Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Chuong 2 thi truong tai chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.37 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 2 : THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
I. Thị trường tài chính
1. Khái niệm thị trường tài chính:

Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm các mối
quan hệ cung cầu về hàng hoá mà còn xuất hiện quan hệ cung cầu về
tiền tệ. Quan hệ này xuất hiện tất yếu dẫn đến nhu cầu vận động nguồn
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính.
Thuật ngữ “thị trường tài chính” được sử dụng để phân biệt thị trường mua
bán, giao dịch các loại chứng khoán (tài sản tài chính) với các thị trường
khác (thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động,...).
Nếu “thị trường hàng hoá hữu hình” mua bán các loại sản vật cụ thể, nhìn
thấy được, sờ được (tivi, ôtô,...), nghĩa là đó là thị trường hữu hình. Còn thị
trường tài chính là nơi mua bán các loại hàng hoá theo đúng tên gọi đặc
trưng của nó: đó là tài chính.
Tài sản tài chính loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì
đến đặc tính và vật thể của hàng hoá đó, giá trị của nó dựa vào trái quyền
hợp pháp dựa trên trên một lợi ích tương lai nào đó. Hàng hoá của thị
trường tài chính là những loại hình thay thế tiền mặt. Để có nó, người ta
đem tiền mặt đi đổi bằng các hình thức như: mua, ký gửi, cho vay,... Người
ta làm như vậy là vì nó tạo ra lãi suất mà tiền mặt không làm được. Khi thị
trường tài chính phát triển, người ta dễ dàng đem chuyển đổi những loại
hàng hoá đó trở thành tiền mặt. Xã hội ngày càng phát triển thì người ta
càng thích cất giữ những loại hàng hoá thay cho tiền mặt nguyên nhân là
vì nó cũng là tiền nhưng lại sinh lãi trong mỗi ngày.
Tóm lại:
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản
tài chính.

- Đối tượng của thị trường tài chính:
Là những nguồn cung cầu về vốn trong xã hội của các chủ thể kinh tế như


Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các định chế tài chính trung
gian và công chúng.
- Công cụ của thị trường tài chính:
Là nguồn sống cho hoạt động của thị trường, bao gồm: công trái nhà
nước, chứng khoán do doanh nghiệp phát hành, trái phiếu công ty, trái
phiếu của các định chế tài chính trung gian và các loại giấy tờ có giá khác:
séc, kỳ phiếu,...
- Chủ thể của thị trường tài chính:
Là những pháp nhân và thể nhân đại diện cho những nguồn cung và cầu
về vốn tham gia trên thị trường tài chính.

1


2. Vai trò của thị trường tài chính
2.1 Hình thành giá các tài sản tài chính.

Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người bán mà
giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định, hay nói cách khác,
lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định.
Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp gọi huy động vốn chính là mức lợi tức
mà các nhà đầu tư yêu cầu; và với đặc điểm này của thị trường tài chính
đã phát tín hiệu cho biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế
nào giữa các tài sản tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình
thành giá.
2.2 Cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản tài chính.
Thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh
khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến khi đáo hạn,
hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu
không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị trường

tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là khác
nhau giữa chúng.
2.3 Giảm bớt chi phí giao dịch và chi phí thông tin.
Để các giao dịch có thể được diễn ra thì những người mua và người bán
phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm
kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó là chi phí
tìm kiếm và giao dịch. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các
thông tin về giá trị đầu tư như khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền
kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ có tính trung lập này – là nơi để người
mua người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp các thông tin một
cách công khai và đầy đủ - nên có khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch
lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế,
đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị
trường tài chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia.
Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm tài chính đa
dạng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường.
3. Phân loại thị trường tài chính
Có nhiều tiêu chí để phân loại, cụ thể có một số cách sau đây:
Theo thời gian luân chuyển vốn :
 Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không
quá 1 năm.

2


 Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm
trở lên.
Theo hình thức phát hành (mục đích hoạt động của thị trường)
 Thị trường sơ cấp: thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên.

 Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại các chứng khoán.
Theo


Theo



phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường
Thị trường tập trung
Thị trường phi tập trung
công cụ tài chính trên thị trường
Thị trường nợ
Thị trường chứng khoán

Sau đây ta sẽ tìm hiểu rõ hơn từng loại thị trường (theo các cách
phân loại trên và mối quan hệ giữa chúng).
3.1 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn ( căn cứ thời gian luân chuyển
vốn) :
a/ Thị trường tiền tệ:
Thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm (ngắn hạn).
Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vì các ngân hàng thương mại là chủ
thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn
hạn.
Thị trường tiền tệ có một số đặc điểm sau đây:
 Thời gian luân chuyển vốn ngắn hạn công cụ của thị trường này là
những món nợ vay hay những chứng khoán có thời gian đáo hạn
dưới 1 năm.
 Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp. Đóng

vai trò trung gian giữa những người vay và người cho vay là các
NHTM.
 Các công cụ trên thị trường tiền tệ có độ an toàn tương đối cao
nhưng lại thường có mức lợi tức thấp.
Thị trường tiền tệ được phân thành 3 bộ phận sau:
* Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế tài chính trung gian.
Thị trường này hoạt động dựa vào hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các
tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và
đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần.

3


* Thị trường hối đoái (thị trường ngoại hối):
Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ. Khác với các
loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị
trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa
của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào
người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau
thì thị trường ngoại hối tồn tại là cần thiết.
* Thị trường liên ngân hàng:
Là thị trường hoạt động phục vụ cho các khách hàng là các ngân hàng
thương mại. Trong hoạt động không phải lúc nào ngân hàng luôn có đủ
tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng
để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và
cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của
mình là huy động vốn và cho vay vốn. Đặc điểm của thị trường này là chỉ
dành riêng cho các ngân hàng và thường khối lượng, giá trị giao dịch là
lớn.

b/ Thị trường vốn:
Thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên (dài hạn). Nó
cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của chính phủ, các doanh
nghiệp và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường
này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường
vốn có độ rủi ro cao hơn và đi theo nó là mức lợi tức kỳ vọng cũng cao
hơn.
Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh tế
chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ
yếu là ngắn hạn. Sau khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn
dài hạn cho đầu tư xuất hiện thì thị trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy
động vốn dài hạn thông qua các định chế tài chính trung gian thì chính
phủ và các doanh nghiệp còn tự huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán.
Một khi chứng khoán ra đời thì tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu mua bán
chứng khoán. Chính vì thế mà thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là
1 bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi
chứng khoán.
Thị trường vốn bao gồm:
- Thị trường vay nợ dài hạn
- Thị trường chứng khoán.
Thứ nhất: Thị trường vay nợ dài hạn
Được chia thành:

4


* Thị trường thế chấp: đây là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài
hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường
giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản

(nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay
này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi
vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó. Chính vì
thế, thị trường thế chấp còn được gọi là thị trường cho vay dài hạn có cầm
cố bất động sản
* Thị trường tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính):
Tín dụng thuê mua hay còn được gọi là hoạt động cho thuê tài chính hoặc
có thể được gọi là thuê vốn. Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn,
trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của
người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là
người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài
sản trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời
gian thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ
hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua
lại hoặc tiếp tục thuê như đã thoả thuận trong hợp đồng.
Hoạt động tín dụng tài chính là một hình thức tín dụng rất hữu ích đối với
các doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì,
thông qua hình thức tín dụng này các doanh nghiệp tìm được nguồn tài trợ
cho hoạt động đầu tư máy móc, thiết bị, cải thiện công nghệ.
Thứ hai: thị trường chứng khoán:
Đây là thị trường được hình thành dùng để giao dịch mua bán chứng
khoán. Đối với hoạt động của thị trường này khá là phức tạp nhưng cũng
rất hấp dẫn. Chúng ta sẽ có dịp nói đến nó về sau. Tuy nhiên, khi nói đến
thị trường chứng khoán thì chúng ta có thể chia nó ra thành 2 loại thị
trường cơ bản là thị trường tập trung và thị trường phi tập trung
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị
trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền
kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên
quan bổ sung và tác động qua lại.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và

mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng
trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích
gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc
đầu tư vào chứng khoán. Mặt khác, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên
thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường
vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn
như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh

5


lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá của
cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường,
người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị
trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan
hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái
phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ
xuống hơn lãi trái phiếu.
Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng
phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị
trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định
không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường.
Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được
thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau,
tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính.
3.2 Thị trường sơ cấp và thứ cấp (theo hình thức phát hành):

a/ Thị trường sơ cấp:
Thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Nguồn vốn chủ yếu của
thị trường này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ

chức phi tài chính. Như vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan
trọng của thị trường chứng khoán đó là mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho
người cần sử dụng, đưa tiền tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Với đặc tính
thị trường sơ cấp là nơi phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng
cho nên nó được xem là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ tạo
ra phương tiện huy động vốn. Vì thế, vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra
hàng hoá cho thị trường giao dịch và là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Trong thị trường sơ cấp, nhà phát hành (người bán chứng khoán) là người
huy động vốn và người đầu tư mua chứng khoán là nhà đầu tư.
Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn quan
trọng nhất, vì nếu không đạt được kết quả thì chứng khoán phát hành sẽ
không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải
nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành
nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát
hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tuỳ thuộc vào cung
cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn
giá trị danh nghĩa của chứng khoán.
Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những chứng khoán của nó
được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các
chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làm ảnh
hưởng đến số vốn của người phát hành.

6


b/ Thị trường thứ cấp:
Thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường tài
chính và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị
trường sơ cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Chứng khoán giao dịch

trên thị trường này có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao
thấp khác nhau với tác động của quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác.
Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể
yên tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền họ có thể bán lại các
chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường.
Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau:
 Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu
tiền mặt (tạo cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản).
 Kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán
 Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do
 Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành
chứng khoán trên thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp
hoạt động; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp
thì không có chứng khoán cho thị trường thứ cấp hoạt động;
Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể
hoạt động một cách trôi chảy được. Vì khi đó các loại chứng khoán rất khó
khăn khi phát hành, không ai dám đầu tư vào chứng khoán vì chứng
khoán không thể chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ đọng.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về
mặt lý thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng
ta không thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường
thứ cấp, bởi vì trong hoạt động của thị trường chứng khoán vừa diễn ra
việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại chứng khoán.
II. Các công cụ trên thị trường tài chính
Để tìm hiểu một cách đầy đủ về việc làm cách nào thị trường tài chính
thực hiện đươc vai trò quan trọng trong việc giúp vốn được chuyển từ nơi
thừa vốn sang nơi cần vốn, ta sẽ đi tìm hiểu các loại chứng khoán (các
công cụ trên thị trường tài chính) được mua bán trên thị trường này như
thế nào ?.

Các công cụ tài chính được chia làm hai nhóm:
Nhóm 1: Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ, gồm
 Tín phiếu kho bạc

7









Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được,
Thương phiếu
Chấp phiếu ngân hàng
Hợp đồng mua lại
Euro dollar
Dự trữ vượt mức

Nhóm hai : các công cụ lưu thông trên thị trường vốn
 Trái phiếu (TP Chính phủ và TP công ty)
 Cổ phiếu
 Các khoản vay thế chấp
1. Các công cụ của thị trường tiền tệ:
1.1 Tín phiếu kho bạc Nhà nước (treasury bill)
Là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc phát hành để bù
đắp những thiếu hụt tạm thời của NSNN. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước có
các kỳ hạn 3; 6; và 12 tháng.

Tín phiếu KBNN thuộc loại chứng khoán chiết khấu, nghĩa là nó không
được nhà phát hành trả lãi mà được bán ra ngoài với giá chiết khấu (thấp
hơn mệnh giá), như vậy khi tín phiếu đáo hạn nhà đầu tư nhận được đủ
mệnh giá và phần chênh lệch giữa giá chiết khấu và mệnh giá chính là lãi
của nhà đầu tư.
Tín phiếu KBNN được coi là công cụ tài chính có độ rủi ro thấp nhất trên thị
trường tiền tệ do khả năng vỡ nợ của nhà phát hành là rất khó xảy ra. Bởi
đến kỳ thanh toán của tín phiếu, nếu Chính phủ hoàn toàn có thể tăng
thuế hoặc in thêm tiền để trả nợ. Cũng vì lí do này nên nó được xem như
là công cụ có tính lỏng cao nhất và mức lãi suất áp dụng cho loại công cụ
này thường thấp hơn so với các công cụ khác trên thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp
đấu giá. Chủ thể tham gia đấu giá chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn
có các công ty và các trung gian tài chính khác. Các cuộc đấu giá trái phiếu
ngắn hạn 91 ngày và 182 ngày được thực hiện hàng tuần và người ta theo dõi
chặt chẽ hoa lợi của nó trong thị trường tiền tệ để biết các dấu hiệu của chiều
hướng lãi suất. KBNN cũng mở đấu thầu loại trái phiếu kho bạc ngắn hạn 52
tuần, 4 tuần một lần. Thỉnh thoảng KBNN cũng phát hành trái phiếu kho bạc
quản lý tiền mặt ngắn hạn, trái phiếu kho bạc ngắn hạn trả thuế trước (tax
anticipation bills - trái phiếu kho bạc ngắn hạn dự phòng thuế) và chứng chỉ
nợ ngân khố (treasury certificates of indebtedness). Cá nhân nhà đầu tư
không đệ trình giá đặt mua có cạnh tranh (competitive bid) sẽ được bán trái
phiếu kho bạc ngắn hạn theo giá trung bình của giá đặt mua có cạnh tranh
đã trúng thầu.
Thực tế ở Việt nam công cụ này khá phát triển. Thị trường đấu thầu tín phiếu

8


kho bạc qua NHNN được đưa vào hoạt động từ năm 1994 đã trở thành một

kênh huy động vốn rất quan trọng đáp ứng kịp thời vốn cho NSNN và nền kinh
tế. Sau hơn 13 năm hoạt động, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã có
gần 50 thành viên . Tuy vậy trong thời gian qua hầu như chỉ có các NHTM Nhà
nước tham gia đấu thầu và trúng thầu. Nguyên nhân là khối ngân hàng còn
lại có nguồn vốn nhỏ, vốn khả dụng hạn chế và vẫn còn đó một số hạn chế
trong cách thức tổ chức đấu thầu nên các ngân hàng quy mô nhỏ hơn không
có điều kiện tham gia và trúng thầu.
1.2 Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ nợ do các ngân hàng phát hành, cam kết
trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả cả vốn gốc cho người gửi tiền
khi đáo hạn.
Trước đây CD không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn trước hạn
thì sẽ bị chịu lãi phạt. Tuy nhiên về sau, nhằm tăng tính hấp dẫn và linh hoạt
cho CD nên các ngân hàng bắt đầu đã cho phép các CD mệnh giá lớn được
phép bán lại trước hạn và thậm chí là bán cho chính ngân hàng phát hành, và
từ đó chúng được gọi là chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
(NCDs).
Tìm hiểu và tham khảo thêm NCDs Lộc Xuân (techcombank) kỳ hạn 11 tháng.
Tìm hiểu NCDs bằng vnđ hoặc usd của Marintime bank.
1.3 Thương phiếu (commercial paper)
Thương phiếu là giấy nhận nợ mà các công ty uy tín phát hành để vay vốn
ngắn hạn từ thị trường tài chính. Nó được phát hành theo hình thức chiết
khấu. Thương phiếu là loại trái phiếu doanh nghiệp ngắn hạn nhất với thời
gian từ 30 đến 270 ngày. Nó thường được chào bán bởi các công ty phát hành
hoặc các hãng môi giới, và thường được bán theo lô. Thương phiếu có độ rủi
ro cao hơn tín phiếu Kho bạc nên mức chiết khấu của nó cũng vì thế mà cao
hơn.
Trong các hoạt động thương mại quốc tế của bên phía các chủ thể kinh tế Việt
Nam, thương phiếu được sử dụng qua 2 kênh:
 Hoạt động xuất nhập khẩu

 Hoạt động vay nợ nước ngoài
Về mặt luật pháp, các doanh nghiệp áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu
được ban hành theo Công ước quốc tế đầu tiên ký tại Giơ-ne-vơ 1930
(Uniform Law for Bill of Exchange) hoặc hệ thống pháp luật về thương phiếu
của Anh - Mỹ chứ không lựa chọn luật Việt Nam vì pháp luật về thương phiếu
ở Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Đối với thương mại
trong nước, ngoài nguyên nhân hệ thống pháp luật về thương phiếu chưa
hoàn thiện còn có nguyên nhân từ việc sử dụng thương phiếu còn khá mới mẻ
nên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa sử dụng thương phiếu như một
phương tiện tín dụng, thanh toán trong quan hệ mua bán trong nước.

9


1.4 Chấp phiếu ngân hàng (banker’s acceptance)
Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được
ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên tờ hối
phiếu.
Trong quan hệ buôn bán với nhau, việc không chắc chắn về năng lực tài chính
và khả năng thanh toán của đối tác là một điều dễ hiểu. Do vậy nhu cầu cần
có người bão lãnh, đảm bảo cho đối tác về mặt thanh toán là một xu hướng
tất yếu. Người bán cần một ngân hàng uy tín chấp nhận thay mặt doanh
nghiệp đối tác trả nợ cho mình trong trường hợp đối tác mất khả năng thanh
toán nợ nần cho mình. Như vậy khi ngân hàng đóng dấu chấp nhận bảo lãnh
thanh toán thì người trả tiền hối phiếu bây giờ không phải là người mua hàng
nữa mà là ngân hàng bảo lãnh.
Ngân hàng sẽ yêu cầu người mua chịu phải ký quỹ vào gửi ngân hàng một
phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu hoặc séc hoặc ngân hàng sẽ đồng
ý cho vay để thanh toán hối phiếu, bên cạnh đó ngân hàng sẽ thu một khoản
phí đảm bảo thanh toán.

Ngân hàng đứng ra chấp nhận bảo lãnh càng có uy tín lớn thì tờ chấp phiếu
càng có độ an toàn cao. Khi cần tiền mặt gấp thì người sở hữu chấp phiếu sẽ
có thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ.
Trong các giao dịch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam đi các nước, phương thức
thanh toán phổ biến nhất và được các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa) ưa chuộng nhất hiện nay là thanh toán theo tín dụng
chứng từ (gọi tắt là thanh toán L/C -Letter of Credit). Các thông lệ và tập quán
liên quan đến L/C được quy định chi tiết trong các bộ quy tắc UCP 600 của
Phòng Thương mại quốc tế ICC.
Về bản chất L/C là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân hàng phát
hành, do vậy, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể an tâm về khả năng thanh toán
của người mua hàng. Nhưng không phải cứ có LC là có tiền. Nguyên nhân là
do các rủi ro có thể xảy đến từ bản chất cam kết thanh toán có điều kiện của
LC rất dễ bị các doanh nghiệp Việt Nam khôngchú ý khiến cho bộ hồ sơ gặp
lỗi và ngân hàng từ chối chi trả.
Tóm lại là hình thức chấp phiếu ngân hàng còn chưa thực sự ơhát trìen ở Việt
Nam.
1.5 Hợp đồng mua lại (REPO)
Là loại hợp đồng trong đó ngân hàng bán một lượng tín phiếu kho bạc mà nó
đang nắm giữ kèm theo điều khoản cam kết rằng sẽ mua lại số tín phiếu đó
sau một khoảng thời gian nhất định với mức giá cao hơn.
Về thực chất thì Repo là một công cụ vay nợ ngắn hạn (thường không quá 2
tuần) của các ngân hàng với tín phiếu kho bạc là vật thế chấp.

10


Chỉ từ tháng 7/2000, các hợp đồng mua lại và mua lại đảo ngược mới bắt đầu
được NHNN Việt Nam sử dụng như là một trong các công cụ của nghiệp vụ thị
trường mở. Đến nay công cụ này đã ngày càng phát huy vai trò là một công

cụ chủ yếu nhằm điều tiết tiền tệ của các tổ chức tín dụng.
Tham khảo nghiệp vụ mua bán chứng khoán chưa niêm yết (repo) với thời
hạn mua bán thoả thuận của ACBs
1.6 Euro dollars
Euro dollars là những đồng dollar Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc ở bên
ngoài nước Mỹ hoặc do những chi nhánh ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ.
Khi cần vốn, các ngân hàng của Mỹ có thể huy động dollar từ nguồn cung như
trên.
Các giao dịch của đồng euro dolllar rất phổ biến và linh hoạt, đặc biệt thời
hạn có thể từ một ngày đến 6 tháng (hiếm các giao dịch kéo dài hơn 5 năm).
Mặc dù được nắm giữ ở nhiều nơi trên thế giới nhưng lãi suất của euro dolllar
lại chủ yếu bị ảnh hưởng bởi tình hình nền kinh tế Mỹ. Nhìn chung khi FED có
dấu hiệu sẽ tiến hành quản lý hoặc thực hiện quản lý chặt chẽ các tài khona
tiền gửi thì lãi suất euro dolllar sẽ tăng và ngược lại. Mức lãi suất này cũng
thay đổi tuỳ theo từng thời điểm trong ngày và tuân theo quan hệ cung cầu,
do đó nếu sử dụng lẫi suất này làm điểm tham chiếu sẽ là không phù hợp,
thay vào đấy có thể sử dụng lãi suất LIBOR và các lãi suất khác.
Học viên về tìm hiểu thêm các văn bản pháp luật có liên quan đến quản lý và
kinh doanh ngoại hối của Việt Nam hiện nay. Tìm hiểu và phân tích thực trạng
cung cầu ngoại hối ở Việt Nam thời gian qua. Đưa ra ý kiến trong trường hợp
nếu gửi tiết kiệm ở thời điểm đang phân tích thì nên gửi bằng vnđ hay là
usd ?
1.7 Dự trữ vượt mức
Mỗi ngân hàng khi nhận một khoản tiền gửi sẽ phải trích một tỷ lệ phần trăm
nhất định và gửi vào NHTW làm khoản dự trữ bắt buộc. Mức tiền dự trữ bắt
buộc này sẽ một phần giúp đảm bảo khả năng thanh toán cho các ngân
hàng, duy trì niềm tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng, tránh những
cơn hoảng loạn về tài chính. Bên cạnh đó, nhờ có quy định về tỷ lệ dự trữ bắt
buộc mà NHTW có thể kiểm soát được khả năng tạo tiền của khối NHTM, giúp
NHTW điều hoà khối lượng tiền trong lưu thông và góp phần thực hiện chính

sách tiền tệ của mình.
NHNN Việt Nam quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức
tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến20% tổng số dư tiền gửi tại
mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. Trong trường hợp tổ chức tín dụng bị
đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, thống đốc NHNN sẽ xem xét và quyết
định xem có giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống 0% cho các tổ chứ tín dụng đó
hay ko?

11


Số tiền vượt quá số tiền dự trữ bắt buộc gọi là số tiền dự trữ vượt mức. Một số
ngân hàng đôi khi cần tăng mức dự trữ để gia tăng hệ số an toàn cho khả
năng thanh khoản, hoặc do thị trường tài chính biến động ở mức khó dự báo,
… Trong trường hợp để đảm bảo yêu cầu đủ dự trữ bắt buộc theo luật định
trong khi ngân hàng nào đó lại không đủ lượng dự trữ bắt buộc tại NHTW,
ngân hàng này sẽ tiến hành xin vay từ lượng dự trữ vượt mức của ngân hàng
khác nhằm bù vào số đang thiếu cho dự trữ bắt buộc của mình. Các khoản
vay này thông thường có thời hạn rất ngắn
2. Các công cụ trên thị trường vốn
Công cụ thị trường vốn là các công cụ nợ và cổ phần (vốn) với kỳ hạn giao
dịch trên 1 năm. Kỳ luân chuyển vốn trên thị trường này dài hơn so với thị
trường tiền tệ nên rủi ro khi đầu tư vào các công cụ này cũng cao hơn và lợi
suất đem lại từ việc đầu tư cũng vì thế mà nhiều hơn.
Như đã đề cập ở phần trên, thị trường vốn bao gồm thị trường chứng khoán
và thị trường vay nợ dài hạn. Các công cụ tài chính trên thị trường này biểu
hiện dưới hình thức cổ phiếu các công cụ nợ bao gồm các loại trái phiếu.
Ngoài ra tại các thị trường phát triển còn có các chứng từ có giá khác gọi là
những công cụ tài chính được phát sinh trên cơ sở những chứng khoán đang
lưu hành như những chứng chỉ đầu tư do các công ty tín thác đầu tư phát

hành, chứng chỉ đặc quyền mua ngắn hạn rights, chứng chỉ đặc quyền mua
dài hạn warrrants; hợp đồng quyền chọn options, future,…
Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu hai công cụ điển hình và phổ biến nhất
là trái phiếu và cổ phiếu.
2.1 Trái phiếu (bond)
a/ Khái niệm
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định
kỳ và vốn gốc khi đến hạn của tổ chức phát hành.
Đặc điểm của trái phiếu:
 Mệnh giá (face value): là số tiền ghi trên bề mặt của tờ trái phiếu. Luật
các nước có thể quy định mệnh giá tối thiểu của trái phiếu, ở Việt nam
theo nghị định 144-CP quy định mệnh giá tối thiểu của trái phiếu khi
phát hành ra công chúng là 100.000 vnđ hoặc bội số của 100.000 vnđ.
 Thời hạn (maturity): là thời hạn vay vốn của tổ chức phát hành đã được
ghi rõ trên tờ trái phiếu (thường từ 2 năm, có trường hợp hơn 10 năm).
 Trái chủ (bondholder): tên của trái chủ được ghi trên tờ trái phiếu hoặc
không ghi (nếu là trái phiếu đích danh hoạc là vô danh). Trái chủ ngoài
quyền đòi lãi và vốn gốc khi đến hạn, còn có thể chuyển nhượng trái
phiếu cho người khác trong trường hợp trái phiếu chưa tới hạn.
b/ Phân loại

12


Căn cứ vào chủ thể phát hành, trên thị trường vốn có các loại trái phiếu sau
đây:
 Trái phiếu chính phủ (Government bond) :
Thường được phát hàng dưới dạng trái phiếu kho bạc nằm bù đắp thâm
hụt NSNN hàng năm.
Trái phiếu kho bạc trung hạn (treasury note) có thời hạn dưới 10 năm,

trái phiếu kho bạc dài hạn (treasury bond) có thời hạn trên 10 năm.
Chú ý là trái phiếu kho bạc ở dạng ngắn hạn có tên gọi là tín phiếu kho
bạc Nhà nước và được giao dịch trên thị trường tiền tệ.
Trái phiếu chinh phủ là loại trái phiếu được mua bán mạnh nhất trên thị
trường vốn các nước nên được xem là công cụ lỏng nhất trên thị trường
vốn.
Các nhà đầu tư vào loại công cụ này gồm có các ngân hàng (kể cả
NHTW), các tổ chức tài chính và các cá nhân.
Ngoài trái phiếu chính phủ, còn có trái phiếu do các cơ quan trực thuộc
chính phủ phát hành (government agency bonds); trái phiếu của chính
quyền địa phương (local government bonds or municipal bonds)_dùng
để tài trợ cho ngân sách địa phương hoặc để đầu tư cho từng công
trình cụ thể theo kế hoạch. Các trái phiếu loại này thường có ưu đãi là
không phải chịu thuế.
 Trái phiếu công ty (corporate bond)
Loại trái phiếu này thường do các công ty lớn và có uy tín phát hành.
Các giao dịch về trái phiếu công ty nhìn chung nhỏ hơn so với các giao
dịch về trái phiếu chính phủ. Tại các nước phát triển, quy mô thị trường
trái phiếu công ty cũng nhỏ hơn quy mô thị trường cổ phiếu công ty
nhưng tốc độ phát triển bù lại là nhanh hơn. Các trái chủ luôn là người
được thanh toán lãi từ việc đầu tư trái phiếu trước các cổ đông mà
không cần phụ thuộc vào tình hình tài chính của công ty.
Trái phiếu công ty gồm có: trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản của
công ty hoặc được bảo lãnh bởi uy tín của một doanh nghiệp khác
(thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng khoán; trái phiếu
không cần đảm bảo; trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu; trái
phiếu phát hành dưới mệnh giá.
Tại Việt Nam chưa phổ biến phát hành trái phiếu công ty. Hiện chủ yếu
mới chỉ có các ngân hàng phát hành trái phiếu để huy động vốn từ dân
chúng.

Trái phiếu đầu tư do một công ty đầu tư phát hành, người mua trái
phiếu sẽ là người gia nhập quỹ đầu tư.

13


2.2 Cổ phiếu
a/ Khái niệm
Cổ phiếu là một chứng thư hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu vốn
góp vào công ty và quyền được hưởng những quyền lợi có liên quan đối với
thu nhập và tài sản ròng của công ty đó.
 Cổ phần (share/stock): khi công ty huy động vốn, họ sẽ chia số vốn cần
huy động thành nhiều phần bằng nhau, mỗi phần được gọi là cổ phần.
 Cổ đông (shareholder): là người mua các cổ phần nói trên.
 Cổ phiếu: với số cổ phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy
chứng nhận sở hữu gọi là cổ phiếu.
 Mệnh giá (face value): là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu và thường
được ghi bằng đồng nội tệ với mệnh giá do luật chứng khoán của nước
đó hoặc do điều lệ công ty cổ phần ấy quy định. Ở Việt Nam, theo Nghị
định 114 – CP, mệnh giá cổ phiếu của các doanhnghiệp Việt Nam thống
nhất là 10.0000 vnđ.
 Giá trị ghi sổ (book value): căn cứ vào giá trị tài sản ròng cả công ty
trên bảng tổng kết tài sản để định giá giá trị ghi sổ của mỗi cổ phần.
 Giá trị thị trường (market value): là giá cổ phiếu được mua bán trên thị
trường.
 Thời hạn của cổ phiếu được coi như có thời hạn thanh toán bằng thời
gian hoạt động của công ty. Khi vốn góp qua việc mua cổ phiếu, cổ
đông không được phép rút khoản vốn đã đầu tư về trừ khi công ty
ngừng hoạt động hoặc có quy định khác của công ty về rút vốn cổ
phần. Tuy vậy, các cổ đông được phép chuyển nhượng cổ phần mà

mình nắm giữ cho người khác và qua đó rút lại được vốn mà mình đã
đầu tư trước đây .
 Các cổ đông có quyền tham gia quản lý công ty bằng cách bầu ra hội
đồng quản trị (board of directors) nhằm thay mặt mình quản lý và điều
hành công ty. Những cổ đông nào chiếm được một tỷ lệ % nhất định
trên tổng số cổ phần của công ty sẽ được quyền ra ứng cử vào vị trí
thuộc hội đồng quản trị. Lợi nhuận ròng mà cổ đông có được sẽ căn cứ
trên số cổ phần mà anh ta hiện sở hữu.
 Phần lãi trả cho mỗi cổ phần gọi là cổ tức (dividend), quyền này chỉ
được thực hiện nếu công ty làm ăn có lãi và công ty có quyết định phân
chia lợi nhuận chứ không giữ lại tái đầu tư sản xuất.
b/ Phân loại
Có nhiều tiêu chí để phân loại cổ phiếu:
 Căn cứ vào phương thức góp vốn có hai loại là cổ phiếu hiện kim (dành
cho cổ đông góp vốn bằng tiền) và cổ phiếu hiện vật (dành cho cổ
đông góp vốn bằng tài sản).
 Căn cứ vào hình thức phát hành có cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô
danh.

14


 Căn cứ vào quyền lợi được hưởng có cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu
thường
Cổ phiếu ưu đãi (preferred ctock) : có mức lợi tức cố định không phụ
thuộc vào kết quả và chính sách chia lãi hàng năm của công ty và cổ
đông. Cổ đông giữ cổ phiếu ưu đãi sẽ không được tham gia bầu cử hay
ứng cử vào hội đồng quản trị. Họ được ưu tiên phân chia tài sản còn lại
của công ty trong trường hợp công ty bị thanh lý, giả thể chỉ sau việc
thanh toán các khoản nợ của công ty.

Cổ phiếu thường (common stock): còn có tên gọi là cổ phiếu cổ thông.
Cổ phiếu loại này không quy định trước cổ tức cổ đông sẽ nhận được vì
cổ tức loại cổ phiếu này phụ thuộc vào tình hình lợi nhuận của công ty
và kế hoạch phân chia lợi nhuận của hội đồng quản trị. Cổ đong sẽ chỉ
được nhận cổ tức sau khi công ty trả lãi vay và cổ tức cho cổ đông ưu
đãi. Cổ đông nắm giữu loại cổ phiếu này tuỳ vào lượng cổ phần nắm
giữ có quyền tham gia quản lý công ty: bầu cử, ứng cử,…Trên thị trường
giá của loại cổ phiếu này thường biến động nhiều hơn so với cổ phiếu
ưu đãi.

15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×