Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

thực trạng và giải pháp để phát triển doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.98 KB, 48 trang )

KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC TỒN TẠI CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA :

1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền
kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác
nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản
xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu
nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc
khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền
kinh tế sẽ có nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau
mà có quan hệ hữu cơ với nhau tạo thành cơ cấu kinh tế.
Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ những lĩmh vực then chốt, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế và góp phần khắc
phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường.
Kinh tế nhà nước bao gồm các DNNN, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo
hiễm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vịng chu chuyển


kinh tế. Trong đó DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, giữ vị trí
then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng xuất chất
lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế nhà nước nói riêng
và mặc nhiên tồn tại DNNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là tất yếu khách
quan.
Thực tiển ở Việt Nam qua những năm đổi mới đã chứng minh, nhờ phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng
trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, cơng nghệ của nước ngồi, giải phóng được
năng lực sản xuất, góp phần vào quyết định việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ tương đối cao trong thời gian qua. Điều đó cũng nói lên được tính tất yếu khách quan
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
2. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế quốc dân .


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

a. Khái niệm chung về doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở kinh tế do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một
phần quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, là đặc điểm để phân biệt DNNN với doanh
nghiệp tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm để phân biệt DNNN với các tổ
chức cơ quan khác của Chính phủ.Tuy nhiên, sự xác định giới hạn của DNNN ở mỗi
nước trên thế giới khác nhau.
Riêng ở Việt Nam nói về DNNN có thể khái quát ra những đặc trưng cơ bản sau
đây: Nhà Nước có một tỷ lệ vốn nhất định trong doanh nghiệp nhờ đó có thể gây ảnh
hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều
tổ chức theo chế độ công ty là một pháp nhân, nguồn thu chủ yếu từ hoạt động kinh

doanh, và phải thực hiện song song các mục tiêu sinh lời lẫn mục tiêu xã hội.
Ở Việt Nam, DNNN đã có một q trình hình thành và phát triển trên 50 năm và
trải qua nhiều thời kỳ đổi mới, ở mỗi thời kỳ nhận thức về DNNN cũng rất khác nhau.
Điều này được thể hiện rõ qua hai thời kỳ: thời kỳ trước đổi mới ( trước Đại hội lần thứ
VI ) và từ năm 1986 cho đến nay.
Trước thời kỳ đổi mới doanh nghiệp được nhìn nhận như cơ quan chính phủ hơn
là tổ chức kinh doanh. Mục tiêu của DNNN là thực hiện những chỉ tiêu hiện vật chứ
khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Từ những năm đổi mới (từ Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986 đến nay) nền kinh
tế nước ta đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì quan niệm
DNNN cũng có sự thay đổi.
Trước hết thể hiện qua định nghĩa DNNN trong điều lệ xí nghiệp cơng nghiệp
quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định 50/ HĐBT ngày 23/8/1998 qui định: “Xí
nghiệp cơng nghiệp quốc doanh là một đơn vị sản xuất hàng hố có kế hoạch đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng cho xã hội, có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc lập“.
Trong quy chế thành lập - giải thể DNNN ban hành kèm theo Nghị định
388/HĐBT, ngày 20/11/1991 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng quy định “DNNN là một
tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu
DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp Luật và bình đẳng trước pháp
Luật “.
Gần đây, tại điều 1 một doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi năm 2003 quy định : “
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu tồn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần ,vốn
góp chi phối (trên 50% cổ phần ), được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước ,công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn .Hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng
ích nhằm thực hịên các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách
pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
kinh doanh trong phạm vi số vốn nhà nước quản lý. DNNN có tên gọi, có dấu riêng và
có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam ”.
Ngày nay trong điều kiện sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế cùng

tồn tại, đan xen, trong xu thế hội nhập quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc nhận
rõ DNNN là một yêu cầu hết sức cần thiết để có cơ chế quản lý thích hợp. Tuỳ theo góc


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

độ xem xét mà DNNN được phân chia thành các loại khác nhau, để định ra thể chế quản
lý phù hợp của DNNN, hiện nay được phân chia thành hai loại sau:
+ Loại thứ nhất: DNNN hoạt động kinh doanh, là doanh nghiệp có chức năng
hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp này được nhà
nước giao quyền và sử dụng vốn có trách nhiệm bảo tồn và phát triển vốn, các doanh
nghiệp này thưc hiện hạch toán kinh doanh tự chủ trong kinh doanh, tự chịu trách
nhiệm về mặt tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của mình, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật như các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác .
+ Loại thứ hai: DNNN hoạt động cơng ích, là doanh nghiệp hoạt động sản xuất,
cung cấp dịch vụ cơng cộng theo chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ quốc phịng, an ninh. Ngồi ra, loại hình DNNN này cịn tổ chức hoạt động
kinh doanh bổ sung nhưng không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính
sách là hoạt động cơng ích do nhà nước giao. Đồng thời cũng phải chấp hành và chịu sự
điêù chỉnh của pháp Luật như các doanh nghiệp khác, với loại hình doanh nghiệp này
nhà nước ưu tiên đầu tư vốn, miễn thuế (mức thuế thu nhập doanh nghiệp).

b.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân:
Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta thấy vai trò của
DNNN được nhấn mạnh ở khía cạnh kinh tế chính trị, vì mục tiêu xây dựng quan hệ sở
hữu toàn dân trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân hơn là khía cạnh kinh tế vì mục tiêu tăng
trưởng.
Hiện nay trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trường định hưóng XHCN. Hệ thống kinh tế nhà nước bao gồm đất đai và tài nguyên,
hệ thống kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà nước, ngân hàng nhà nước, hệ thống dự trữ
quốc gia, các DNNN và một phần vốn của DNNN góp vào các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác. Như vậy DNNN là một bộ phận kinh tế nhà nước, hệ thống
kinh tế nhà nước có nghĩa rộng như trên mới có vai trị chủ đạo, chi phối và định hướng
của nền kinh tế. Hệ thống này được lãnh đạo trực tiếp bởi đại diện sở hữu và phát huy
sức mạnh đựơc nhân lên bởi quyền lực chính trị của nhà nước do pháp luật quy định
hồn tồn có khả năng và cần thiết thực hiện vai trị chủ đạo định hướng nói trên .
Trong hệ thống kinh tế nhà nước, các DNNN là một hệ phân hợp thành hết sức
quan trọng, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN góp
phần thực hiện vai trị chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trên các mặt sau:
Một là: DNNN đóng vai trị là một cơng cụ kinh tế, một lực lượng vật chất trong
tay nhà nước để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo các chương
trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Nhìn lại chặn đường hình thành và phát triển DNNN của các nền kinh tế trên thế
giới cho thấy: sự tồn tại của DNNN tùy thuộc vào sự quy định của chiến lược và chính
sách phát triển, cách thức lựa chọn giải pháp, công cụ mỗi nước .Như vậy, vai trị
DNNN tăng hay giảm tùy thuộc vào chính sách,chiến lược phát triển trong những giai
đoạn nhất định và còn tùy thuộc vào sự lựa chọn phương thức trực tiếp hay gián tiếp để
điều tiết thúc đẩy nền kinh tế .


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Với nền kinh tế chậm phát triển cũng có ý nghĩa mức độ ,tập trung sản xuất rất
thấp, hệ thống kinh doanh nhỏ, phân tán, ít vốn, kỹ thuật cơng nghệ lạc hậu .Muốn bước
khỏi trình trạng trên và hộI nhập vào trào lưu phát triển hiện đại cần phải lựa chọn chiến
lược và những giảI pháp cho sự tăng trưởng mang tính chất tăng tốc và lâu bền . Để

thực hiện chiến lược trên nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp để phát triển DNNN.
Ở đây việc lựa chọn này khơng phảI mang tính chủ quan, mà có sự quy định của bản
thân nền kinh tế và bản thân của chế độ chính trị, vì DNNN có những ưu thế tuyệt đối ở
thời kỳ quá độ của sự phát triển, các ưu thế của DNNN thể hiện ở chỗ có khả năng tiếp
nhận chuyển giao công nghệ mới tiên tiến, và có cơ hội hội nhập với nền kinh tế thế
giới, những ưu thế này khiến cho DNNN trở thành một yếu tố quyết định cho chiến lược
phát triển rút ngắn, tăng tốc. Vì vậy DNNN giữ vai trị then chốt là ‘’bánh lái’’ của nền
kinh tế. DNNN là cầu nối, định hướng công nghệ và xu hướng phát triển cho các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Trong giai đoạn hiện nay vị trí, vai trị chủ đạo của DNNN chỉ là tương đối với vị
trí và vai trị của các thành phần kinh tế mà thơi, khơng có sự tồn tại và phát triển các
thành phần kinh tế khác thì chẳng có vai trị chủ đạo của DNNN phải thể hiện qua sự
phân công và phối hợp một cách hợp lý giữa chức năng của khu vực DNNN vớI chức
năng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Có thể nói rằng DNNN trong việc đầu tư vào những ngành quyết định cho sự
phát triển dài hạn và hiệu quả sử dụng của nền kinh tế làm cho nó có vai trị. Đặc biệt là
vai trị giá đỡ của nền kinh tế. Đây là vai trò lâu bền của khu vực DNNN ngay cả khi
doanh nghiệp tư nhân đã trưởng thành. Khi DNNN thu hẹp lại thì vao trị trong việc
cung cấp hàng hố dịch vụ cơng cộng, khắc phục khuyết tật thị trường và vai trò làm giá
đỡ cho nền kinh tế vẫn được duy trì.
Hai là: Vai trò chủ đạo của DNNN phải được thể hiện không ngừng nâng cao
hiệu quả và khả năng điều tiết trong nền kinh tế thị trường.
Lợi nhuận là mục tiêu cơ bản, thậm chí là mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp tư
nhận, do đó khơng có lợi nhuận thì đối với họ kinh doanh là mục tiêu vơ nghĩa và đượng
nhiên họ khơng đầu tư. Cịn DNNN lại khác, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất
và thậm chí cũng khơng phải là mục tiêu chủ yếu. Tuy nhiên nó đóng vai trị động lực
để xem xét đến lợi ích chính trị, xã hội, kinh tế của đất nước.
Vì thế, hiệu quả của DNNN có thể là hiệu quả tổng hợp kinh tế, chính trị và hiệu
quả xã hội. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
cơng ích phải đặt mục đích lợi nhuận xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, nếu xét trên tổng

thể tồn bộ khu vực DNNN đều khơng có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp thì tất yếu phải
dựa vào sự hỗ trợ của Nhà nước hay tiền thuế của doanh nghiệp tư nhận đóng để tồn tại.
Điều này sẽ làm cho DNNN mất sức cạnh tranh thiếu sức sống, trở thành gánh nặng cho
cả Nhà nước và xã hội, vì thế vai trị chủ đạo của nó khó có thể thực hiện được một cách
có hiệu quả.
Ba là: Vai trị của DNNN có tính quy định lịch sử cụ thể, nên vai trò chủ đạo của
DNNN phải thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Sở dĩ trong thời kỳ q độ, DNNN đóng vai trị chủ đạo, vì sự phát triển của nó
tạo địn bẩy kinh tế mạnh mẽ cho bước chuyển nền kinh tế chậm phát triển sang phát
triển được rút ngắn. Đồng thời nó cũng là công cụ phân bổ hữu hiệu các nguồn lực trong
nền kinh tế, khi mà các quan hệ vĩ mô của nền kinh tế thị trường chưa phát triển. Ở thời
kỳ này vai trò DNNN gắn với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Với nền
kinh tế phát triển Nhà nước tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển
và tham gia vào các khu vực kinh tế mà trước đây chỉ do DNNN đảm nhận. Như vậy
trong tương lại khu vực DNNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong nền kinh tế phát
triển. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đốI với nền kinh tế
thị DNNN vẫn phải giữ một tỷ trọng nhất định, đủ mạnh để chi phối, định hướng các
thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH, vai trò định hướng của DNNN trong
việc mở đường ở các ngành mũi nhọn cũng phải thay đổi linh hoạt theo các giai đoạn
phát triển, đồng thời tăng cường các công cụ quản lý gián tiếp để điều tiết vĩ mơ nền
kinh tế.
Bốn là: DNNN có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị kinh tế - xã hộI theo định hướng XHCN do Đảng và Nhà nước đề ra.
Trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN và thực hiện

những mục tiêu kinh tế - xã hội do Đảng và Nhà nước ta đề ra, thì DNNN là một bộ
phận kinh tế nền tảng và là công cụ trực tiếp chi phối cho các thành phần kinh tế khác
thực hiện chính sách theo hướng XHCN. Trong quan hệ với cơng tác an ninh quốc
phịng, các DNNN có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường quốc phòng ở
các vùng chiến lược.
Trong việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phịng, thì các DNNN có vai trị
quan trọng trong việc cung cấp những hàng hố, dịch vụ cho các hoạt động quốc phịng
mà trong điều kiện tư nhân không được phép làm như: sản xuất vũ khí, thuốc nổ, bưu
chính viễn thơng.
Năm là: DNNN có vai trị quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật do
cơ chế thị trường tạo ra, đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đó là lĩnh vực kinh doanh lãi ít, nhiều rủi ro, thu hồi vốn chậm, nhưng sự tồn tại
phát triển của chúng quyết định đến sự phát triển chung của nền sản xuất xã hội, sản
xuất đồ dùng cho người tàn tật, các hoạt động nghiên cứu cơ bản…
Như vậy, trong khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường mà coi nhẹ DNNN hoặc tư nhân hoá tất cả các tư liệu sản xuất là
sai lầm. Song, duy trì DNNN tràn lan, hoạt động khơng hiệu quả, hạn chế sự phát triển
kinh tế, làm lãng phí tài sản của Nhà nước thì thực chất là hạ thấp vai trò của DNNN.
Vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng gắn liền
với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế theo định hướng XHCN phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nó khác với vai trị, qui mơ, bản chất của
DNNN ở các nước tư bản chủ nghĩa.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

II/ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN VÀ ĐẢNG TA VỀ
KINH TẾ NHÀ NƯỚC NÓI CHUNG VÀ DNNN NÓI RIÊNG VÀ MỘT SỐ

KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƠI:
1. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta về kinh tế Nhà nước
nói chung, DNNN nói riêng.
a. Một số quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin.
Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở
nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một
kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xét về phương diện kinh tế xã hội
phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
không chỉ là một tất yếu khách quan mà cịn có vai trị to lớn đối với đời sống kinh tế xã
hội, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,
là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công
cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong đó các DNNN, bộ
phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt; phải đi đầu trong việc ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh
tế - xã hội và chấp hành pháp luật trong chính sách kinh tế mới, Lênin có nói rằng “Cần
củng cố lại DNNN…”, Lênin đã chỉ ra hình thức phân phối theo lao động trong DNNN
là tiền lương.
Trong kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.Lênin có các nội dung sau:
Một là, Nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất.
Hai là, quốc hứu hóa XHCN nhằm thủ tiêu sở hữu tư nhân của giai cấp bóc lột về
tư liệu sản xuất chủ yếu, chuyển nó thành sở hữu tồn dân.
Ba là, hợp tác hóa để chuyển những người lao động cá thể thành người lao động
tập thể.
Mặc khác, theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản Nhà nước là hình thức kinh tế cao
hơn so với “Sản xuất nhỏ’’. Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cần thiết để
phát triển lực lượng sản xuất, nó như những ‘’Cầu nối’’, ‘’Trạm trung gian’’ cần thiết
để đưa đất nước từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

b. Một số quan điểm của Đảng ta.
Vận dụng tư tưởng của Lênin về sự tồn tại tất yếu của các thành phần kinh tế

trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đảng ta đã xác định ở nước ta hiện nay còn tồn tạI
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là một bộ phận cấu thành cơ bản,
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và giữ chức năng là một công cụ quản
lý vĩ mô của Nhà nước ta.
Các DNNN, một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước, giữ những vị trí
then chốt phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Nắm giữ các
ngành, các lĩnh vực kinh tế liên quan đến an ninh quốc phịng, chính sách xã hội và các
ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế. Sự có mặt của các DNNN trong các
ngành, các lĩnh vực quan trọng có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền kinh tế, duy
trì ổn định chính trị - xã hội.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Khu vực DNNN phải giữ vai trò đòn bẩy, giá đỡ trong nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần DNNN là công cụ Nhà nước huy động tập trung vốn vào những lĩnh
vực mang tính chiến lược của nền kinh tế thực hiện việc chuyển giao công nghệ, tiếp
nhận công nghệ hiện đại, tiếp cận nghệ thuật quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo cơ sở
kinh tế cho các ngành kinh tế khác phát triển. Khu vực DNNN phải đi đầu trong q
trình cơng nghệp hố, hiện đại hố theo hướng mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Vai trò của DNNN phải thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào từng giai đoạn mà Nhà
nước trao cho sứ mệnh phải gánh vác.
• Một số quan điểm về DNNN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Tỉnh Quảng Ngãi:
Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước. Tiếp tục
sắp xếp lại DNNN theo loại hình DNNN làm nhiệm vụ kinh doanh và DNNN làm
nhiệm vụ cơng ích. tiếp tục hồn thiện tổ chức, quản lý DNNN như: sắp xếp, sáp nhập,

giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch
ngành, lãnh thổ vào những ngành cần thiết cho sự phát triển có hiệu quả và bền vững
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân như: kết cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, an ninh
quốc phòng và những DNNN trong một số ngành sản xuất dịch vụ cần thiết trong nền
kinh tế. Thơng qua đó mà Nhà nước có thể điều tiết, hỗ trợ các DNNN và các thành
phần kinh tế khác. Tiếp tục đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tổ chức và quản lý doanh
nghiệp theo u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đó là cơ sở và điều kiện để DNNN
duy trì vai trị chủ đạo của mình.
Trong điều kiện ngày nay sự quản lý của Nhà nước XHCN nhằm sửa chữa
”những thất bại của thị trường’’, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân
cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển
theo định hướng XHCN (bàn tay vô hình của Nhà nước). Vai trị quản lý của nhà nước
XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu
quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội.

2. Một số kinh nghiệp của một số nơi.
a. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.

• Ở Malaixia (1) :
Malaixia là một nước đang phát triển. Vào năm 1957, sau khi giành được độc
lập, Malaixia đã có 23 DNNN trong các ngành dịch vụ công cộng, giao thông, thông tin
liên lạc, nơng nghiệp và tài chính. Vào cuối những năm 60, Chính phủ Malaixia ban
hành ‘’Chính sách kinh tế mới’’. Nội dung của chính sách này là tăng cường sự can
thiệp của Chính phủ vào phát triển kinh tế, với chính sách kinh tế mới Malaixia đã phát
triển mạnh khu vực DNNN trong ngành thương mại và công nghiệp. Mục tiêu mở rộng
DNNN trong những năm 60 chủ yếu nhằm phát triển kinh tế vùng.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1966-1970) chi tiêu của Chính phủ dành cho
DNNN là 1,4 tỷ đơ la, chiếm 32% tồn bộ chi tiêu công cộng. Trong kế hoạch 5 năm lần
thứ 2 (1971-1975) con số này là 3,9 và 40%.



KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Xu hướng mở rộng phát triển DNNN tiếp tục duy trì, trong kế hoạch 5 năm lần
thứ 3 (1976-1980) chi tiêu cho DNNN là 12 tỷ đô la và chiếm 48% chi tiêu công cộng.
Các DNNN được thành lập nhiều trong ngành công nghiệp nặng; trong kế hoạch 5 năm
lần thứ 4 (1981 – 1985) con số này tăng lên là 30 tỷ và 50%.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1986 – 1990) các DNNN được nhà nước kế
hoạch hóa và quản lý chi tiêu gọi là các DNNN phi tài chính. Các DNNN phi tài chính
với cổ phần của Nhà nước chiếm hơn 50% và doanh thu hơn 5 tỷ được liệt vào hoạt
động của khu vực công cộng. Vào năm 1986, các DNNN phi tài chính đóng góp 24%
GDP, trong đó tất cả các DNNN đóng góp 30%. Nếu khơng tính nơng nghiệp, DNNN
đóng góp 40% GDP.
Ở Malaixia DNNN có 3 loại, được phân theo cách phân loại của Liên Hiệp Quốc,
tức là: 1) Doanh nghiệp hành chính sự nghiệp; 2) Doanh nghiệp công cộng; 3) Doanh
nghiệp sở hữu Nhà nước.
Hiệu quả hoạt động của các DNNN ở Malaixia, đặc biệt là của DNNN phi tài
chính và DNNN hoạt động vì mục đích xã hội rất kém, tỷ lệ các DNNN hoạt động thua
lỗ cao, trong ngành dịch vụ và ngành cơng nghiệp, DNNN hoạt động khơng có hiệu quả
bằng các ngành khác.
Đến năm 1988, tình hình họat động của các DNNN cũng không thay đổi. Trong
tổng số 770 DNNN được điều tra về lãi và lỗ, chỉ có 387 doanh nghiệp hoạt động có lãi
với tổng lợi nhuận là 4,868 tỷ đôla và 383 doanh nghiệp làm ăn thua lỗ 5.610 đôla. Phần
lớn doanh nghiệp bị thua lỗ là doanh nghiệp có quy mơ lớn và ở trong công nghiệp
nặng.
Nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN ở Malaixia là yếu kém trong
quản lý, kiểm soát và kế hoạch của Chính phủ, những mục tiêu trái ngựơc nhau của các
DNNN, thiếu sự linh hoạt trong môi trường kinh tế. Malaixia đang tiến hành cải cách

trong công tác kế hoạch hoá, bỏ những cản trở về nguồn nhân lực, giảm can thiệp Chính
phủ, cải thiện mơi trường hoạt động kinh doanh. Gần đây hệ thống khuyến kích theo cơ
chế thị trường được áp dụng trong việc lập chính sách cho các DNNN.
*Ở Trung Quốc (2):
Giống như các nước XHCN khác, tỷ trọng của khu vực DNNN trong nền kinh tế
quốc dân ở Trung Quốc rất cao. DNNN giữ vị trí chủ đạo, hoạt động của DNNN theo cơ
chế tập trung quan liêu tỏ ra rất kém hiệu quả. Trung Quốc đã tiến hành cảI cách khu
vực DNNN vào cuối những năm 70.
Từ năm 1978 đến nay, cuộc cải cách các DNNN ở Trung Quốc có thể chia thành
3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1978 đến 1984) là giai đoạn Trung Quốc tập trung
vào thay đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nội dung chính của cải cách trong giai
đoạn này là trao quyền tự do cho các DNNN. Cải cách này đã biến doanh nghiệp từ một
tổ chức hành chính của Chính phủ thành một đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ. Tuy nhiên việc mở rộng quyền tự chủ của các DNNN khơng mang lại kết quả
gì về mặt thu nhập tài chính cho Nhà nước, thu nhập tài chính của Nhà nước trong vịng
4 năm gần như khơng tăng.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Giai đoạn thứ hai (từ năm 1984 đến 1991) là giai đoạn cải cách tồn diện
DNNN. Nội dung chính của cải cách trong giai đoạn này là giao quyền tự chủ về tài
chính cho DNNN. Năm 1986, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chế độ khoán doanh
nghiệp. đến năm 1988 những doanh nghiệp nhận thầu chiếm 78% tổng số doanh nghiệp
trong nước và chiếm 96% số doanh nghiệp ở Bắc Kinh, Việc thực hiện chế độ khốn có
tác dụng kích thích tính tích cực sản xuất kinh doanh trong các DNNN, làm cho sản xuất
tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên sau một thời gian cải cách, thuế nộp cho Nhà nước khơng

tăng nếu tính cả yếu tố lạm phát. Một điểm quan trọng của việc thực hiện chế độ khoán
là doanh nghiệp xem nhẹ đầu tư phát triển dài hạn, DNNN ln có xu hướng dùng lợi
nhuận cho tiêu dùng trong thời gian hiện tại. Chế độ khoán đã bộc lộ những hạn chế cần
được điều chỉnh.
Giai đoạn thứ ba từ năm 1992 đến nay là giai đoạn xây dựng cơ chế kinh tế thị
trường, xây dựng quy chế xí nghiệp hiện đại phù hợp với nhu cầu của cơ chế kinh tế thị
trường XHCN, tạo môi trường cho DNNN trở thành một tổ chức pháp nhân độc lập và
một đối tượng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong giai đoạn này
Trung Quốc đã tiến hành cổ phần hoá hàng lọat các DNNN. Đến cuối năm 1993, số
DNNN tiến hành cổ phần hóa là 3.800.
Sau gần 20 năm cải tổ, DNNN ở Trung Quốc giảm đáng kể về số lượng và tỷ
trọng trong GDP. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của DNNN vẫn là một vấn đề đáng lo
ngại. Năm, 1994, Trung quốc có tới 45,9% DNNN làm ăn thua lỗ với tổng số tiền lỗ là
34,4 tỷ nhân dân tệ (NDT).
Việc cải cách các DNNN ở Trung Quốc vẫn còn là vấn đề đang nổi cộm, Những
vẫn đề đặt ra đối với việc cải tổ khu vực DNNN cũng là những vấn đề cần phải nghiên
cứu và giải quyết ở Việt Nam.

b. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước:
* Ở ĐăkLăk (3):
DNNN tỉnh ĐăkLăk những năm vừa qua đã có những biến đổi đáng kể, tính đến
nay có 111 DNNN thuộc tỉnh quản lý. Tình hình hoạt động thích ứng được với cơ chế
thị trường, tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động kém hiệu quả, bị thua lỗ trong sản xuất
kinh doanh, nhìn chung chưa có tính ổn định. Qua đó cho thấy: cơ chế bao cấp đã ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, trong khi đó bộ máy
chỉ đạo của các doanh nghiệp cồng kềnh, chi phí quản lý quá lớn, cơ cấu chủng loại sản
phẩm còn nghèo nàn, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là cà phê, cao su, gỗ…
Để DNNN giữ được vị trí chủ đạo thực sự, Nhà nước cần phải củng cố để có
được sự phát triển đúng hướng, phục vụ tốt cho q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
của Tỉnh trong những năm tới. Việc triển khai sắp xếp doanh nghiệp theo chỉ thị

500/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã thực hiện được cơng tác quy hoạch tổng thể, sắp
xếp lại doanh nghiệp theo ngành kinh tế kỹ thuật gắn với lãnh thổ phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và sự kiểm tra giám sát của các cơ quan chức
năng Nhà nước về mơ hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp rất đa
dạng. Do vậy đã làm cho quá trình sản xuất, lưu thơng hàng hố được mở rộng, đồng
thời doanh nghiệp được tự chủ và chịu trách nhiệm về kinh tế hoặc sản xuất kinh doanh
của mình, đầu tư mở rộng quy mơ sản xuất kinh doanh thơng qua các hình thức liên


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, cung ứng các dịch vụ về kinh tế kỹ
thuật, thu mua sản phẩm, góp phần tạo ra bước phát triển ổn định cho nền kinh tế của
tỉnh. Sau khi thực hiện phương án sắp xếp DNNN của tỉnh hiện nay toàn tỉnh gồm có
122 doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói sự tồn tại của DNNN là một tất yếu khách quan, DNNN
được sử dụng như một cơng cụ điều tiết của Chính phủ, vừa làm chức năng chính trị và
xã hội, vừa đảm bảo cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã hội phát triển cơng bằng
và ổn định. DNNN góp phần thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Chương II

THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH QUẢNG NGÃI
I. THỰC TRẠNG CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG CẢ
NƯỚC.
Hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương và giải
pháp tích cực nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hệ thống DNNN. Đến nay đã
giải thể 3.450 doanh nghiệp (chiếm trên 50% tổng số doanh nghiệp) chủ yếu là doanh
nghiệp địa phương quá nhỏ bé, làm ăn thua lỗ triền miên, sáp nhập 3.100 doanh nghiệp,
chủ yếu là doanh nghiệp Trung ương thành những doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn; đã
tổ chức lại các Liên Hiệp xí nghiệp thành tổng Cơng ty 91 và 77 Cơng ty 90. Xây dựng
thí điểm một số tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước trên cơ sở các tổng Cơng ty 91, cổ
phần hố 1.012 DNNN và đa dạng hoá sở hữu (giao, bán, khoán, cho thuê) 65 DNNN.
Nhờ sẵp xếp lại đã nâng được một bước trình độ tập trung hố và chun mơn
hố doanh nghiệp. Số vốn bình qn mỗi DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng lên tớI 22,4 tỷ
đồng. Số doanh nghiệp vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% xuống cịn 26%, số doanh
nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% DNNN đã tập trung hơn vào những
ngành, những lình vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. tỷ trọng sản phẩm do các
DNNN tạo ra trong GDP tăng từ 35,6% năm 1991 lên 40,7% năm 1999. Cùng thời kỳ
này, tỷ lệ nộp ngân sách tăng từ 14,7% lên 27,9%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước
tăng từ 6,8% lên 12,31%. Năm 2000 các DNNN tạo ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị
xuất khẩu đóng góp 39,25% tổng nơp ngân sách Nhà nước. Các tổng Cơng ty Nhà nước
có tới 1.392 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số DNNN,
nắm giữ 66% về vốn, 61% về lao động trong tồn khối DNNN. Trong đó, riêng 17 tổng
Cơng ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên hạch tốn độc lập bằng 9% số DNNN,
chiếm 56% tổng số vốn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, so vớI yêu cầu trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hệ thống DNNN cịn nhiều yếu kém và bất cập.
Quy mơ doanh nghiệp còn nhỏ bé dàn trải trên hầu hết các ngành, nghề và địa
phương phân tán về vốn, trong khi vốn Nhà nước rất hạn chế. Tính đến nay, trong số
5.655 DNNN, kể cả hàng trăm DNNN mới đã thành lập trong những năm gần đây, số
doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%, số doanh nghiệp vốn trên 10 tỷ đồng
chiếm 20,89%, ở các địa phương hơn 30% số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng. Tình

trạng phổ biến là các doanh nghiệp thiếu vốn nghiêm trọng.
Trình độ kỹ thuật, cơng nghệ các doanh nghiệp cịn lạc hậu. Ngồi một số ít
doanh nghiệp được trang bị kỹ thuật hiện đại hoặc trung bình, đại bộ phận doanh nghiệp
máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất còn lạc hậu so với thế giới từ 10 – 20 năm, các
ngành như ngành cơ khí tới 30 năm, thậm chí có 38% số này ở dạng thanh lý. Do tình
trạng máy móc như vậy nên chưa tạo được nhiều sản phẩm mũi nhọn cho quốc gia, khả
năng cạnh tranh thấp. Một số mặt hàng trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng, …
có mức giá cáo hơn mặt hàng cùng loại nhập khẩu từ 20-40%, cá biệt mặt hàng đường
thô cao hơn tới 70-80%. Chỉ khoảng 15% sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu. Tình hình


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

này đang là một thử thách rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ta trong bối cảnh tồn
cầu hố mạnh về kinh tế.
Một tình trạng khá phổ biến là số lao động dơi dư trong các doanh nghiệp khá
lớn, ước tính tổng số lao động khơng có việc làm ở các DNNN tới khoảng 10 vạn người
có tên trong danh sách nhưng đang nghĩ chờ việc hoặc tự bỏ, tự tìm việc ở nơi khác.
Công nợ tại các doanh nghiệp quá lớn, theo số liệu kiểm kê năm 2000, tổng số nợ
phải trả của DNNN tới 194.841 tỷ đồng, bằng 15,23% tổng số vốn nhà nước trong các
DNNN, trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó địi là: 2.748 tỷ đồng. Mặc dù
ngân sách nhà nước luôn thiếu hụt, song nhà nước đã phải dành ra một khoảng vốn lớn
hổ trợ cho các doanh nghiệp thơng qua nhiều hình thức như đầu tư trực tiếp, cấp bổ
sung vốn lưu động, bù lổ, miễn trả thuế, xoá nợ, khoanh nợ, giảm nợ giảm thuế khấu
hao, cho vây vốn tín dụng ưu đãi …trong 10 năm lại đây tới gần 127.000 tỷ đồng.
Thực hiện chủ trương đa dạng sở hữu một số DNNN khơng cần thiết 100% vốn
nhà nước cịn chậm. Đến nay cả nước mới chỉ cổ phần hoá được 1.012 doanh nghiệp,
giao, bán, khốn hoăc cho th cịn khá nhiều.

II. THỰC TRẠNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NGÃI .

1. Tổng quan về tình hình kinh kế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi
a. Vị trí địa lý:
Quảng Ngãi là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của miền trung
(Thừa Thiên Huế - Đà Nẳng - Quảng Nam-Quảng Ngãi) .Diện tích tự nhiên tồn tỉnh
5.135,2 km2 dân số trung bình năm 2003 là 1245,8 nghìn ngườI, chiếm 1,76% diện tích
và 1,6% dân số của cả nước.
Về hành chính, Quảng Ngãi hiện tại có một thị xã, 6 huyện miền núi, 6 huyện
đồng bằng ven biển, 1 huyện đảo ( Lý Sơn). Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 129 km,
ngồi khơi có đảo Lý Sơn và một số đảo nhỏ khác, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía
nam giáp tỉnh Bình Định, phía tây giáp tỉnh Kontum và Gia Lai, phía đơng giáp biển .
Ở trung độ đất nước, Quảng Ngãi nằm giữa hai thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc,
Quy Nhơn ở phía Nam, Quảng Ngãi có đường quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất chạy
qua tỉnh; quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Kontum và Hạ Lào, đây là một tuyến giao
thông quan trong đối với Kontum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa
Duyên Hải và Tây Nguyên. Trong tương lai sân bay Chu Lai được xây dựng sẽ là điều
kiện thuận lợi cho Quảng Ngãi giao lưu hàng hoá, phát triển kinh tế xã hội gắn với an
ninh quốc phịng.
Phía bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn đã và đang hình thành khu kinh tế tổng hợp
Dung Quất, trong khu này có cảng nước sâu Dung Quất khu cơng nghiệp lọc hố dầu và
các khu cơng nghiệp khác, khu đơ thị mới Vạn Tưịng, đây sẽ là khu kinh tế lớn của đất
nước ở Miền Trung.
b. Khí hậu:
Năm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nên nhiệt độ cao và ít biến động.
Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú nhiệt độ trung bình năm trên 250c. Bình quân 4


KHOA MÁC – LÊNIN


GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

năm có một cơn bão hoặc ấp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Ngãi,
thường gây nên lũ lụt. Tổng lượng bức xạ trong năm lớn tới 1400-1500Kcal/năm; số giờ
nắng khoãng 2000giờ/năm.
Khí hậu Quảng Ngãi với lượng bức xạ lớn thuận lợi về phơi sấy, sử dụng năng
lượng mặt trời trong công nghiệp chế biến Nông Lâm Sản làm muối sản xuất điện năng.
Tuy nhiên do địa hình dốc, mưa tập trung theo mùa vào tháng 9,10,11 và 12 hàng năm
nên thường xuyên bị lũ lụt làm ảnh hưởng sản xuất, thiệt hại về người và vật chất cho
nhân dân trong vùng.
c. Khái quát về kinh tế -xã hội:
Trải qua một thập kỷ, từ một tỉnh nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, chúng ta đã
cố gắn phát triển một cách toàn diện, cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế và xã hội được tăng
cường đời sống nhân dân từng bước được cải thiện số hộ đói nghèo giảm đáng kể. Nền
kinh tế từng bước được ổn định và phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng khá so với
mức bình quân chung cả nước. Đặc biệt từ năm 2002 trở lại đây tốc độ phát triển kinh tế
tăng ở “ 2 con số “. (Năm 2002: 10,6 %; năm 2003 : 10,3%; ước thực hiện năm 2004 :
11- 11,5 % ). Năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 420.000 triệu đồng.
GDP bình quân đầu người tăng năm 2002 là 2,628 triệu đồng (192 USD), năm
2003 là 3,562 triệu đồng (230 USD), ước thực hiện 2004 khoảng 3,838 triệu đồng (246
USD) thể hiện bằng bản như sau:
Chỉ tiêu
-Tốc độ phát triển kinh tế ( GDP )

Đơn vị
%

2002
10,6


-GDP bình quân đầu người

Tr.đồng

2,628

2003
Ước 2004
10,3
11 – 11,5
3,562

3,838

(Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi )
Cùng với sự tăng trưởng là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng
giảm tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp –xây dựng và
dịch vụ, cụ thể:
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
-Tổng sản phẩmGDP:
+Nơng-Lâm-Ngư nghiệp
+Công nghiệp-xây dựng
+Dịch vụ

2001

2002
100


100

2003
100

38,80
22,20
39,00

38,66
23,43
37,91

36,70
24,60
38,70

(Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi )
Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế cịn chậm, tỷ trọng nơng-Lâm-Ngư
nghiệp cịn cao, tỷ trọng cơng nghiệp –xây dựng cịn ở mức thấp.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngày càng được hoàn thiện, hằng năm
tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29-30 ngàn lao động, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo 23,7% (miền núi 50,1%) năm 2001


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI


xuống cịn 14,8% (miền núi 41%) năm 2003, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững.
Mặc dù tốc độ tăng trương kinh tế của tỉnh hằng năm tăng cao hơn so với tốc độ
tăng trương kinh tế của cả nước và một số tỉnh trong vùng Duyên Hải Trung Trung Bộ
cũng như vung kinh tế trọng điểm miền Trung nhưng do điểm xuất phát của nền kinh tế
tỉnh cịn thấp nên GDP bình qn đầu người qua các năm xấp xỉ một số tỉnh điều kiện
tương tự như: Quảng Nam, Quảng Trị, Phú Yên và chỉ bằng 47,2% so với bình qn cả
nước. Bên cạnh đó, việc triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 chậm tiến độ đã ảnh
hưởng đến tốc độ tăng tưởng của khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ làm cho
cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm. Năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn
tỉnh đạt 420.000 triệu đồng.

2. Thực trạng DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi :
Hầu hết các DNNN thuộc tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành từ thời quản l ý tập
trung bao cấp, phát triển tràn lan thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ bé, thiết bị lạc hậu. Qua
các đợi sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT từ 155 DNNN thuộc
tỉnh quản lí đến năm 1996 cịn 63 doanh nghiệp, trong đó có 61 DNNN được đăng ký lại
theo Nghị định 388/HĐBT và các DNNN sau khi sắp xếp đã có bước tăng trưởng khá
về doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách …Đến năm 1998 tỉnh chỉ còn 43 doanh nghiệp.
Cuối năm 2003, sau khi thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg của Thủ Tướng Chính
phủ, số lượng DNNN của tỉnh đã giảm từ 43 doanh nghiệp xuống còng 34 doanh nghiệp
( năm 2003) nhưng thực chất chỉ còn 32 doanh nghiệp hoạt động (2 doanh nghiệp ngưng
hoạt động đang làm thủ tục giải thể), 16 DNNN trung ưong và 60 chi nhánh DNNN
Trung ương trên địa bàn Tỉnh.
DNNN được thành lập để cung cấp hàng hố và dịch vụ cơng cộng, là bộ phận
quan trọng của nền kinh tế, chiếm giữ tỷ phần lớn trong các ngành mũi nhọn, trọng yếu
nhất của nền kinh tế, giữ vị trí then chốt. Có tác dụng điều chỉnh sự cân bằng của nền
kinh tế. Bên cạnh đó, DNNN cũng được thành lập để thực hiện những mục tiêu xã hội
như tạo công ăn việc làm, khắc phục sự mất cân bằng về phát triển kinh tế vùng, đồng
thời có mối quan hệ thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Điều đó sẽ được

chứng minh bằng các chỉ tiêu kinh tế -xã hội cụ thể của tỉnh như sau:

Chỉ tiêu

2001

2002

2003


KHOA MÁC – LÊNIN

I.Tổng sản phẩm GDP
Trong đó :
- Kinh tế nhà nước
+ Trung ương quản lý
+ Địa phương quản lý
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiêu chủ
- Tư bản tư nhân
- Tư bản hổn hợp
- Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi
II.Tổng thu ngân sách nhà nước
Trong đó :
- Thu từ kinh tế quốc doanh
+ Trung ương
+ Địa phương


GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

3.390.887

3.953.948

4.404.862

850.211
515.156
335.055
419.354
2.005.942
44.661
63.408
2.039

1.000.034
613.603
386.431
460.881
2.346.941
79.599
37.700
2.180

1.340.012
803.850
536.162
500.235

2.439.620
82.075
40.305
2.615

200.000

220.000

420.000

67.920
15.260

71.984
17.079

93.881
19.689

(Nguồn: Cục thống kê tỉnh Quảng Ngãi)
Qua danh mục trên cho ta thấy tổng sản phẩm kinh tế quốc dân luôn tăng
lên qua các năm, trong 6 thành phần kinh tế thì riêng kinh tế quốc doanh chiếm 30,4%
trong tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Bên cạnh đó hằng năm tỉ lệ đóng góp trong ngân
sách nhà nước của kinh tế quốc doanh cũng tăng lên. Điều đó sẽ cho ta thấy được một
loạt các vấn đề xã hội được điều chỉnh theo hướng tích cực như: Lao động được giải
quyết, việc làm tăng (hằng năm tạo việc làm và thêm việc làm mới cho khoảng 29 - 30
ngàn lao động) đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, giảm tỉ lệ hộ nghèo từ
23,7% xuống còn 14,8% năm 2003. Cụ thể hơn, đươc thể hiện qua tình hình hoạt đơng
của DNNN trên địa bàn Tỉnh như sau :


a. Hình thức tổ chức và tình hình hoạt động của DNNN trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
+ Về phát triển công nghiệp của DNNN:
DNNN hoạt động mạnh trong lãnh vực công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
sản phẩm công nghiệp của tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá trị so sánh
1994) đạt 1.164.000 triệu đồng thì cơng nghiệp quốc doanh đạt 775.000 triệu đồng (tăng
22,45% so với năm 2002). Trong đó cơng nghiệp quốc doanh Trung ương đạt 731.500
triệu đồng (tăng 23,31% so với năm 2002) công nghiệp quốc doanh địa phương đạt
43.500 triệu đồng tăng (tăng 9,57% so với năm 2002) sản phẩm công nghiệp dần tăng
cao về số lượng, chủng loại chất lượng, tiêu biểu:
- Năng lực chế biến hải sản đạt 5.000 tấn /năm.
- Công suất chế biến mía đường đạt 4000 tấn/ngày. Nhu cầu nguyên liêu mía từ
750.000 tấn – 800.000 tấn/năm và mở rộng đầu tư các tỉnh Gia Lai, Kontum công suất
2.500 tấn/ngày.
- Số lượng thiết bị sản xuất hàng may mặc xuất khẩu từ 4 chuyền lên 16 chuyền.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

- Sản lượng điện hằng năm từ 65 triệu KWh lên mức 200 tri ệu KWh.
- Về chế biến lâm sản: sản lượng gổ khai thác năm 2002 đạt 57.943 m3 chủ yếu
là gổ rừng trồng. Quảng Ngãi đang nghiên cứu quy hoạch phát triển nhiều loại cây công
nghiệp như: cao su, ca cao, chè …đặc biệt rừng Trà Bồng thích hợp cho việc phát triển
cây quế công nghiệp, chế biến các mặc hàng từ cây quế, còn nhiều tiềm năng mời gọi
đầu tư. Đây là một điều kiện và đông lực để phát triển hoạt đông trong lãnh vực này.
Bảng 1: Danh mục các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp quốc doanh.
Các sản phẩm chủ yếu

Xi măng
Đá xây dựng các loại
Đường RS
Điện thương phẩm
Bánh kẹo các loại
Nước khống
Bia
Thuỷ sản đơng lạnh xuất khẩu
Tinh bột mỳ
Gạch các loại
Nước máy

Đơn vị
tính
Tấn
1000m3
Tấn
1000kwh
Tấn
1000lít
1000lít
Tấn
Tấn
1000v
1000m3

2001

2002


12.200
327
37.867
160.000
2.864
19.921
14.158
2.681
15.000
145.737
3.990

45.000
400
40.000
180.000
3.500
24.000
18.000
36.000
22.000
170.000
8.000

2003
50.000
500
47.000
210.000
3.800

23.500
20.000
3.600
25.000
200.000
9.000

(Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Ngãi )
- Nhiều cơng trình nhà máy đựoc đầu tư mới, đầu tư bổ sung, góp phần tạo nhiều
giá trị và sản phảm như: nhà máy nước khống, nhà máy khí cơng nghiệp, nhà máy gạch
Bình Ngun (Cty An Ngãi), xương nuớc quả đóng hộp (vilex), nhà máy bia, nhà máy
bánh kẹo, nhà máy sữa, nhà máy tinh bột mỳ.
Đến nay tính đã hình thành và phát triển 3 khu công nghiệp: khu công nghiệp
Tịnh Phong, khu công nghiệp Quảng Phú, khu công nghiệp Dung Quất. Là điều kiên
thuận lợi, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ góp phần giải quyết
việc làm cho nhân dân, củng cố đời sống cho nhân dân tỉnh, thu hút vốn đầu tư từ nhiều
nguồn khác nhau là động lực phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
- Đối với khu công nghiệp Tịnh Phong: hiện đã có 11 dự án được cấp giấy phép,
tổng vốn đầu tư 96 tỷ đồng, diện tích chiếm đất 18 ha.
- Đối với khu công nghiệp Quảng Phú: hiện có 25 dự án đang hoạt động tổng
vốn đầu tư 827 tỷ đồng, tổng diện tích chiếm đất là 40 ha.
- Đặc biệt khu công nghiệp Dung Quất là trung tâm lọc hoá dầu cảng biển nước
sâu, nơi thu hút nhiều nhà đầu tư, triển khai nhiều dự án có quy mô lớn mang tầm cở
quốc gia và khu vực, với diện tích 10.300 ha. Thực sự lợi thế cho sự vươn lên phát triển
kinh tế của Quảng Ngãi và là động lực thúc đẩy sự phát triển của miền Trung nhằm từng
bước rút ngắn sự cách biệt về phát triển so với hai đầu đất nước.
Hiện nay Dung Quất đang thực sự hình thành quy mơ 1 khu kinh tế, với nhiều
dự án đầu tư quan trọng, nhất là nhà máy lọc dầu số 1 (Công suất 6,5 triệu tấn/năm).Đến
cuối năm 2003 tổng số dự án được cấp giấp phép đầu tư vào khu công nghiệp Dung
Quất là 33 dự án, tổng vốn đầu tư là 28.000 tỷ đồng. Hiện nay có 10 dự án đi vào hoạt



KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

động sản xuất, 10 dự án đang xây dựng, còn lại đang triển khai các thủ tục đền bù và
chuẩn bị thi công, giải quyết trên 2.000 lao động.
Đến nay các cơng trình hạ tầng ngoài hàng rào Nhà máy lọc dầu số 1 và khu
cơng nghiệp đã cơ bản hồn thành và đang tiếp tục đầu tư, chuẩn bị đầu tư, phục vụ
ngay cho quá trình Xây dựng, vận hành các nhà máy trong khu công nghiệp ( vớI 60,96
km giao thông ), bến cản chuyên dùng cho tàu 10.000 tấn, xây dựng nhà máy nước
15000 m3/ngày đêm; cấp điện, bưu điện Dung Quất với tổng đài điện tử 512 số) hiện đã
có 2 trạm biến áp 110 và 220 KV tại Dung Quất và Dốc sỏi theo tổng sơ đồ 5 trình
Chính phủ phê duyệt, thì từ nay đến hết 2005 tại Dung Quất sẽ có trạm BA 500 KV và
đường dây cao thế 500 KV Playcu – Dung Quất (là giai đoạn hai của dự án mạch 500
KV thứ hai đất nước - giai đoạn một đường đây 500 KV Plâycu – Phú Lâm sắp hồn
thành ).
Tóm lại khu cơng nghiệp quốc doanh có 1 đóng góp tích cực về mặt xã hội là đã
giải quyết được 5.398 lao động, đã làm giảm bớt nổi lo của Đảng và nhà nước ta nói
chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Song, thực trạng phát triển công nghiệp của kinh tế
quốc doanh còn chậm, chưa vững chắc. Trong giai đoạn này giá trị sản xuất của ngành
còn phụ thuộc nhiều vào giá trị sản xuất cuả công ty đường nhưng hiện nay sản phẩm
đường đang gặp khó khăn trên thị trường, do đó chất lượng và giá cả cịn hạn chế trong
cạnh tranh đối với các sản phẩm cùng loại và các sản phẩm thay thế. Nguồn nguyên liệu
mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% cơng suất chế biến.
Bên cạnh đó việc triển khai dự án nhà máy lọc dầu số 1 chậm so với kế hoạch đề
ra nhất là gói thầu 5a và gói thầu số 1 là gói thầu chính của nhà máy. Hiện nay đã chậm
khoảng 5-6 tháng và nếu khơng có giải pháp tích cực thì khả năng cuối 2005 nhà máy
mới hoàn thành. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ phát triển của cả khu công

nghiệp Dung Quất và nền kinh tế của tỉnh.
+ Về đầu tư phát triển xây dựng:
Trong những năm vừa qua DNNN đã hồn thành nhiều cơng trình cho tỉnh góp
phần làm hiện đại hơn cơ sở hạ tầng cho tỉnh nhà.
Bảng 2: Danh mục dầu tư cơ bản của DNNN
2001
946.526

2002
1.255.415

2003
1.523.689

-Vốn nhà nước đầu tư
vào xây dựng
Trong đó:
- Vốn ngân sách nhà nước
347.992
423.400
493.012
+Trung ương
160.651
126.415
142.023
+ Địa phuong
187.271
296.985
350.989
- Vốn tín dụng

185.429
172.015
159.201
- Vốn tự có của DNNN
413.175
660.800
871.476
Vốn nhà nước đầu tư vào xây dựng tăng lên qua các năm, trong đó là do vốn
ngân sách nhà nước và vốn tự có của DNNN tăng; vốn tín dụng giảm. Điều đó chứng tỏ
năng lực cuả DNNN tăng lên.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Đến nay đã có 177/179 xã có đường ơtơ đến trung tâm xã, đã có 100% tuyến
đường trung tâm huyện đến các xã đồng bằng được nhựa hoá, đua vào sử
dụng 10.885 km đường giao thơng; trong đó cứng hố, nhựa hố 808,5
km, bê tơng hố hơn 200 km, hàng trăm cầu cống được xây dựng. Nâng
cấp và làm mới đưa vào sử dụng 38 cơng trình thuỷ lợi (tổng cơng suất
tưới hơn 2070ha); nâng cấp trên 50 km tuyến kênh chính và kênh cấp 2
thuộc cơng trình thuỷ lợi Thạch Nham; kiên cố hoá 137 km tuyến kênh
mương nội đồng; đưa trung tâm y tế Đức Phổ sử dụng với 150 giường
bệnh, xây dựng trên 1000 phòng học ở các địa phương.
Về điện đã nâng cấp, cảI tạo, mở rộng và xây dựng mới, nhiều trại biến áp 35
KV ở hầu hết các huyện trong tỉnh, xây dựng trạm điện diezel tại Lý Sơn và củng cố các
nguồn diezel dự phòng tại chỗ. Mạng lưới điện nông thôn phát triển, cung cấp điện cho
sản xuất và sinh hoạt ở 131 xã, phường, đạt tỷ lệ 73,2% so vớI tổng số xã, phường tồn
tỉnh, mức tiêu thụ địên bình qn đạt 127 KWh/người/ năm.

Hiện tỉnh đang tiến hành xây dựng các dự án trọng điểm như: dự án đường Trà
Bồng –Trà Phong; Cầu cộng hoà; dự án bảo tàng tổng hợp, dự án bệnh viện đa khoa
mới .
Tuy nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước vốn tự có của DNNN có tăng
hằng năm nhưng chưa đủ mạnh tác động thúc đẩy nhanhj chuyển dịch cơ cấu kinh tế
.cón nhiều mặt hạn chế trong công tác quản lý lãnh đạo như: xét đơn ký -duyệt phải qua
nhiều cửa, nhiều khâu, trang thiết bị máy móc lạc hậu, đa phần là được “ hậu sử dụng “
của các nước phat triển thanh lý lại. thường là chậm hơn từ 3 đến 4 lần thế hệ, cịn gặp
khó khăn trong việc giải toả mặt bằng (như người dân không chịu tách rời nhau do
truyền thống thương yêu, đùm bọc của ngườidân Quảng Ngãi …).
+ Về phát triển Thương mại -dịch Vụ của DNNN:
DNNN hoạt động Thương mại khá, đảm bảo nhu cầu cung ứng hàng hoá trong
tỉnh. Năm 2003 giá trị sản xuất thương mại, du lịch và khách sạn nhà hàng đạt 142.620
triệu đồng, trong đó Trung ương đạt 52.083 triệu đồng, địa phương đạt 90.537 triệu
đồng. Hoạt động vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế xã hộI của tỉnh.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá năm 2003 đạt 462.960 triệu đồng (năm 2001: 298.219
triệu đồng; năm 2002: 386.515 triệu đồng). Trong đó Trung ương đạt 161.967 triệu
đồng, địa phương đạt 300.993 triệu đồng. Doanh thu du lịch tăng từ 16.950 triệu đồng
lên 19.692 triệu đồng năm 2003.
Song, tuy thương mại quốc doanh hoạt động có phần tăng trưởng hơn các năm
trước nhưng còn yếu, chưa chi phối được các thành phần kinh tế khác, chiếm tỷ trọng
quá nhỏ trong tổng mức bán lẻ hàng hố và dịch vụ tồn tỉnh. Hoạt động du lịch còn
đơn điệu, chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là du lịch sinh thái, văn hoá.
Về bưu chính viễn thơng đã thể hiện được vai trị chủ đạo, phát triển mạnh theo
hướng hiện đạI hoá. Đã xây dựng được cơng trình tổng đài điện tử kỹ thuật, hệ thống
truyền dẫn cáp xuyên việt, hệ thống vi ba số và vi ba nộI tỉnh, Bưu điện Dung Quất…
đáp ứng nhu cầu thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và nhân dân. Đến nay, có
91,1% xã, phường sử dụng máy điện thoạI, bình quân đạt 2,05 máy/100dân



KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Các dịch vụ ngân hàng củng đã thể hiện được vai trò chủ đạo của mình, thúc đẩy
được các thành phần kinh tế khác phát triển .Năm 2003 các dịch vụ ngân hàng đã đáp
ứng được 86% nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, tăng 28 % so vớI năm 2000.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 11.119 ngàn USD,năm 2003 tăng lên 16.006
ngàn USD, kim ngạch nhập khẩu giảm từ 9.033 ngàn USD năm 2002 xuống còn 6500
ngàn USD năm 2003
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Bạch Đàn, đá xây dựng, đường RS …
hoạt động xuất khẩu có sự chuyển biến khá tích cực trong giai đoạn này,lần đầu tiên sau
nhiều năm tỉnh đã đạt được kim ngạch xuất khẩu “ 2 con số “. Tuy vậy giá trị vẫn cịn
nhỏ bé.Thiết bị cơng nghệ lạc hậu chưa đủ sức để đầu tư các công nghệ hiện đại, chưa
mạnh dạng tìm kiếm thị trường. Bên cạnh đó sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà
nước cho các doanh nghiệp cịn q ít trong cơng tác xuất nhập khẩu , tìm kiếm thị
trưịng …
+ Về Nơng-Ngư-Lâm nghiệp:
Năm 2003 giá trị sản xuất nông nghiệp của DNNN đạt 15.246 triệu đồng.
Sản lượng mía cây giảm qua các năm do tình hình giá cả thị trường giảm nên
nơng dân chuyển sang canh tác loại khác làm ảnh hưởng đến năng xuất và chất lượng
hoạt động chế biến thực phẩm sau đường của cơng ty đường Quảng Ngãi .Nguồn
ngun liệu mía hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 60% công suất chế biến cho 2 nhà máy
trong tỉnh.
Cây cao su, cây quế, dâu tằm được tập trung phát triển nhưng chất lượng và hiệu
quả chưa cao. Đến năm 2003 diện tích cao su khoảng 1400 ha, quế gần 4200 ha, sản
lượng vỏ quế khai thác hằng năm từ 100 đến 200 tấn, giá trị sản xuất /ha canh tác năm
2003 đạt khoảng 163 triệu đồng ,tăng 26% so với năm 2000.
Thực hiện các chương tình dự án về lâm nghiệp, trong năm qua đã trồng và chăm

sóc 15,3 nghìn ha rừng tập trung, quản lý, bảo vệ chăm sóc 49,8 nghìn ha, khoanh ni
tái sinh 31,75 nghìn ha rừng; nâng độ che phủ rừng từ 27,6% năm 2000 lên 34,9% năm
2003.Sản lượng khai thác gỗ hằng năm có xu hướng giảm, năm 2003 đạt 57.000m3
(năm 2000 đạt 63.4000m3). Do chủ trương hạn chế khai thác rừng tự nhiên nên từ năm
2000 đến nay sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên có chiều hướng giảm dần, từ 14.190
m3 năm 2000 xuống còn 7.000m3 năm 2003. sản lượng khai thác gỗ rừng nguyên liệu
( chủ yếu là gỗ bạch đàn) giữ ở mức ổn định, ở khoảng 50.000m3.
Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2003 đạt 80.121 tấn .diện tích ni tơm năm
2000 là 804 tấn,năm 2003 tăng lên 895 tấn. Thuỷ sản đông lạnh năm 2000 là 1612 tấn,
năm 2003 tăng lên 2980 tấn. Trong giai đoạn này đã hình thành được mơ hình ni tơm
trên cát ,tuy vậy sản lượng ni trồng hằng năm tăng chậm ,tình trạng tự phát trong ni
trồng thuỷ sản cịn phổ biến ,dịch bệnh tơm chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu ,kịp
thời
Hiện nay đã và đang triển khai xây dựng các cơng trình phục vụ cho ngành thuỷ
sản như: công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Quảng Ngãi ( trước đây là xí nghiệp chế biến
thuỷ sản xuất khẩu Quảng Ngãi ), Cảng cá Sa huỳnh đang chuẩn bị triển khai xây dựng
vùng neo đậu tàu thuyền và khu dịch vụ hậu cần đảo Lý Sơn ….
+ Về hoạt động bảo vệ môi trường:


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Năm 2003 cơng ty môi trường Quảng Ngãi đã kiểm định và sửa chữa 16.406 lượt
phương tiện đo lường , 1026 sản phẩm được đăng ký quản lý chất lượng, kiểm dịch
3.272 mẫu sản phẩm các loại, thanh tra, kiểm tra tiêu chuẩn đo lường chất lượng 1.932
lượt cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện 267 cơ sở vi phạm, thanh tra môi trường 496
lượt cơ sở sản xuất kinh doanh, xử lý 47 trường hợp.
Tuy nhiên việc xử lý chất thải ở thị xã Quảng Ngãi đặc biệt là chất thải sinh hoạt,

chất thải ở các nhà máy chế biến nông sản vẫn chưa giải quyết tốt làm ảnh hưởng đến vệ
sinh sinh hoạt, sức khỏe của người dân.
* Tổng hợp kết quả hoạt động của DNNN thuộc tỉnh quản lý:
DNNN thuộc tỉnh Quảng Ngãi quản lý đến nay có số lượng là 34 doanh nghiệp
(trong đó có 2 doanh nghiệp ngưng hoạt động là: công ty dịch vụ thương mại Cẩm
Thành, công ty 19/5 ).
BẢNG 3: DANH MỤC DNNN HIỆN CÓ NĂM 2003 TRÊN ĐỊA BÀN QUẢNG NGÃI.

Số
TT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Danh mục

Địa chỉ


63 Phan Đình Phùng,
TX Quảng Ngãi
Lâm trường Ba Tơ
Ba Tơ, Quảng Ngãi
939 Quang Trung,
Cty sách thiết bị Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
48 Phan Xn Hồ,
Cty nơng thực phẩm Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
118 Lê Trung Đình,
Cty khách sạn du lịch Cẩm Thành
TX Quảng Ngãi
176 Lê Trung Đình,
Cty vận tải biển Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
khốI 8 F.Trần phú,
Cty môi trường Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
Thôn 3 ,quảng Phú,
Cty phát triển CSHT Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
số 6 Nguyễn Thuỵ,
Cty cơ khí và xây lắp Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
970 Quang Trung, TX
Cty vậ tư ytế Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
974 Quang Trung, TX

Cty dược Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
Cty khai thác cơng trình thuỷ lợI 978 quang Trung, TX
Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
Cty vật tư kỷ thụât nông lâm 94 Nguyễn chánh, TX
nghiệp Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
112 Phan Đình
Cty tư vấn xây dựng và đầu tư
Phùng, TX Quảng
Quảng Ngãi
Ngãi
Xí nghiệp vận tải ơtơ Quảng Ngãi
Phường Quảng phú,
Cty Điện ảnh Băng hình

Vốn NN
(tr. đồng)

Số LĐ
(Người)

3464

74

2155

39


1853

55

10302

286

1258

28

1389

83

3077

155

12922

812

2456

155

2095


24

3562

112

315498

275

6822

89

646

107

3423

38


KHOA MÁC – LÊNIN

16
17
18
19

20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

TX Quảng Ngãi
133 Trương Quang
Cty TNXP xây dựng NTvà MN
Trọng,TX Quảng
Quảng Ngãi
Ngãi
74Phan Đình Phùng,
Cty xổ số kiến thiết Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
17 Phan chu Trinh,
Cty cấp thoát nước Quảng Ngãi
TX Quảng Ngãi
Cty phát hành sách và VHTH 391 quang Trung,TX
Quảng Ngãi

Quảng Ngãi
982Quang Trung,TX
Cty cơng trình Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
Cty thương mại tổng hợp Quảng 451Quang Trung,TX
Ngãi
Quảng Ngãi
321Quang Trung,TX
Cty du lịch Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
Cty Nông lân sản xuất khẩu 108Quang Trung,TX
Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
Cty quản lý và xây dựng giao 494Quang Trung,TX
thông Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
431 Quang Trung,TX
Xí nghiệp in Quảng Ngãi
Quảng Ngãi
268 Trần Hưng Đạo,
Cty chế biến thuỷ sản Quảng Ngãi
TX Qngãi
Xí nghiệp bến xe khách Quảng 26 Lê Thánh Tôn,TX
Ngãi
Quảng Ngãi
Trà Tân Trà bồng
Lâm trường Trà Tân
Quảng Ngãi
504 Quang Trung,TX
Cty thương mại quảng Ngãi

Quảng Ngãi
Thị trấn Sơn Tinh
Cty thương mại tổng hợp Sơn
,Sơn Tịnh ,Quảng
Tịnh
Ngãi
Trà Bồng ,Quảng
Lâm trường Trà Bồng
Ngãi
Nông trường 24/3
Đức Phổ -QuảngNgãi
(Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư)

1788

105

3399

25

13644

84

567

26

5210


153

2300

81

6959

181

3421

75

3789

138

1596

54

4353

209

1558

44


1329

42

5305

76

953

9

486

15

112

59

Trong đó, số lượng DNNN hoạt động cơng ích 5 doanh nghiệp; DNNN hoạt
động kinh doanh 27 doanh nghiệp. Tổng vốn nhà nước đầu tư là 438.552 triệu đồng
(nếu trừ giá trị cơng trình thuỷ lợiThạch Nham là vốn DNNN thực chất chỉ là 125 tỷ
đồng) danh thu năm 2001 là 591.196 triêu đồng, đến năm 2003 tăng lên 1.329.949 triêu
đồng, lợi nhuận trước thuế năm 2001 là 9.975 triệu đồng, năm 2003 tăng lên 11.716
triệu đồng. Tổng mức nộp ngân sách cũng tăng lên, năm 2001 là 44.617 triệu đồng đến
năm 2003 là 53.461 triệu đồng. Tuy nhiên còn mặt hạn chế là số doanh nghiệp làm ăn
thua lổ còn cao (6 doanh nghiệp trong 32 doanh nghiệp đang hoạt động ) mức lổ năm



KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

2003 là 1.555 triệu đồng, lổ cộng dồn là 9.163 triệu đồng, nợ khó địi cũng tăng lên,
năm 2001 là 5.100 triệu đồng, năm 2003 là 6.694 triệu đồng. Kim ngạch xuất khẩu tăng
lên, năm 2002 đạt 2.664 ngàn USD, năm 2003 tăng lên 5.444 ngàn USD chiếm 42%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Bên cạnh đó thiết bị cơng nghệ của DNNN còn lạc hậu, thuộc thế hệ 60-70.
Những năm gần đây, một số DNNN tỉnh đã có đầu tư đổI mới công nghệ (như: công ty
môi trường Quảng Ngãi, công ty vật tư y tế, công ty cấp nước Quảng Ngãi …) nhưng
khơng đồng bộ cịn mang tính chấp vá. Tỷ lệ đổi mới hàng năm khoảng 16%. Chính vì
vậy phần lớn các đơn vị hoạt động kém hiệu quả, DNNN gần như lãi hàng năm không
đáng kể, khả năng trả nợ đầu tư khó, nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ
quyết định giải thể hoặc bán doanh nghiệp.
Bảng 4: Danh mục tổng hợp kết quả hoạt động của DNNN Tỉnh Quảng Ngãi .

Thông số
I. Tổng số doanh nghiệp
1-Số DN cơng ích
2-Số DN sản xuất kinh doanh
3-Số DN có lãi
4-Số DN lổ
II.Vốn kinh doanh
1- Vốn ngân sách nhà nước
2-vốn tự bổ sung
3-Vốn huy động các nguồn
khác
III.Tổng số lao động

Trong đó : Lao động chờ sắp
xếp việc làm
IV. Kết quả kinh doanh
- Doanh thu
- Lãi trước thuế
- Lỗ
- Lỗ cộng dồn
V.Tổng mức nộp ngân sách
VI. Tổng nợ phải thu
Trong đo nợ khó địi
VII. Tổng nợ phả trả
Trong đó : Vốn vay

ĐVT

2001

2002

DN
DN
DN
DN
DN
Triệu đồng
triệu đồng
triệu đồng
triệu đồng

32

5
27
25
7
407.746
373.476
24.521
9.749

32
5
27
27
5
423.693
377.929
25.557
20.207

32
5
27
26
6
438.552
383.166
26.626
28.760

2.678

82

2.099
86

3.708
85

591.196
9.975
2.925
8.580
44.617
132.605
5.700
242.394
2.853

659.536
9.189
1.185
8.950
49.643
82.723
7.562
183.692
2.903

1239.949
11716

1.555
9163
53.461
138.312
6.694
274.749
3.154

Người
Người
Triệu đồng
triệu đồng
triệu đồng
triệu đồng
triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
triệu đồng
Triệu đồng
triệu đồng

2003

( Nguồn: Uỷ ban nhân dân Tỉnh Quảng Ngãi)
+ với DNNN hoạt động cơng ích:
Đến năm 2003 số lượng DNNN hoạt động cơng ích trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
là 5 DN: Cty Thanh niên xung phong xây dựng nông thôn và miền núi tỉnh Quảng Ngãi,


KHOA MÁC – LÊNIN


GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Cty khai thác CTTL Quảng Ngãi, ty môi trường tỉnh Quảng Ngãi, Cty quản lý va xây
dựng giao thông Quảng Ngãi, Cty phát hành sách và VHTH Quảng Ngãi.
Hiện nay tổng vốn nhà nước của DNNN hoạt động cơng ích là: 331.469 triệu
đồng ( trong đó có vốn của Cơng trình Thạch Nham ) .Danh thu năm 2003 đạt 49.739
triệu đồng ,chiếm 3.7% trong năm 2003 đạt 1348 triệu đồng chiếm 10,6% trong tổng số
lợi nhuận của DNNN mức nạp ngân sách năm 2003 đạt 1.027 triệu đồng. Nhìn chung
trong năm qua DNNN hoạt động cơng ích đã giải quyết việc làm tỉnh Quảng Ngãi gần
100 lao động của tỉnh, góp phần làm giảm nạn thất nghiệp của tỉnh nhà.
Bảng 5 : Danh mục tổng hợp tình hình hoạt động của DNNN hoạt động cơng ích.

Thơng số
I.
Tổng số doanh nghiệp
II.
Tổng vốn kinh doanh
Trong đó :
+Vốn ngân sách
+Vốn tự bổ sung
+Vốn huy động từ các nguồn khác.
III.
Tổng số lao động
IV. Kết quả kinh doanh
+ Doanh thu
+ lãi trước thuế
V.
Tổng mức nạp ngân sách
VI. Tổng nợ phải thu

VII. Tổng nợ phải trả

Đơn vị
tính
DN
Triệu đồng

2002

2003

5
5
325.670 331.469

Triệu đồng 318.738 320.975
Triệu đồng
641
957
Triệu đồng
6.288
9534
Người
699
741
Triệu đồng
Triệu đồng
36.979 49.739
Triệu đồng
764

1.248
Triệu đồng
713
1.027
Triệu đồng
38.169
28698
Triệu đồng
35.492 36.959

(Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư)
+ Với DNNN hoạt động kinh doanh:
Hiện nay, số lượng DNNN hoạt động kinh doanh do tỉnh quản lý là 27DN ( 29
DN nhưng 2 DN ngừng hoạt động, đang làm thủ tục giải thể là: Cty Thương mại Cẩm
Thành, Cty 19/5). Tổng nguồn vốn nhà nước của DNNN hoạt động kinh doanh là:
107.083 triệu đồng. Doanh thu năm 2003 đạt 1.280.210 triệu đồng, chiếm 96,3 % trong
tổng doanh thu của DNNN thuộc tỉnh quản lý, lãi trước thuế năm 2003 đạt 10498 triệu
đồng, chiếm 89,4 % trong tổng lợi nhuận trước thuế của DNNN mức nộp ngân sách
năm 2003 đạt 52434 triệu đồng . Nhìn chung tình hình hoạt động của DNNN hoạt động
kinh doanh trong năm vừa qua có bước tăng tưởng khá ( lãi trước thuế năm 2002 chỉ đạt
8425 triệu đồng ) . Bên cạnh đó năm vừa qua đã giải quyết cho gần 1.500 lao động của
tỉnh góp phần làm giảm phần thất nghiệp của tỉnh nhà.


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI

Bảng 6: Danh mục tình hình hoạt động kinh doanh của DNNN hoạt động kinh
doanh.


TT
I.
II.

Thơng số
Tổng số DN
Tổng số vốn kinh doanh
Trong đó :
+Vốn ngân sách
+Vốn tự bổ sung
+Vốn huy động các nguồn khác

Đơn vị tính

2002

2003

DN
Triệu đồng

27
98.023

27
10.7083

Triệu đồng
Triệu đồng

Triệu đồng

59.191
24.916
13.919

62.191
25.669
19.226

1400
86

2967
85

III

Tổng số lao động
Người
Trong đó: ao động chờ sắp xếp Người
việc làm

IV

Kết quả kinh doanh
- doanh thu
- lãi trước thuế

triệu đồng

triệu đồng
triệu đồng

662.557
8.425

1.280.210
10.498

V

Tổng mức nộp ngân sách

triệu đồng

48.930

52.434

VI

Tổng nợ phải thu

triệu đồng

54.554

109.614

VII


Tổng nợ phả trả

triệu đồng

148.200

237.790

( Nguồn: sở kết hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Ngãi)
b.Thực trạng, nội dung sắp xếp. Đổi mới DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi.
Thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg ngày 21/4/1998 của thủ tướng chính phủ về đổi
mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành sắp xếp lại DNNN
thuộc tỉnh quản lý kết quả như sau:
*Doanh nghiệp đã cổ phần hoá:
- Số lượng : 5 DN (xí nghiệp gạch ngói Phổ Phong, xí nghiệp vơi Tịnh Kh,
Cty 19/8, xí nghiệp phân bón hữu cơ, cổ phần một bộ phận xí nghiệp vận tải
ơtơ Quảng Ngãi )
- Tổng số vốn nhà nước : 3.175 triệu đồng
- Trong đó :
+ Doanh nghiệp độc lập: 04 DN ; vốn nhà nước ; 2.175 triệu đồng (cổ phần
chi phối: 2 DN; cổ phần thương là 01 DN; không nắm giữ cổ phần; 01DN)
+ Bộ phận doanh nghiệp: 01DN; vốn nhà nước là: 1.000 triệu đồng (cổ
phần chi phối).


KHOA MÁC – LÊNIN

GVHD: TH.S TRẦN ĐÌNH MAI


*Doanh nghiệp đã thực hiên giao bán:
Sau khi Chính phủ ban hành nghị định 103/1999/NĐ-CP ngày 10/09/ 1999 về
giao ban, khoán, kinh doanh, cho thuê DNNN; UBND Tỉnh đã xem xét, rà soát và xác
đinh 2DNNN thuộc diện bán doanh nghiệp theo kế hoạch sắp xếp DNNN năm 2000 là :
Công ty thương mại Quảng Ngãi và công ty thương mại tổng hợp Sơn Tịnh ( kế hoach
trong năm 1999 thì 2 DN này thuọc loại giải thể nhưng chưa tiến hành xong). Tuy nhiên
2DN naỳ làm ăn thua lỗ kéo dài, những tồn đọng về tài chính, nhất là cơng nợ khó địi
lớn nên khơng tiến hành bán doanh nghiệp theo nghị định 103/CP năm 1999 của Chính
phủ được.
* Doanh nghiệp đã sáp nhập hợp nhất : khơng có
* Doanh nghiệp chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu : khơng có
* Doanh nghiệp chuyển đi nơi khác : ( chuyển giao cho tông công ty và công ty
Trung ương ).
- Số lượng : 04DN (Lâm trường Ba Tơ, xí nghiệp mộc Quảng Ngãi, Cơng ty khống
sản Quảng Ngãi, cơng ty cao su Quảng Ngãi)
- Tổng vốn nhà nước: 4.562,5 triệu đồng.
* Doanh ngiệp đã thực hiện giải thể:
-Số lượng: 04DN (Lâm Trường Sơn Hà, xí nghiệp cơng nghiệp thực phẩm , Công ty
nhiếp ảnh mỹ thuật, Công ty dệt may ).
-Tổng số vốn nhà nước: 3.465.2 triệu đồng.
* Doanh nghiệp nhà nước giữ nguyên pháp nhân:
-Số lương: 34DN (trong đó 2DN đã ngừng hoạt động)
-Tổng số vốn nhà nước là: 427.159 triệu đồng ( nếu trừ giá trị cơng trình thuỷ lợi Thạch
Nham thì vốn DNNN thực chất chỉ có 125 tỷ đồng). (trang sau)

3. Những thuận lợi, hạn chế và tồn tại của DNNN trên địa bàn tỉnh:
a. Thuận lợi:
* Kết quả đat được.
Thực hiện chỉ thị 20/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Quảng Ngãi đẩy

mạnh việc sắp xếp đổI mớI DNNN thuộc tỉnh quản lý đã đạt được kết quả bước đầu
đáng kể: số lượng DNNN đã giảm từ 43 doanh nghiệp ( năm 1998), đến nay xuống còn
34 doanh nghiệp, nhưng thực chất chỉ còn 32 doanh nghiệp hoạt động ( 2 DN đã ngừng
hoạt động đang làm thủ tục giải thể).
Quy mô doanh nhgiệp đã tăng lên rõ rệt, vốn bình quân 1 doanh nghiệp từ 2,5 tỷ
đồng năm 1998 đã tăng gần 4 tỷ đồng năm 2002 (khơng kể giá trị cơng trình thuỷ lợI
Thạch Nham). Tỷ lệ số Doanh nghiệp không đủ vốn pháp định giảm từ 60% 9năm
1998) xuống còn 30% (năm 2002) trên tổng số doanh nghiệp thuộc tỉnh.
Phần lớn các doanh nghiệp đã định hướng được hoạt động, bước đầu đã khai
thông được bế tắc trong sản xuất kinh doanh, thực hiện liên doanh, liên kết, củng cố tổ
chức, đa dạng hố sản phẩm, giải quyết được một số khó khăn, nhất là về tài chính, đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh… Cùng với sự chỉ đạo của Tỉnh, một số DNNN đã có
chuyển biến tích cực, hoạt động có hiệu quả hơn, lợi nhuận và nộp ngân sách đều tăng


×