưu thế của siêu thị:
Siêu thị có quy mô lớn với phương thức kinh doanh văn minh, hiện đại,
hàng hóa và dịch vụ phong phú đem lại nhiều lợi ích cho KH và nhà sản xuất.
Do siêu thị có quy mô lớn được tổ chức theo phương thức tự phục vụ nên có
khả năng giảm chi phí bán hàng, tiết kiệm chi phí phân phối, bảo quản. Hàng
hóa trong siêu thị được niêm yết giá cả rõ ràng giúp thuận tiện và tiết kiệm thời
gian cho người mua.
Hình thức kinh doanh của siêu thị có tính chuyên môn hóa cao giúp tăng
khả năng cạnh tranh về giá và hiệu lực QLNN đối với khâu lưu thông phân
phối. Hoạt động của siêu thị là tổ chức nguồn hàng để hạn chế ít nhất các khâu
trung gian. Theo đó, siêu thị sẽ trực tiếp mua hàng hóa của nhà sản xuất và bán
cho người tiêu dùng cuối cùng. Điều này làm giảm chi phí bán hàng để siêu thị
có mức giá bán cạnh tranh. Siêu thị cũng giúp tăng cường hiệu quả QLNN
trong việc điều tiết và bình ổn thị trường trong nước.
Siêu thị góp phần tạo ra và củng cố các kênh phân phối dọc đảm bảo phục
vụ nhiều đối tượng KH và góp phần hình thành, phát triển hệ thống phân phối
hiện đại ở Việt Nam. Siêu thị đã tạo ra phong cách mua bán văn minh hiện đại:
sòng phẳng, rõ ràng, tin cậy lẫn nhau.
Siêu thị thường có hàng hóa phong phú bày bán trong một không gian
sạch đẹp được thiết kế đáp ứng thẩm mỹ của người tiêu dùng. Điều này hơn
hẳn một số chợ truyền thống không đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm.
Siêu thị không chỉ có giá cả canh tranh mà còn có các chương trình
khuyến mại với quy mô lớn và được tổ chức chuyên nghiệp. Đây là lợi thế hơn
hẳn so với loại hình chợ truyền thống. [14]


12
- Hạn chế của siêu thị: Phương thức bán hàng tự phục vụ là nét đặc

trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh siêu thị. Tuy nhiên đặc trưng này cũng
tạo ra một số bất lợi cho siêu thị so với các loại hình kinh doanh thương mại
khác.
Phương thức bán hàng tự phục vụ sẽ không có sự xuất hiện của người bán
trong suốt quá trình chọn lựa và mua hàng của KH. Điều này tạo tâm lý thoải
mái, tự do hoàn toàn cho KH nhưng KH sẽ không có được lời khuyên nào
trong quá trình chọn hàng. Ngoài ra có những mặt hàng đặc biệt cần sự tư vấn
trực tiếp của người bán thì siêu thị tỏ ra bất lợi hơn các loại hình thương mại
khác.
Thời gian mở cửa của các siêu thị là cố định gây khó khăn cho việc mua
sắm của KH khi họ cần thời gian linh hoạt hơn. Trong khi các cửa hàng và chợ
truyền thống có thời gian hoạt động linh hoạt hơn.
Siêu thị thường có tập hợp hàng hóa rộng nhưng không sâu so với các cửa
hàng chuyên doanh chỉ bán một vài loại hàng hóa nhất định. Trong trường hợp
này, cửa hàng chuyên doanh sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của KH.
Siêu thị là thể hiện của nhịp sống công nghiệp và hiện đại nhiều khi tạo
sự nhàm chán cho KH trong khi các loại hình chợ truyền thống mang những
nét văn hóa đặc trưng tạo nên sự độc đáo thu hút sự khám phá thích thú của
khách hàng.
Như vậy, loại hình kinh doanh siêu thị có những lợi thế và bất lợi thế so
với các loại hình kinh doanh khác. Vì vậy tùy từng điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau chúng ta cần phải kết hợp hài hòa các loại hình phân phối bán lẻ
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế và thỏa mãn nhu cầu người
tiêu dùng.
1.1.3 Vị trí, vai trò của siêu thị trong hệ thống phân phối hiện đại
và ngành dịch vụ
a. Vị trí của siêu thị
Sự phát triển của nền kinh tế đã dẫn đến sự thay đổi của các loại hình
phân phối bán lẻ đồng thời làm thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu



13
dùng. Siêu thị ngày càng có một vị trí quan trọng trong hệ thống phân phối bán
lẻ hiện đại nói riêng và ngàng dịch vụ nói chung.
Trong hệ thống các cửa hàng bán lẻ hiện đại, siêu thị được xếp cao hơn
so với các cửa hàng tự chọn nhỏ, cửa hàng tiện dụng và thấp hơn so với đại
siêu thị, TTTM xét về quy mô và phương thức kinh doanh.
Siêu thị là loại hình ra đời đầu tiên đặt nền tảng cho các loại hình kinh
doanh hiện đại sau này như cửa hàng tiện lợi, TTTM…
Siêu thị có vị trí trung gian cuối cùng trong kênh phân phối hàng hóa có
chức năng trực tiếp phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Hệ thống siêu thị chiếm
một vị trí quan trọng trong ngành phân phối bán lẻ của thế giới hiện nay.
b. Vai trò của siêu thị
Trên thế giới, sự ra đời của siêu thị đã làm nên một cuộc cách mạng
trong lĩnh vực thương mại bán lẻ. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam,
siêu thị ra đời trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế đóng
một vai trò quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa.
Siêu thị ra đời là sự chuyển giao giữa thương mại bán lẻ truyền thống và
thương mại bán lẻ hiện đại. Sự ra đời của siêu thị chính là tiền đề cho sự ra đời
của hàng loạt loại hình thương mại hiện đại khác với những nét đặc trưng riêng
biệt theo xu hướng mua bán văn minh, hiện đại. Như vậy, siêu thị có ý nghĩa
quan trọng đối với hệ thống dịch vụ phân phối nói chung và mạng lưới thương
mại hiện đại nói riêng.
Siêu thị nằm trong hệ thống phân phối bán lẻ, là cầu nối quan trọng giữa
sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống siêu thị giúp giải quyết tốt sự khác biệt giữa
sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng, khối lượng nhỏ bằng cách mua
hàng hóa của nhiều nhà sản xuất khác nhau và bán lại cho người tiêu dùng tại
một điểm.
Siêu thị hoạt động trong mạng lưới lưu thông phân phối bán lẻ giữ vai
trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội thông qua vai trò

đảm nhận khâu tiêu thụ hàng hóa. Theo đó, siêu thị cung cấp cho người tiêu


14
dùng đúng chủng loại hàng hóa mà họ cần, đúng thời gian và ở mức giá chấp
nhận được. Qua quá trình phân phối hàng hóa các siêu thị nắm bắt được nhu
cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian và không gian.
Siêu thị có thể dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu thị
trường. Siêu thị giúp giảm thiểu các tầng trung gian trong hệ thống phân phối,
hình thành nên một hệ thống liên kết dọc vững chắc; giúp giảm thiểu thời gian
và chi phí giao dịch, hạ giá thành đem lại hiệu quả kinh doanh.
Siêu thị đóng vai trò chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất. Trước đây, các
nhà sản xuất thường tự phân phối hàng hóa và gánh chịu rủi ro đối với hàng
hóa của mình, thì hiện nay, một số siêu thị đã tự kinh doanh rủi ro. Họ sẽ mau
hàng hóa của các doanh nghiệp rồi tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận
chuyển hàng hóa cho KH nhằm thu được lợi nhuận cao hơn.
Siêu thị làm tăng khả năng lựa chọn của người tiêu dùng trong việc thỏa
mãn các nhu cầu mua sắm đồng thời giúp tiết kiệm thời gian cho người mua
trong thời đại công nghiệp hóa. Người tiêu dùng có thể dễ dàng mua hàng hóa
một cách nhanh chóng, thoải mái với chất lượng đảm bảo và không phải mặc
cả khi mua. Thêm vào đó, không gian siêu thị sạch sẽ với cách trưng bày sản
phẩm đẹp mắt là điểm khác biệt tạo cảm giác vui vẻ cho KH đến mua sắm.
Siêu thị có vai trò cung cấp thông tin thị trường. Trong quá trình bán
hàng trực tiếp cho KH, siêu thị hiểu rõ nhất nhu cầu của KH, những thay đổi
thị hiếu KH để cung cấp thông tin phản hồi cho các nhà sản xuất để nhà sản
xuất tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của KH.
Tóm lại, siêu thị có một vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống phân
phối hàng hóa. Với việc thực hiện các vai trò của mình, siêu thị ngày càng trở
thành một mắc xích chính trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội, đảm bảo
cho quá trình này diễn ra thông suốt và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội chung.

Vì vậy, phát triển hệ thống siêu thị là tất yếu để đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay.
1.1.4 Quan niệm về phát triển hệ thống siêu thị
Phát triển là một phạm trù phản ánh sự thay đổi mang tính cấu trúc
không những về số lượng mà còn về chất. Theo đó, phát triển hệ thống siêu thị


15
là một quá trình làm thay đổi theo hướng hoàn thiện nhằm phát triển về qui
mô, hoàn thiện về cơ cấu, nâng cao về chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của siêu thị. [10]
Với vai trò của hệ thống phân phối hàng hóa nói chung và hoạt động
phân phối bán lẻ hàng hóa của siêu thị nói riêng là một lĩnh vực của hoạt động
kinh doanh thương mại, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đem
lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Để phát huy vai trò này, việc phát triển siêu
thị phải được tiếp tục theo hướng: Phát triển các siêu thị hiện tại trên cơ sở
nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật của siêu thị,
đồng thời khuyến khích phát triển các siêu thị trong tương lai. Để đạt được
hiệu quả kinh tế cao cần phải có những biện pháp nâng cao về chất lượng phục
vụ, chất lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động kinh doanh của siêu thị. Mặt
khác, trong điều kiện hiện nay, phát triển siêu thị không thể mang tính tự phát
mà phải xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Điều đó đòi hỏi phải
nghiên cứu kỹ để xác định thị trường, nhu cầu và sự biến động của các yếu tố
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của siêu thị.


16
1.2 NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
SIÊU THỊ
1.2.1 Phát triển về số lượng, quy mô siêu thị

- Phát triển hệ thống siêu thị về số lượng, quy mô là sự gia tăng sản lượng
hàng hóa kinh doanh qua hệ thống siêu thị được thực hiện bằng việc gia tăng
tuyệt đối số lượng siêu thị được quy hoạch, xây dựng; siêu thị được thành lập,
mở rộng, siêu thị được bổ sung vào quy hoạch.
o Siêu thị được quy hoạch, xây dựng: Là các siêu thị nằm trong quy
hoạch phát triển hệ thống siêu thị hoặc quy hoạch phát triển thương mại của tỉnh
đã được UBND cấp tỉnh phê duyệt.
o Siêu thị được thành lập, mở rộng: Là siêu thị được tính từ ngày ký
quyết định thành lập, mở rộng hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư xây dựng hạ
tầng kỹ thuật và kinh doanh của cấp có thẩm quyền.
o Siêu thị được bổ sung vào quy hoạch: Là siêu thị được tính từ ngày
ký văn bản chấp thuận hoặc đồng ý bổ sung vào quy hoạch phát triển hệ thống
siêu thị của tỉnh do UBND cấp tỉnh phê duyệt.
- Mặt khác, phát triển hệ thống siêu thị về mặt số lượng, quy mô còn được
thực hiện bằng việc gia tăng tuyệt đối quy mô của từng siêu thị thông qua gia
tăng quy mô nguồn vốn đầu tư xây dựng siêu thị; gia tăng diện tích kinh
doanh, gia tăng số lượng, chủng loại hàng hóa kinh doanh, gia tăng doanh thu
của siêu thị, gia tăng số lượng khách đến siêu thị…
Sự phát triển về số lượng, quy mô siêu thị được phản ánh qua các tiêu
chí sau:
- Số lượng siêu thị quy hoạch, xây dựng qua các năm
- Diện tích của các siêu thị
1.2.2 Phát triển các nguồn lực của hệ thống siêu thị
a. Về cơ sở vật chất hạ tầng
Cơ sở vật chất hạ tầng bao gồm nhiều yếu tố như vị trí, mặt bằng, trang
thiết bị…. Siêu thị thường đặt tại các trung tâm mua sắm, khu ngoại thành,


17
trung tâm thương mại và bám theo các trục giao thông đường bộ, đường thủy

thuận tiện cho việc vận chuyển, thông thương hàng hóa và đi lại mua bán của
người dân.
Cơ sở vật chất hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật cấu thành một siêu thị như
nhà cửa, kho hàng, thiết bị vật dụng cần thiết… tương đối hiện đại nhằm đảm
bảo sự tiện nghi phục vụ tốt, tạo sự thoải mái cho KH khi đi mua sắm. Đây là
yếu tố quan trọng tạo lợi thế cạnh tranh rất lớn không những giữa các siêu thị
với nhau mà còn giữa siêu thị với các loại hình bán lẻ khác.
Yêu cầu về sơ sở vật chất của siêu thị bao gồm:
- Vị trí của của siêu thị phải thuận tiện cho KH, có khả năng thu hút được
số lượng lớn người tiêu dùng hiện tại và tương lại.
- Đầy đủ trang thiết bị cần thiết: Trang thiết bị trong siêu thị có thể chia
làm các nhóm chính như: nhóm phục vụ KH, nhóm phục vụ quản lý bán hàng,
nhóm phục vụ công việc trưng bày, nhóm trang thiết bị có liên quan.
- Kiến trúc phù hợp với đặc điểm kinh doanh của siêu thị sẽ tạo ấn tượng
về hình ảnh của siêu thị đó, góp phần tạo không khí mua sắm và điều kiện cho
hoạt động tác nghiệp linh hoạt, có thể thay đổi, mở rộng.
b. Vốn đầu tư của siêu thị:
Để tiến hành hoạt động kinh doanh siêu thị cần thiết phải có vốn lớn
do phải đầu tư quá nhiều vào các công trình xây dựng và tài sản cố định, điểm
hoàn vốn cao. Đây cũng là yếu tố bất lợi của siêu thị trong việc cạnh tranh với
các loại hình bán lẻ khác. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng,
xây dựng kế hoạch chiến lực phát triển từng giai đoạn và dài hạn nhằm khai
thác hiệu quả nguồn vốn sử dụng.
Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đăng ký, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện
trong tổng số vốn đăng ký xây dựng siêu thị, vốn đầu tư bình quân của một
siêu thị.
c. Nguồn nhân lực
Xét trên phạm vi rộng, vấn đề thành công hay thất bại trong kinh doanh
siêu thị bán lẻ nói chung và siêu thị nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ



18
nhân viên làm việc. Vì vậy, đây là công tác cần được chú trọng đối với các nhà
quản trị, họ phải thực hiện những vấn đề liên quan đến việc thuê, đào tạo, nắm
bắt nhu cầu của nhân viên để phát triển một lực lượng lao động có hiệu quả
cao. Thông thường các siêu thị phải thực hiện những vấn để sau: Tuyển dụng
và thuê nhân công mới, đào tạo và tái đào tạo nhân công, thực hiện chuyển
giao nhân công, đề bạt và sa thải, tổ chức đánh giá, thiết lập mức lương và bồi
dưỡng.
Đội ngũ lao động làm việc trong doanh nghiệp phân phối được chia thành
02 nhóm: cán bộ quản lý điều hành và nhân viên kinh doanh, trong đó nhóm
cán bộ quản lý điều hành giữ vai trò quyết định đối với quá trình cạnh tranh
giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp phân phối nước ngoài.
Tiêu chí này phản ánh:
- Khả năng phục của nhân viên
- Trình độ đội ngũ quản lý siêu thị
- Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn.
Đội ngũ nhân lực có trình độ quản lý tốt, có thái độ cư sử lịch sự, nhã nhặn,
có vốn hiểu biết nhất định về sản phẩm và các dịch vụ cung cấp…. sẽ tạo được
ấn tượng tốt và tâm lý thoải mái cho khách hàng.
d. Các hàng hóa kinh doanh trong siêu thị:
Các hàng hóa kinh doanh trong siêu thị: Là số lượng hàng hóa, loại
hàng hóa thể hiện trong siêu thị. Ngoài mặt hàng thực phẩm, hàng tiêu dùng
còn có nhiều loại mặt hàng khác như nông phẩm, hàng điện máy- điện tử. Đặc
trưng của các loại hàng hóa này là hàng hóa có thương hiệu, có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Đặc biệt tất cả các hàng hóa trong
siêu thị đều được bao gói lại, làm trọn bộ và gắn mã vạch, mã số.....
Tiêu chí phản ánh:
- Tập hợp hàng hóa
- Cơ cấu hàng hóa



19
e.Dịch vụ khách hàng:
Dịch vụ khách hàng tại các siêu thị bán lẻ là những lợi ích và hoạt động
cung cấp thêm cho KH, nhằm thỏa mãn nhu cầu dịch vụ gắn với quá trình mua
hàng của khách.
Dịch vụ khách hàng là yếu tố rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến
việc thu hút KH nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Mặc
dù, siêu thị là cửa hàng tự phục vụ, vẫn phải hết sức chú trọng đến yếu tố dịch
vụ khách hàng.
Siêu thị cung cấp cho khách hàng các dịch vụ đi kèm bán hàng tối thiểu
như:
- Dịch vụ trước bán: Trông giữ xe cho KH vào siêu thị, có nơi gửi đồ cho
để đề phòng nạn mất hàng hóa, quảng cáo, trưng bày hàng hóa, biển pano chỉ
dẫn, dịch vụ mặt hàng,…
- Dịch vụ trong bán: Có xe đẩy hoặc giỏ xách chuyên dùng để chọn và
mua hàng, phòng thử đồ, giải đáp thắc mắc KH, nơi ăn uống, vui chơi, giải trí,
hoạt động thanh toán, gói quà tặng miễn phí..
- Dịch vụ sau bán: Bao gói hàng hóa, bảo hành, bảo dưỡng sản phẩm, các
dịch vụ giao hàng miễn phí với số lượng lớn, hướng dẫn sử dụng và lắp đặt các
sản phẩm công nghệ cao, xe buýt đưa đón theo tuyến,….
1.2.3 Phát triển các loại hình kinh doanh siêu thị [9]
Các loại hình kinh doanh siêu thị ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng,
bao gồm tất cả các siêu thị theo quy mô hạng I, hạng II, hạng III đúng tiêu
chuẩn quy định. Đặc trưng phổ biến nhất của hệ thống siêu thị Việt Nam hiện
nay là hình thức kinh doanh bán lẻ.
Các siêu thị có thể kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh. Đa phần
các siêu thị loại I và loại II ở Việt Nam hiện nay là siêu thị kinh doanh tổng
hợp. Ngoài ra, có siêu thị chuyên doanh về hàng điện máy, điện thoại di động,

siêu thị trái cây, siêu thị điện máy, siêu thị kính thuốc,.. thậm chí ngày nay còn
có các siêu thị việc làm.


20
Xu hướng phát triển siêu thị trên thế giới chỉ ra rằng, các siêu thị tổng
hợp có xu hướng giảm và siêu thị chuyên doanh có xu hướng tăng để hợp lí
hóa nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng khi tới các siêu thị. Tại Việt Nam,
các siêu thị tổng hợp đang dần nhường chỗ cho các siêu thị chuyên doanh. Xu
hướng tiêu dùng mới đang dần thể hiện rõ, họ thích nhiều sự lựa chọn hơn để
thỏa mãn nhu cầu của mình, đặc biệt là giới trẻ. Ngay cả đối với các siêu thị
tổng hợp như thực phẩm cũng dần dần tạo sự chuyên biệt nhắm vào đối tượng
là những người tiêu dùng cụ thể: siêu thị thực phẩm tươi sống riêng, siêu thị
thực phẩm khô, siêu thị đồ đông lạnh riêng.
1.2.4 Phân bổ mạng lưới siêu thị phù hợp [13]
Việc phát triển mạng lưới siêu thị không chỉ xuất phát từ nhu cầu tiêu
dùng của cư dân ở từng khu vực, mà còn phải tính đến cả nhu cầu mua sắm
của khách du lịch trong nước, quốc tế và khách vãng lai.
Phát triển mạng lưới siêu thị phải đảm bảo sự cân đối, cấu trúc hài hòa
với các loại hình thương mại bán lẻ hiện đại khác như chợ, trung tâm mua sắm,
cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi ở các khu dân cư.
Phân bố mạng lưới siêu thị phải đảm bảo bán kính và không gian phục
vụ của từng quy mô siêu thị để vừa thu hút được KH, vừa đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng của các đối tượng KH, tránh cạnh tranh quá mức ở từng khu vực
làm giảm hiệu quả kinh doanh của các siêu thị; Đồng thời phải phù hợp với
quy hoạch phát triển đô thị của địa phương.
Vị trí xây dựng các siêu thị được mở tại các nơi có điều kiện giao thông
thuận lợi, vùng giao thoa giữa nội thành và ngoại thành, các khu đô thị mới,
cụm dân cư lớn trong khu vực nội thành và ngoại thành.
1.2.5. Gia tăng kết quả kinh doanh và đóng góp của siêu thị vào

phát triển kinh tế xã hội của địa phương
Thông qua hệ thống siêu thị sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa,
góp phần quảng bá thương hiệu, nâng cao uy tín của nhà sản xuất với người
tiêu dùng, tiêu thụ hàng hóa được sản xuất tại địa phương.


×