Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

K là chủ kiêm lái xe thường xuyên được Công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho Hợp tác xã M Bài tập học kỳ Luật Hình sự 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.71 KB, 12 trang )

BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

MỤC LỤC
TÌNH HUỐNG SỐ 4................................................................................................0
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG................................................................................1
1. Bác bỏ các ý kiến sai; xác định ý kiến đúng và giải thích..............................1
a. Ý kiến “K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, sai vì:..........1
b. Ý kiến “K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là sai vì:...........................2
c. Ý kiến “K phạm tội trộm cắp tài sản” đúng vì:.............................................3
2. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành
vi chiếm đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa
của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này.
.................................................................................................................................4
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N
có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?................................7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................0

1


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

TÌNH HUỐNG SỐ 4
K là chủ kiêm lái xe thường xuyên được Công ty X thuê chở hàng từ
kho của công ty giao cho Hợp tác xã M. Trong một lần chở hàng, do đã quen nhau
nên thủ kho của công ty X thỏa thuận và cho K vào kho tự bốc và xếp hàng lên xe,
mỗi chuyến là 30 bao hàng ra cổng thủ kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký
vào phiếu xuất hàng.
Hôm đó K đã chở được 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 30 bao hàng, đến
chuyến thứ 5 K xếp thêm 2 bao hàng lên xe (vượt 2 bao so với thỏa thuận với thủ
kho). Khi ra cổng kho, K có thái độ điềm nhiên và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho


ký. Tin rằng K chở đủ số bao hàng như đã thoả thuận và đã giữa trưa nên thủ kho
không đếm lại số bao hàng K vận chuyển mà ký xác nhận ngay vào phiếu xuất
hàng như các chuyến trước. Bằng thủ đoạn trên K đã chiếm đoạt được 2 bao hàng
của Công ty X trị giá là 15 triệu đồng.
Về hành vi chiếm đoạt tài sản của K có các ý kiến sau về tội danh:
a. K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
b. K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
c. K phạm tội trộm cắp tài sản.
Hỏi:
1. Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai; Xác định ý kiến đúng và giải thích rõ tại sao.
(4 điểm)
2. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi chiếm
đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp tác xã M
tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này. (2 điểm)
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N có phải
chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (1 điểm)

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
2


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

1. Bác bỏ các ý kiến sai; xác định ý kiến đúng và giải thích
a. Ý kiến “K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, sai vì:
Theo Khoản 1 Điều 140 BLHS quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản: “Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà

còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
Ngoài những điều kiện về độ tuổi và phải có năng lực TNHS, tội này đòi hỏi
chủ thể phải là những người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho khối lượng tài
sản nhất định. Cơ sở giao tài sản là hợp đồng. Việc giao nhận tài sản là hoàn toàn
ngay thằng, và hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản
đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành
vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt ở đây là những hành vi không thực hiện
đúng nghĩa vụ cam kết.
Do vậy, hàng vi của K không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản do: Về mặt khách quan, tài sản K chiếm đoạt là bao hàng không được chủ sở
hữu, người quản lý (thủ kho công ty X) giao cho K dựa trên cơ sở hợp đồng vay,
mượn, thuê,...Việc K vào kho tự lấy hàng trên cơ sở thoả thuận về việc bốc xếp hàng
với thủ kho X, nhưng không thể coi đó là một hợp đồng giao tài sản là bao hàng bị
chiếm dụng, vì hàng hoá được giao cho K là đối tượng của thoả thuận (30 bao hàng
có trong kho), chứ không bao gồm bao hàng đã bị K chiếm đoạt trái phép. Hơn nữa,
K lợi dụng tín nhiệm của công ty X giao cho K việc bốc hàng và xếp hàng lên xe,
3


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

chứ không tín nhiệm giao cho K quản lý số tài sản đó. Việc giao và nhận tài sản đã bị
chiếm đoạt thực tế không diễn ra.

Như vậy, K không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
140 BLHS.
b. Ý kiến “K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là sai vì:
Theo Khoản 1 Điều 139 BLHS quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Theo quy định trên thì hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai
hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hành vi lừa dối là điều kiện để
hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả
của hành vi lừa dối => Giữa hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người
khác tin đó là sự thật. Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra
những thông tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng
mong muốn người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản bao gồm hai dấu hiệu là:
Người phạm tội đã có hành vi gian dối như bằng lời nói, hành động hoặc
những thủ đoạn khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc.
Chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm tưởng, tin vào các thông tin
không đúng sự thật đó nên đã tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền quản
lý tài sản cho người phạm tội. Thỏa mãn hai yếu tố này mới cấu thành tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS).
Như vậy, ta có thể nhận thấy K không hề cung cấp những thông tin hay giấy tờ, hoặc
đưa ra lời nói nào sai với sự thật. K chỉ tự mình xếp thêm 2 bao hàng lên xe, nhưng
4


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2


vẫn qua kiểm tra và xuất trình giấy tờ đúng theo quy định cho nhân viên thủ kho kí.
Hành vi của K đã không thỏa mãn dấu hiệu thứ nhất đã phân tích ở trên.
Vì vậy, K không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 BLHS.
c. Ý kiến “K phạm tội trộm cắp tài sản” đúng vì:
Theo Khoản 1 Điều 138 BLHS quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của
người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành
vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm”.
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá
trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Dấu hiệu pháp lý của tội này:
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản đang có chủ. Rõ rằng, hành vi của K là tự xếp thêm 2 bao hàng lên xe, điềm
nhiên, không hề thấy hành vi lén lút, bí mật hơn nữa người phạm tội sử dụng thủ
đoạn làm cho người khác tin tưởng hành vi của họ là hợp pháp để họ dễ dàng chiếm
đoạt thì hành vi của họ vẫn được định tội là trộm cắp tài sản bởi thủ đoạn đó cũng
được coi là hành vi lén lút. K đã tạo lòng tin với thủ kho khi 4 chuyến hàng trước
mỗi chuyến chở đúng 30 bao hàng và đến chuyến thứ 5 thì K đã xếp thêm 2 bao hàng
lên xe với mục đích chiếm 2 bao hàng đó. Hành vi này của K vẫn được coi là “lén
lút, bí mật”.
Tội trộm cắp tài sản coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài
sản. Để đánh giá người phạm tội (K) đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được
tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Khi tài sản đã bị
5



BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

K chuyển dịch tới một nơi khác, nó không còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu
hay người có trách nhiệm bảo vệ và K có khả năng thực tế để sử dụng, định đoạt tài
sản đó. K đã mang được bao hàng ra khỏi đó một cách an toàn mà người thủ kho
không hề biết gì.
Mặt chủ quan của tội phạm: K thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với lỗi cố ý trực
tiếp và động cơ vụ lợi.
Chủ thể của tội phạm: K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
Khách thể của tội phạm: Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến chế độ sở hữu về tài
sản.
Do vậy, hành vi của K đã cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138
BLHS 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) và K phải chịu trách nhiệm về tội này.
2. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi
chiếm đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp
tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này.
Trả Lời:
K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Khoản 1
Điều 140 Bộ luật hình sự (BLHS).
Áp dụng khoản 1 Điều 140 BLHS (đã nêu ở phần trên).
Ta thấy rằng, các hành vi của K đã thỏa mãn những dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Khoản 1 Điều 140 BLHS:
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm trong tình huống trên là chế độ sở hữu về tài sản.
Đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt trong tội này là những tài sản được
giao ngay thẳng cho người phạm tội trên cơ sở hợp đồng. Trong trường hợp này, đối
tượng tác động chính là số bao hàng mà công ty X thuê K chở đến hợp tác xã M.

6


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi của K đã có đầy đủ các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm. Cụ
thể như sau:
Thứ nhất, Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội: Công ty X đã tín nhiệm
giao số hàng này cho K vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển. K đã có hành vi
chiếm đoạt một phần số hàng đã được công ty X giao trên cơ sở hợp đồng giữa K và
công ty X. Ở đây, K không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết và chuyển hàng đến cho
hợp tác xã. Hành vi chiếm đoạt ở đây là hành vi không thực hiện cam kết, không trả
lại tài sản bằng thủ đoạn gian dối là rút bớt mỗi lần vận chuyển một số hàng nhất
định.
Thứ hai, Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản là tội phạm cấu thành vật chất. Hậu quả mà hành vi của K gây ra khi mỗi lần
rút bớt mỗi chuyến một số hàng của hợp tác xã M là số thiệt hại tổng giá trị là 10
triệu đồng. Hậu quả này cũng là yếu tố quan trọng trong việc định tội danh lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cho K, vì tội danh này có dấu hiệu pháp lí là số tài sản
bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 4 triệu trở lên còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 4
triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.
Thứ ba, Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: Mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Nguyên nhân là do K rút bớt tài sản trong mỗi chuyến hàng nên đã gây ra thiệt hại
cho hợp tác xã M số tiền là 10 triệu đồng. Hành vi trái pháp luật của K có mối quan
hệ nhân quả với hậu quả thiệt hại trên.

Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội: K đã lựa chọn cho mình một cách xử sự trái pháp luật. Vì
vậy, hành vi của K được coi là có lỗi. Hành động của K là hành vi có ý thức và có ý
chí.
7


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

Về mặt ý thức (lý trí): K đã nhận thức rõ tính chất hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại về tài sản cho công ty và cố tình thực hiện, điều này thể hiện trong tính toán
của K “đã chở được 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 30 bao hàng, đến chuyến thứ 5 K
xếp thêm 2 bao hàng lên xe (vượt 2 bao so với thỏa thuận với thủ kho). Khi ra cổng
kho, K có thái độ điềm nhiên và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho ký”. K đã sử dụng
thủ đoạn gian dối lợi dụng sự tin tưởng của thủ kho X và những yếu tố ngoại cảnh
khác (thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào buổi trưa), đến chuyến thứ 5 K tự ý
xếp các bao hàng lên xe mà không vận chuyển theo đúng thỏa thuận.
Về mặt ý chí: Có thể thấy lỗi của K là lỗi cố ý trực tiếp. K mong muốn hậu
quả xảy ra để được lợi số tài sản trị giá 10 triệu đồng.
Chủ thể của tội phạm:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đòi hỏi chủ thể phải là những người
đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho khối lượng tài sản nhất định. Cơ sở giao tài
sản là hợp đồng. Việc giao và nhận tài sản là hoàn toàn ngay thẳng. Chủ tài sản do tín
nhiệm đã giao tài sản để người được giao: sử dụng, bảo quản, vận chuyển, gia công
hoặc sửa chữa,…tài sản.
Trong tình huống trên, vì K ký hợp đồng thuê vận chuyển hàng hóa cho công ty X
nên K chắc chắn đã có bằng lái ô tô bởi vậy có thể khẳng định rằng K có đủ điều
kiện về tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Xét trong trường hợp trên công ty X
thuê K lái xe trên cơ sở hợp đồng thuê vận chuyển. Cơ sở giao hàng là hợp đồng
công ty X thuê K vận chuyển hàng của công ty giao cho Hợp tác xã M. Việc công ty

X giao hàng và việc K nhận chở số hàng đó là hoàn toàn ngay thẳng. Mà trong tình
huống cũng nêu rõ “K là lái xe tải được công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty
giao cho hợp tác xã M theo hợp đồng.”, như vậy K đã được công ty X tín nhiệm,
giao cho việc vận chuyển hàng hóa dựa trên hợp đồng vận chuyển (bằng lời nói hoặc
bằng văn bản giữa K với công ty X).
Từ những căn cứ pháp lý đã phân tích ở trên ta thấy K phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo Khoản 1 Điều 140 BLHS 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm
2009).
8


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N có
phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
Với đề bài đã cho, Nếu như K mang toàn bộ số tài sản mà K đã chiếm đoạt
được đem bán cho N mà N đã mua lại thì N có thể phải chịu TNHS đối với hành vi
mua bán đó. Chúng ta chia thành hai trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất: N không biết số tài sản mà mình mua từ K là tài sản do
chiếm đoạt mà có.
Lúc này, khẳng định N sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự, bởi vì N trong
nhận thức của mình, N không biết đó là tài sản phi pháp và việc mua bán chỉ diễn ra
như một giao dịch dân sự bình thường, không hề vi phạm pháp luật nên N không thể
bị truy cứu TNHS đối với việc mua lại tài sản mà mình không thể biết được đó là tài
sản do người khác phạm tội mà có. Bởi vì trong trường hợp này, N không có lỗi, mà
không có lỗi thì không có trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này, Công ty X và Hợp tác xã M có quyền yêu cầu hoàn trả
lại tài sản của mình, N có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó và N có quyền yêu cầu K bồi
thường thiệt hại (Quy định tại Điều 582 BLDS 2015).
Trường hợp thứ hai: Nếu như N biết số tài sản đó là tài sản do K chiếm đoạt mà

vẫn mua thì N sẽ phải chịu TNHS.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, để định tội danh cho N, cần xem xét đến dấu
hiệu N biết từ trước K sẽ có hành vi chiếm đoạt tài sản rồi mang bán cho mình hay
chỉ biết sau khi K mang số tài sản đó đến bán cho mình.
Nếu N biết từ trước rằng K chiếm đoạt tài sản rồi sau đó đem bán cho mình thì
lúc này tội danh của N sẽ là đồng phạm với K. Vai trò của N trong trường hợp này sẽ
là người giúp sức, mà cụ thể là giúp sức về tinh thần. Theo quy định tại khoản 2 điều
20 BLHS: “Người giúp sức là người tạo ra điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc
thực hiện tội phạm”. Người giúp sức về tinh thần là người bằng lời hứa hẹn trước sẽ
che giấu người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật
do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong. Lời hứa hẹn này tuy không
trực tiếp tạo ra điều kiện thuận lợi cụ thể nhưng lại có những tác động tích cực củng
cố ý định phạm tội và quyết tâm phạm tội đến cùng của tội phạm. Như vậy, nếu như
N biết trước ý định phạm tội của K và ngay sau đó N đã mua lại những tài sản do K
9


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

chiếm đoạt được thì rõ ràng giữa N và K đã có một mối liên hệ từ trước đó và N
đóng vai trò là người giúp sức, hứa hẹn giúp K tiêu thụ tài sản. N là người biết rõ
hành vi của K trong trường hợp này cũng có nghĩa là N biết rõ mục đích của K là
muốn chiếm đoạt tài sản và N chấp nhận mục đích đó, biết rõ mục đích và chấp nhận
mục đích – đó chính là những dấu hiệu cơ bản của đồng phạm. Chính sự hứa hẹn đó
của N đã tạo điều kiện củng cố thêm ý định phạm tội cho K khi trực tiếp thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản vì K tin rằng sẽ có N tiêu thụ số tài sản do hành vi phạm
tội của mình có được.
Nếu tại thời điểm K mang tài sản đến bán, N mới biết số tài sản đó là tài sản
do chiếm đoạt mà N vẫn mua số tài sản đó thì lúc này N vẫn sẽ bị truy cứu TNHS
nhưng không phải với vai trò đồng phạm với K mà lúc này, N sẽ bị truy cứu TNHS

về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250
BLHS 1999. Hành vi khách quan của tội này là khi người nào đó không hứa hẹn
trước mà tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, cụ thể là chuyển
đổi tài sản, mua lại tài sản và bán hộ tài sản do người phạm tội chiếm đoạt được.
Người có hành vi này chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được thực hiện mà không
có thỏa thuận, hứa hẹn từ trước và mặc khác, người đó biết rõ tài sản mà mình tiêu
thụ là tài sản do phạm tội mà có. Như vậy đối với hành vi mua tài sản của N từ K
trong trường hợp tại thời điểm K mang tài sản đến bán, N mới biết đó là tài sản do K
phạm tội mà có nhưng N vẫn mua thì N sẽ phải chịu TNHS đối với tội tiêu thụ sản
phẩm do người khác phạm tội mà có được quy định tại điều 250 BLHS 1999 (Sửa
đổi, bổ sung năm 2009).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I và tập II), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009;
2. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội phạm),
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007;
3. Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
công an và Bộ tư pháp số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày
25/12/2001 về các tội xâm phạm sở hữu
10


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

4. BLHS Việt Nam năm 1999 (sửa đổi năm 2009)
5. Nguyễn Ngọc Hoà, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009
6. Hoàng Văn Hùng, Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008;
7. Lê Đăng Doanh, Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009;

8. Cao Thị Oanh (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm),
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010;
9. />ItemID=15325
10. />ItemID=15822
11. />ItemID=6259
12. />ItemID=20692
13. />14. />
11


BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2

0



×