Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Giải pháp tăng cường hoạt động Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 119 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.Trong những năm gần đây, nhất là sau
khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mức độ hội nhập của Việt
Nam vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, trong đó, tài chính ngân hàng
là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất. Trong tiến trình chung đó của
nền kinh tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn về nguồn
lực, công nghệ thị trường…Bên cạnh đó việc hạn chế về trình độ quản lý, các tiêu
chuẩn về kiểm toán và kế toán chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, trình độ công
nghệ lạc hậu, dịch vụ ngân hàng còn yếu kém, lúng túng trong cách điều hành và
kiểm soát các hoạt động ngân hàng trong điều kiện mới đã tạo nên những rủi ro ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trước những thách thức mới theo yêu cầu hội nhập WTO, cùng với sự phát triển
nhanh chóng của thị trường chứng khoán cũng như các vấn đề nảy sinh trong quản
trị doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng buộc nhà quản lý phải tìm kiếm
công cụ hữu hiệu để các ngân hàng thương mại có thể quản lý và kiểm soát các loại
rủi ro hiện có, đồng thời ngăn chặn việc phát sinh những rủi ro mới nhằm quản trị
hiệu quả các hoạt động trong DN. Kiểm toán nội bộ (KTNB) xuất hiện mang tính
khách quan đáp ứng nhu cầu quản lý trong môi trường kinh doanh có nhiều thay
đổi. Nhà quản lý sử dụng KTNB như là một phương sách quản lý giúp họ đạt được
mục tiêu quản trị.
Bên cạnh đó công tác kiểm toán nội bộ ở Ngân hàng Thương mại cổ phần
Công Thương Việt Nam mới được thành lập và hoạt động trong vài năm gần đây và
quá trình thực hiện còn nhiều lúng túng, thiếu kinh nghiệm cả về lý luận lẫn thực
tiễn, chưa được quan tâm đúng mức để phát huy tác dụng trong việc quản lý rủi ro,
giúp tăng cường năng lực quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng.Với
những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường hoạt động Kiểm
toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam” để
nghiên cứu.



2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
- Về lý luận: Luận văn tổng hợp những vấn đề lý luận cơ bản và những đặc điểm
của các ngân hàng thương mại đối với công tác kiểm toán nội bộ.
- Về mặt thực tiển: Luận văn nghiên cứu công tác Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận về kiểm toán nội bộ trong các ngân
hàng thương mại và vận dụng nghiên cứu kiểm toán nội bộ Ngân hàng thương mại
cổ phần Công Thương Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu hiệu quả hoạt động
Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng thương mại (Giới hạn nghiên cứu trong các như
nội dung như: Tổ chức bộ máy kiểm toán, nội dung công việc kiểm toán, qui trình
kiểm toán, chất lượng kiểm toán và các vấn đề về hoạt động ngân hàng) và đơn vị
đại diện là Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và sử dụng các phương pháp: phương pháp thống kê, tổng hợp, phân
tích, đối chiếu, chứng minh, so sánh giữa lý luận và thực tiễn để đánh giá công tác
kiểm toán nội bộ, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc tăng cường hoạt động kiểm
toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về KTNB trong
các ngân hàng thương mại.
-Về thực tiễn: Trên cơ sở nêu ra các tồn tại trong công tác kiểm toán nội bộ ở
Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam, luận văn đã đưa ra các giải
pháp tăng cường hoạt động KTNB, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh cho Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được trình bày thành 3 chương

Chương I: Lý luận chung về tổ chức Kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương
mại;


Chương II: Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Công Thương Việt Nam;
Chương III: Phương hướng và giải pháp tăng cường hoạt động kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam.


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Những vấn đề chung về hệ thống kiểm toán nội bộ
1.1.1 Bản chất của kiểm toán
Kiểm toán có gốc từ Latinh “Audit”, có nghĩa là nghe. Nguyên bản
“Auditing” gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Hình ảnh ban đầu
của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra được thực hiện bằng cách người soạn thảo
báo cáo đọc to lên cho một bên độc lập nghe rồi chấp nhận.
Cùng với sự phát triển của các hoạt động kinh tế, kiểm toán ngày nay đã trở
thành một hoạt động nghề nghiệp tinh vi và phức tạp, với nhiều loại hình kiểm toán
khác nhau. Mỗi loại hình kiểm toán có những đặc thù và vai trò riêng có nhất định.
Tuy vậy có thể nêu chung một định nghĩa về kiểm toán như sau:
Kiểm toán là một quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng
nghiệp vụ thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng
được của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa
các thông tin đó với các chuẩn mực đã được xây dựng.[13]
Trong đó:
Các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền: là các kiểm toán viên. Kiểm toán viên
phải là người có đủ khả năng để hiểu được các chuẩn mực đã được xây dựng và
phải có thẩm quyền đối với đối tượng được kiểm toán để có thể thu thập đầy đủ các

bằng chứng thích hợp làm cơ sở cho các ý kiến kết luận khi báo cáo kết quả kiểm
toán. Đồng thời kiểm toán viên phảsi là người độc lập về quan hệ tình cảm và kinh
tế với đơn vị được kiểm toán, là người vô tư và khách quan trong công việc. Tính
độc lập của kiểm toán viên không phải là một khái niệm tuyệt đối, nhưng nó là mục
tiêu hướng tới và phải đạt được ở một mức độ nào đó.
Thu thập và đánh giá các bằng chứng: bằng chứng kiểm toán có thể hiểu một
cách chung nhất là tất cả những tài liệu kiểm toán viên đã thu thập được để xác


minh mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin có thể định lượng của một
đơn vị với những chuẩn mực đã được thiết lập.
Các thông tin có thể định lượng và các chuẩn mực đã được xây dựng: để tiến
hành một cuộc kiểm toán cần có những thông tin có thể định lượng được và có thể
kiểm tra được và các chuẩn mực cần thiết để theo đó kiểm toán viên có thể đánh
giá các thông tin. Các thông tin có thể định lượng được có nhiều loại khác nhau, có
thể là thông tin tài chính hoặc phi tài chính, ví dụ: các báo cáo tài chính của một
doanh nghiệp, bản khai thuế, giá trị quyết toán của một công trình đầu tư xây dựng
cơ bản…Các chuẩn mực đã được xây dựng và sử dụng trong kiểm toán là cơ sở để
đánh giá các thông tin đã kiểm tra. Các chuẩn mực này rất đa dạng và phong phú,
tuỳ từng loại kiểm toán và mục đích của từng cuộc kiểm toán.
Đơn vị được kiểm toán: Có thể là một tổ chức kinh tế, một đơn vị sự nghiệp…
Báo cáo kết quả: Giai đoạn cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kết quả
kiểm toán. Tuỳ thuộc vào từng loại hình kiểm toán các báo cáo có thể khác nhau về
bản chất nội dung nhưng trong mọi trường hợp, chúng đều phải thông tin cho người
đọc về mức độ tương quan và phù hợpgiữa các thông tin đã được kiểm tra và các
chuẩn mực đã xây dựng.
Phân loại kiểm toán
Cùng với quá trình phát triển, ngày nay trên thế giới có nhiều loại kiểm toán
khác nhau. Tuỳ theo tiêu thức có thể có những cách phân loại khác nhau. Thông
thường người ta phân loại kiểm toán theo chức năng và theo chủ thể kiểm toán.

1.1.1.1Phân loại theo chức năng
Căn cứ theo chức năng kiểm toán, có thể chia công việc kiểm toán thành 3 loại:
Kiểm toán hoạt động, Kiểm toán tuân thủ, Kiểm toán báo cáo tài chính.[2]
Kiểm toán hoạt động.
Kiểm toán hoạt động là quá trình kiểm tra và đánh giá về sự hữu hiệu và tính
hiệu quả của một hoạt động để từ đó đề xuất phương án cải tiến. Ở đây, sự hữu hiệu
được hiểu là khả năng hoàn thành nhiệm vụ hay mục tiêu của đơn vị, còn tính hiệu
quả là khả năng đạt được kết quả tốt nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất.


Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, có thể bao gồm:
+ Rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế KSNB để giám sát và tăng
cường hiệu quả của hệ thống này.
+ Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng mọt cách hiệu quả các nguồn
lực, như: nhân, tài, vật lực.
+ Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối và sử
dụng thu nhập, bảo toàn và phát triển vốn...
+ Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của từng bộ phận chức năng
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Đánh giá hiệu quả của dây chuyền mới lắp đặt…
Đối với loại hình kiểm toán này, chuẩn mực đánh giá được xác định tuỳ theo
từng đối tượng cụ thể, vì thế không có chuẩn mực chung và việc lựa chọn chuẩn
mực thường mang tính chủ quan tuỳ theo nhận thức của kiểm toán viên. Chuẩn mực
có thể là các tiêu chuẩn kỹ thuật, tỷ suất bình quân ngành hay 1 tiêu chuẩn nào đó.
Loại hình kiểm toán này thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội
bộ, nhưng cũng có thể do kiểm toán viên Nhà nước hay kiểm toán viên độc lập tiến
hành.
Kết quả kiểm toán hoạt động chủ yếu phục vụ cho lợi ích của chính đơn vị.
Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là hoạt động kiểm toán nhằm đánh giá mức độ chấp hành

luật pháp, hay các văn bản, qui định nào đó của đơn vị.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ có thể bao gồm:
+ Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chế
độ quản lý của Nhà nước, và tình hình chấp hành các nghị quyết, quyết định, quy
chế của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc.
+ Kiểm tra tính tuân thủ các qui định về nguyên tắc qui trình nghiệp vụ, thủ
tục quản lý của toàn bộ cũng như từng khâu công việc của từng bộ phận.
Chuẩn mực dùng để đánh giá là các văn bản có liên quan, như: luật thuế, các
văn bản pháp qui, các nội qui, chế độ, thể lệ...


Kiểm toán tuân thủ có thể được thực hiện bởi kiểm toán viên nội bộ, kiểm
toán viên nhà nước hay kiểm toán viên độc lập.
Kết quả kiểm toán tuân thủ phục vụ cho các cấp thẩm quyền có liên quan.
Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán (báo cáo) tài chính là việc kiểm tra và xác nhận tính trung thực và
hợp lí của các báo cáo tài chính cũng như xem xét các báo cáo tài chính có được lập
phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực kế toán và theo yêu cầu của pháp luật
không.
Đối tượng kiểm toán: là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm:
Bảng cân đối tài khoản; Bảng Cân đối kế toán; Báo cáo kết quả kinh doanh; Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ; Thuyết minh các báo cáo tài chính.
Kiểm toán báo cáo tài chính lấy các chuẩn mực kế toán hay chế độ kế toán
hiện hành làm thước đo chủ yếu. Kiểm toán báo cáo tài chính thường được thực
hiện bởi các KTV độc lập. Kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị, nhà nước và
các bên thứ 3, trong đó chủ yếu là các nhà đầu tư, các nhà cung cấp.
1.1.1.2Phân loại theo chủ thể
Căn cứ theo chủ thể kiểm toán có thể chia công việc kiểm toán thành 3 loại: Kiểm
toán nhà nước, Kiểm toán độc lập, và Kiểm toán nội bộ.[2]
Kiểm toán Nhà nước

Kiểm toán nhà nước là hoạt động kiểm toán do các cơ quan kiểm toán Nhà
nước tiến hành, chủ yếu là thực hiện kiểm toán tuân thủ và đánh giá hiệu quả hoạt
động của các đơn vị có sử dụng vốn, kinh phí của nhà nước.
Cơ quan kiểm toán nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của nhà
nước. Kiểm toán viên nhà nước là các viên chức nhà nước. Về mặt tổ chức, Kiểm
toán Nhà nước có thể trực thuộc Chính phủ, Quốc hội hoặc Toà án.
Kiểm toán nhà nước có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị được kiểm toán
sửa chữa những sai phạm và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những sai
phạm, đề xuất với Chính phủ sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần
thiết.


Kiểm toán độc lập
Là quá trình do các kiểm toán viên độc lập trong các tổ chức kiểm toán
chuyên nghiệp thực hiện nhằm đưa ra ý kiến đánh giá về tính trung thực hợp lý của
các báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán.
Như vậy trong loại hình kiểm toán này, các thông tin có thể định lượng chính
là các thông tin trên báo cáo tài chính; các chuẩn mực đã được thiết lập chủ yếu là
những chuẩn mực chế độ kế toán và tài chính; các quy định khác có liên quan đến
hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Mục đích cơ bản của toàn bộ quá trình kiểm toán là kiểm tra lại và xác nhận
sự trung thực hợp lý của các báo cáo tài chính, đảm bảo rằng các thông tin trình bày
trên báo cáo tài chính không có những sai sót trọng yếu có thể làm sai lệch quyết
định của người sử dụng báo cáo. Kết quả của KTĐL chủ yếu phục vụ cho bên thứ
ba có quyền lợi liên quan.
KTĐL phát triển mạnh từ khoảng cuối thế kỷ 19 cùng với sự ra đời và phát
triển của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Các công ty cổ phần làm xuất
hiện sự phân tách giữa quyền sở hữu (các cổ đông – nhà đầu tư) và quyền điều hành
doanh nghiệp (Ban lãnh đạo). Để có những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như
bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, các nhà đầu tư, các chủ nợ, và các đối tác có

quyền lợi liên quan khác cần có thông tin trung thực về tình hình tài chính và kết
quả hoạt động của công ty. Ban lãnh đạo doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp các
thông tin này thông qua các báo cáo tài chính. Tuy nhiên lợi ích của ban lãnh đạo
doanh nghiệp và các cổ đông, các chủ nợ không phải lúc nào cũng đồng nhất với
nhau. Nói cách khác, các nhà quản lí có động cơ để che dấu thông tin thật về tình
hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó xuất hiện nhu cầu có
một bên thứ ba độc lập đứng ra kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và hợp lí
của các báo cáo tài chính do doanh nghiệp phát hành.
Hoạt động KTĐL tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp do các hiệp hội nghề
nghiệp quốc tế hoặc quốc gia đề ra. Các hiệp hội nghề nghiệp cũng cấp các chứng
chỉ nghề nghiệp như một sự xác nhận về năng lực cho các kiểm toán viên thực hành


nghề nghiệp của mình. Hiện này, 2 chứng chỉ có uy tín nhất trong KTĐL trên thế
giới là chứng chỉ Kiểm toán viên công chứng CPA của Mỹ và chứng chỉ ACCA của
Anh. Ngoài ra các quốc gia có các chứng chỉ tương đương. Ví dụ: tại Việt Nam hiện
nay BTC đã tổ chức thi để lấy chứng chỉ CPA quốc gia.
Kiểm toán nội bộ
KTNB có thể được hiểu đơn giản là hoạt động kiểm toán do các kiểm toán
viên nội bộ – các nhân viên của chính doanh nghiệp tiến hành.
1.1.2 Khái quát vềKiểm toán nội bộ
Cũng như các loại hình kiểm toán khác, KTNB xuất hiện từ thời cổ đại trong
nền văn minh Hy Lạp. Những kiểm toán viên đầu tiên là những người giám sát
được thuê để bảo vệ tài sản và đảm bảo tính đáng tin cậy. Họ ghi chép các hoạt
động của doanh nghiệp và cũng cung cấp sự bảo vệ về mặt vật lí đối với các tài sản.
Và điều này vẫn không có gì thay đổi cho đến tận thế kỷ 20, khi mà những kỹ thuật
quản lí chuyên nghiệp và mang tính khoa học xuất hiện với sự tập trung vào tính
hiệu lực và hiệu quả xuất hiện. Các nhà quản lí bắt đầu sử dụng KTNB để đánh giá
về hoạt động của doanh nghiệp và đánh giá về tính hiệu quả. Tại Mỹ với việc thông
qua Luật Chứng khoán vào năm 1933 và Luật Chứng khoán và trao đổi (Securities

and Exchange Act) năm 1934 một lần nữa nhấn mạnh rằng nhiệm vụ ưu tiên của
KTNB là ngăn chặn gian lận và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhằm đảo bảo rằng có những kiểm soát thích đáng đối với tính chính xác của các
thông tin tài chính và kế toán.
Sự thừa nhận ngày càng tăng đối với nghề KTNB (như một loại hình kiểm
toán riêng biệt) đã đưa đến sự thành lập Viện KTNB (Institute of Internal Auditors –
IIA) vào năm 1941, một hiệp hội nghề nghiệp trên toàn cầu với sứ mạng là thúc đẩy
và hỗ trợ sự phát triển của nghề KTNB. Tiếp đó, việc Thượng viện Hoa Kỳ thông
qua đạo luật Foreign Corrupt Practices Act năm 1977 mở rộng hơn phạm vi của
KTNB tiến tới bao gồm cả việc đánh giá quy trình tổng thể và hệ thống KSNB .
Năm 1992, phạm vi hoạt động của KTNB một lần nữa lại được mở rộng
trong một bản báo cáo do COSO (the Committee of Sponsoring Organizations of


the Commission on Fraudulent Financial Reporting - Treadway Commission). Bản
báo cáo của COSO mở rộng phạm vi hoạt động của KTNB không chỉ bao gồm
những kiểm toán kế toán truyền thống mà còn cả những kiểm soát phi chính thức
như năng lực của các nhân viên các nhà quản lí, những mục tiêu của doanh nghiệp
đã đạt được ở mức độ nào và các rủi ro phát sinh được giám sát như thế nào. Kết
quả là các kiểm toán viên nội bộ bắt đầu trở thành một đối tác của các nhà quản lí
nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức. Điều này được thể hiện trong
khái niệm về KTNB do IIA đưa ra:
“KTNB là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ
chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự
trợ giúp với tổ chức đó”
Tuy nhiên những thay đổi trong hoạt động kinh doanh trong thập kỷ 90, đặc
biệt là sự xuất hiện của khái niệm về “quản trị doanh nghiệp - corporate
governance” và vai trò ngày càng quan trọng của việc quản lí rủi ro, tháng 6 năm
1999, Viện KTNB IIA đã đưa ra khái niệm mới về kiểm toán, theo đó:
KTNB là hoạt động tư vấn và xác nhận mang tính độc lập và khách quan

được thiết lập nhằm tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao hiệu quả hoạt động của
một tổ chức. KTNB giúp cho tổ chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua
việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống và mang tính kỷ luật để đánh giá và
nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, quy trình kiểm soát và
việc quản lí rủi ro.[13]
Như vậy, hoạt động của KTNB bao gồm 2 mảng lớn là xác nhận và tư vấn,
với yêu cầu là đảm bảo tính khách quan và độc lập. Trong đó:
- Dịch vụ xác nhận: liên quan đến việc KTV nội bộ đánh giá một cách
khách quan các bằng chứng thu thập được để đưa ra ý kiến hay các kết luận độc lập
về một quy trình một hệ thống hay một vấn đề khác. Bản chất và phạm vi của hoạt
động xác nhận bởi các KTV nội bộ. Hoạt động này thường liên quan tới 3 bên:
người trực tiếp liên quan tới quy trình, hệ thống hay vấn đề được đánh giá; người
đưa ra đánh giá - KTV nội bộ; và người sử dụng các đánh giá đã được đưa ra.


- Hoạt động tư vấn thuần túy là đưa ra các đề xuất hay các lời khuyên, và
thường được thực hiện theo yêu cầu cụ thể của các nhà quản lí. Bản chất và phạm vi
của các hợp động tư vấn phục thuộc vào thoả thuận với khách hàng. Khi thực hiện
dịch vụ tư vấn, các kiểm toán viên nội bộ cần phải đảm bảo tính khách quan.
- Giá trị gia tăng: Giá trị được tạo ra thông qua việc cải thiện các cơ hội để
đạt được các mục tiêu của tổ chức, xác định những tiến bộ trong hoạt động, và giảm
rủi ro tiềm ẩn thông qua cả hoạt động xác nhận và hoạt động tư vấn.
Mục đích KTNB được đưa ra ở một phạm trù khá rộng là tạo ra giá trị gia
tăng cho tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức. Nó thể hiện một thực
tế là khác với hoạt động kiểm toán trong quá khứ chủ yếu tập trung vào kiểm toán
tài chính và tính tuân thủ, những dịch vụ mà KTNB hiện đại có thể cung cấp cho tổ
chức là rất đa dạng phong phú. Đồng thời khái niệm trên cũng nêu rõ, KTNB hỗ trợ
cho tổ chức thông qua “tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống và mang tính kỷ luật để
đánh giá và nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, hệ thống kiểm
soát và việc quản lí rủi ro”. Trong đó:

- Quy trình quản trị doanh nghiệp: bao gồm các qui trình và các cấu trúc
được thực hiện bởi HĐQT nhằm thông báo, chỉ đạo, quản lí và giám sát các hoạt
động của các tổ chức hướng tới đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, nó
bao gồm những thủ tục được thiết lập bởi những người đại diện cho các chủ sở hữu
nhằm giám sát các quy trình kiểm soát và quản lí rủi ro do các nhà quản trị quản lí.
Theo IIA và các tổ chức khác như UB Chứng khoán NewYork và Hiệp hội
Quốc gia các nhà giám đốc doanh nghiệp (National Association of Corporate
Directors), bốn cột trụ để quy trình quản trị doanh nghiệp đạt được hiệu lực là: UB
Kiểm toán thuộc HĐQT, các nhà quản lí điều hành, KTNB và KTĐL. Khi 4 nhóm
này phối hợp tốt với nhau, hệ thống KSNB sẽ vững mạnh, các báo cáo chính xác,
các chuẩn mực đạo đức được duy trì và thực hiện, hoạt động giám sát có hiệu quả,
rủi ro được giảm thiểu, và các khoản đầu tư được bảo vệ.


- Các quy trình kiểm soát: Các chính sách, thủ tục và các hoạt động là một
phần của hệ thống KSNB, được thiết kế để đảm bảo rằng các rủi ro nằm trong giới
hạn chịu đựng rủi ro đã được thiết lập trong quá trình quản lí rủi ro.
- Quản lí rủi ro: là quy trình để xác định, đánh giá, quản lí và kiểm soát
những rủi ro tiềm ẩn, đưa ra sự đảm bảo hợp lí về việc đạt tới những mục tiêu của tổ
chức.
Nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của KTNB, Viện KTNB IIA cũng đưa ra Khung về
các quy tắc nghề nghiệp – viết tắt là PPF (Professional Practices Framework), gồm:
- Khái niệm về KTNB
- Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp (Code of Ethics)
- Các chuẩn mực nghề nghiệp (International Standards for the Professional
Practice of internal auditing), bao gồm 3 nhóm chuẩn mực:
+ Attribute Standards: nêu ra các đặc điểm của tổ chức hoặc các cá nhân thực
hiện hoạt động KTNB.
+ Performance Standards: mô tả bản chất của hoạt động KTNB, các tiêu chí chất
lượng (quality criteria) để đánh giá về hoạt động của KTNB.

Các chuẩn mực thuộc 2 nhóm trên được áp dụng chung cho các hoạt động xác
nhận và hoạt động tư vấn.
+ Implementation Standards: bao gồm 2 nhóm, một nhóm thiết lập cho hoạt
động xác nhận và một nhóm được thiết lập cho hoạt động tư vấn.
-

Các hướng dẫn thực hiện và các hỗ trợ khác từ IIA.
Các quy định do IIA đưa ra trong PPF, đươc coi là những thông lệ tốt nhất

cho thực hiện hoạt động KTNB trên toàn cầu. Các quy định này sẽ được IIA liên tục
cập nhật để phản ảnh được những sự phát triển và những xu hướng trong nghề nghiệp
KTNB. Việc tuân theo các quy định này được IIA coi như điều kiện cần để đảm bảo
chất lượng của hoạt động KTNB. Các thành viên của IIA trên khắp thế giới cam kết
tuân thủ theo các chuẩn mực nghề nghiệp này và nếu do những quy định pháp lí mà
không thể tuân thủ một số quy định nào đó thì phải giải thích rõ và tuân thủ theo tất
cả các quy định còn lại của IIA.


Bên cạnh đó, IIA cũng tổ chức thi và cấp các chứng chỉ nghề nghiệp cho các
kiểm toán viên nội bộ tương tự như các chứng chỉ CPA hoặc ACCA của các kiểm toán
viên độc lập. Cụ thể, IIA cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nội bộ CIA - Certified Internal
Auditor và chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ cho một số lĩnh vực đặc thù ví dụ chứng
chỉ CFSA - Certified Financial Services Auditor, chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán,….
1.2 Ngân hàng thương mại và hoạt độngKTNB trong ngân hàng thương mại.
1.2.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.2.1.1Bản chất, chức năng và vai trò của NHTM
Ngân hàng là một trong những loại hình doanh nghiệp lâu đời, đặc biệt và
phức tạp nhất trong nền kinh tế, có lẽ chính vì thế mà cho đến nay chưa có một định
nghĩa thống nhất về ngân hàng. Tuỳ từng quốc gia và mỗi thời kỳ khác nhau, người

ta có những cách định nghĩa khác nhau về ngân hàng.
Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam thì “Ngân hàng là một loại hình tổ
chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
khác có liên quan”
Tuy nhiên dù được định nghĩa theo cách nào thì xét về bản chất ngân hàng
thương mại là một loại hình trung gian tài chính đứng giữa người đi vay và người
cho vay, hoạt động cơ bản của nó là đi vay để cho vay.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại tình huống trong đó một số chủ thể tạm thời có
nguồn vốn nhàn rỗi, và muốn cho vay để thu lãi, đồng thời một số khác lại thiếu
vốn và mong muốn được đi vay. Việc khớp nối được cung cầu và cầu về vốn, đưa
người đi vay và người cho vay gặp nhau sẽ làm tăng hiệu quả cho nền kinh tế nói
chung và mang lại lợi ích cho cả người đi vay cũng như người cho vay. Xét về mặt
lý thuyết người đi vay và người cho vay có thể giao dịch trực tiếp, những trên thực
tế điều này rất khó thực hiện do giữa họ luôn tồn tại rất nhiều khác biệt như về khối
lượng, thời hạn, tính thanh khoản, tính pháp lý, tính thương mại, khả năng hoàn trả,
rủi ro của giao dịch. Ví dụ người cho vay thường muốn cho vay những món nhỏ và
trong thời hạn ngắn, khả năng thanh khoản cao, người đi vay thường muốn vay


những món lớn với thời hạn dài. Một khả năng khác là họ có thể tham gia vào thị
trường tài chính mở, nơi nhà đầu tư có thể mua các giấy nợ do các công ty phát
hành. Tuy nhiên trong các thị trường này luôn tồn tại vấn đề về chi phí giao dịch và
chi phí thông tin. Một nguyên tắc hoạt động của các thị trường mở là hoạt động qua
môi giới, khi tham gia vào thị trường nhà đầu tư sẽ phải trả một chi phí giao dịch,
chi phí này không phụ thuộc vào quy mô của giao dịch và do đó nó có thể loại nhà
đầu tư nhỏ ra khỏi thị trường. Ngoài ra khi đầu tư trên thị trường mở, các nhà đầu tư
cũng phải chịu chi phí thu thập xử lý thông tin, để xác định được trong các công ty
tham gia thị trường, đâu là nơi an toàn để họ có thể đầu tư tiền của mình vào cũng
như để giám sát hoạt động của người đi vay đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng
mục đích. Nhà đầu tư cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro trong trường hợp công ty

kinh doanh thua lỗ và không có khả năng thanh toán các khoản nợ. Chính những khó
khăn trên đã làm cho luồng vốn trực tiếp từ người cho vay đến người đi vay rất hạn
chế, và nó cũng chính là lý do cho sự ra đời của các trung gian tài chính mà ngân hàng
thương mại là bộ phận chủ yếu.
Các ngân hàng thương mại giải quyết những mâu thuẫn trên thông qua tạo ra
hai kiểu tiểu thị trường: trên thị trường tiền gửi nó cung cấp các dịch vụ đầu tư đáp
ứng yêu cầu của người tiết kiệm, trên thị trường tín dụng nó đứng ra cung cấp các
khoản vay theo yêu cầu của người đi vay. Sở dĩ ngân hàng làm được điều này, vì nó có
lợi thế nhờ quy mô và sự chuyên môn hoá. Nhờ tập hợp được một khối lượng lớn các
khoản tiền tiết kiệm nhỏ lẻ trong nền kinh tế, các ngân hàng có khả năng đầu tư vào
một danh mục tài sản có mức độ đa dạng hoá cao và do đó giảm được mức rủi ro
chung, cân bằng được cơ cấu thời hạn và rủi ro giữa bên tài sản nợ và tài sản có. Lợi
thế kinh tế nhờ quy mô cũng giúp cho các ngân hàng giảm được chi phí giao dịch và
thông tin. Khi ngân hàng đứng ra thu thập thông tin và giám sát hoạt động của người
vay tiền sẽ hiệu quả hơn rất nhiều, khi từng người đầu tư tự làm điều đó. Mặt khác, các
ngân hàng được chuyên môn hoá để thực hiện hoạt động đi vay và cho vay do đó nó có
điều kiện để phát triển những kiến thức chuyên môn, đội ngũ chuyên gia cũng như các


điều kiện về công nghệ, để có thể thực hiện những hoạt động này một cách hiệu quả
nhất.
Với bản chất là trung gian tài chính, các ngân hàng có 3 chức năng cơ bản:


Chức năng luân chuyển tài sản (chức năng trung gian tín dụng).

Trong chức năng luân chuyển tài sản ngân hàng thực hiện đồng thời 2 hoạt động. Thứ
nhất, ngân hàng huy động vốn bằnh cách bán những tài sản nợ của mình cho những
người tiết kiệm. Những tài sản nợ do ngân hàng phát hành ví dụ: như các khoản tiền
gửi thường hấp dẫn người tiết kiệm hơn các chứng khoán do các công ty phát hành; do

nó thường được thiết kế sao cho phù hợp hơn với nhu cầu của họ về khả năng thanh
khoản, về độ an toàn… Thứ hai, ngân hàng tiến hành đầu tư bằng cách cấp tín dụng và
mua các cổ phiếu, trái phiếu do các công ty phát hành (gọi chung là đầu tư chứng
khoán), những chứng khoán này gọi là những chứng khoán sơ cấp. Thông qua hoạt
động này ngân hàng cung cấp cho công chúng dịch vụ chuyển đổi một loại tài sản tài
chính này thành một loại tài sản tài chính khác, thoả mãn được nhu cầu của cả người đi
vay và người cho vay, thúc đẩy luân chuyển vốn trong nền kinh tế.


Cung cấp các dịch vụ thanh toán, môi gới tư vấn và cung cấp thông

tin: Ngân hàng hoạt động như một đại lý của khách hàng trong việc cung cấp dịch vụ
và các thông tin cho khách hàng. Ví dụ như hoạt động nghiên cứu và tư vấn đầu tư cho
khách hàng, hướng dẫn khách hàng mua bán chứng khoán… Thông qua chức năng tư
vấn và cung cấp dịch vụ thanh toán ngân hàng giúp khách hàng giảm chí phí đầu tư
nắm bắt tình hình tài chính và kinh doanh của công ty một cách chính xác, toàn diện
hơn, nhờ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư và tiết kiệm trong dân cư. Đồng thời với việc
cung cấp các dịch vụ thanh toán, ngân hàng cũng góp phần thúc đẩy lưu thông hàng
hóa và tiền tệ trong nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế.


Chức năng tạo tiền: Thông qua hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và

làm trung gian thanh toán NHTM tạo ra tiền ghi sổ và làm khuyếch đại tổng lượng tiền
trong nền kinh tế.
Thực hiên tốt ba chức năng trên ngân hàng có vai trò vô cùng to lớn: Nó chuyển
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu trong nền kinh tế, đưa đồng vốn nhàn rỗi tới nơi có cơ hội


đầu tư vào sản xuất tạo ra giá trị gia tăng, làm tăng tính hiệu quả và năng suất trong nền

kinh tế. Hệ thống ngân hàng tạo cơ hội đầu tư và tăng thu nhập cho người tiết kiệm, do
đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, tạo ra nguồn vốn tài trợ cho phát triển kinh tế.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền, ngân hàng tiết kiệm
chi phí cho xã hội đồng thời thúc đẩy lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Ngoài ra khi thực
hiện cho vay và giám sát hoạt động của khách hàng vay, ngân hàng còn thực hiện vai
trò giám đốc đối với nền kinh tế. Hoạt động này cùng với dịch vụ tư vấn và cung cấp
thông tin góp phần tăng tính công khai minh bạch của nền kinh tế, yếu tố rất quan trọng
cho sự phát triển bền vững và lâu dài.
Tuy nhiên khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, nhận tiền gửi để cho
vay, ngân hàng đã chấp nhận toàn bộ rủi ro về phần mình. Công nghệ ngân hàng
còn được coi là công nghệ biến đổi thời hạn và rủi ro. Nói cách khác hoạt động
ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và rất nhạy cảm với những biến động về kinh tế
chính trị xã hội. Hơn nữa hoạt động của ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin của
người tiết kiệm rằng ngân hàng có khả năng sử dụng đồng vốn của họ một cách
hiệu quả và an toàn. Khi một ngân hàng mất khả năng thanh toán có thể khiến cho
người gửi tiền mất lòng tin vào toàn hệ thống ngân hàng họ sẽ đồng loạt rút tiền của
mình ra khỏi ngân hàng và có thể đẩy hệ thống vào tình trạng hoảng loạn. Những vụ
hoảng loạn ngân hàng có những hậu quả rất nặng nề cả về kinh tế và xã hội. Các
nền kinh tế đều đưa ra rất nhiều giải pháp khác nhau để phòng tránh những vụ
hoảng loạn ngân hàng. Một trong những biện pháp là xây dựng hệ thống KSNB
vững bộ cho các NHTM.
1.2.1.2Các đặc điểm của NHTM có tác động tới kiểm toán nội bộ
Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính, hoạt động kinh doanh ngân hàng có rất nhiều những khác biệt so với các loại
hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Những đặc điểm này sẽ ảnh hưởng tới
hoạt động KTNB của ngân hàng.
 Các ngân hàng thường quản lý và giám sát một khối lượng tài sản lớn
trong đó chủ yếu là những tài sản tài chính, các khoản mục tiền tệ bao gồm tiền



mặt và giấy tờ có giá. Các loại tài sản này thường đòi hỏi phải có những biện pháp
bảo vệ an ninh rất chặt chẽ cả khi bảo quản cất giữ, vận chuyển cũng như chuyển
giao, đồng thời nó cũng biến các ngân hàng thành nơi rất nhạy cảm với các vấn đề
về gian lận, vượt thẩm quyền. Vì vậy các ngân hàng thường phải thiết lập một hệ
thống những thủ tục hoạt động và thủ tục kế toán rõ ràng, chặt chẽ và chuẩn tắc;
hệ thống hạn mức chính xác cho quyền hạn của mỗi cá nhân; và hệ thống KSNB
nghiêm khắc chặt chẽ.
 Các ngân hàng tham gia vào một khối lượng các giao dịch lớn và đa
dạng cả về số lượng và giá trị. Phần lớn các giao dịch này đòi hỏi phải được xử lý
tức thời nhanh chóng, chính xác và thường có ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của
bảng cân đối tài sản, trạng thái rủi ro, chi phí, thu nhập của ngân hàng. Các ngân
hàng, vì thế, cần phải có hệ thống kế toán và KSNB phức tạp dựa trên cơ sở ứng
dụng rộng rãi công nghệ thông tin. Hệ thống thông tin trong các ngân hàng
thường rất phức tạp với khối lượng lớn các giao dịch được xử lý tự động, trực tuyến
và theo thời gian thực.
 Các ngân hàng thường có mạng lưới chi nhánh lớn và phân tán rộng
về mặt địa lý. Mạng lưới chi nhánh này kéo theo sự phân quyền lớn và sự phân
tán trong chức năng kế toán và quản lý mà hậu quả là rất khó để duy trì được một
hệ thống kế toán và những thông lệ hoạt động thống nhất trong toàn tổ chức, đặc
biệt đối với các tổ chức đa quốc gia.
 Các ngân hàng thường tham gia vào rất nhiều các cam kết trong khi
chưa thực hiện chuyển giao vốn thực sự, thường được gọi là các khoản mục
ngoại bảng. Những cam kết này không trực tiếp tạo ra ngay các khoản mục tài sản
và nợ của ngân hàng nên không được đưa vào bảng tổng kết tài sản. Nhưng chúng
có thể có tác động rất lớn tới trạng thái rủi ro thu nhập của ngân hàng và bảng tổng
kết tài sản trong tương lai. Hơn nữa cùng với sự phát triển của hoạt động ngân hàng
quốc tế, của các thị trường tài chính và công cụ tài chính mới, các khoản mục này
ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Chúng có thể đem lại thu nhập rất lớn những cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trong



khi đó những khoản mục này có thể không được vào sổ kế toán ban đầu và những
thiếu sót trong ghi chép những khoản mục này thường rất khó phát hiện
 Các ngân hàng liên tục phát triển những sản phẩm mới, những công
cụ tài chính mới do sức ép của cạnh tranh, tự do hoá tài chính, sự phát triển của
khoa học công nghệ. Những sản phẩm này thường có mức rủi ro cao trong khi sự
phát triển của chúng thường đi trước những nguyên tắc kế toán và kiểm toán cũng
như những quy tắc giám sát khác. Do đó hoạt động phát triển sản phẩm mới có thể
là nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro và khả năng có sai phạm ảnh hưởng trọng yếu tình hình
tài chính của ngân hàng
 Hệ thống ngân hàng là một trong những lĩnh vực bị quản lý chặt chẽ
nhất trong nền kinh tế bởi các cơ quan chính phủ. Lý do là vì ngân hàng quản lý
một số lượng lớn các tài sản của những người gửi tiền trong khi hoạt động kinh
doanh ngân hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Hơn nữa rủi ro trong ngân hàng có tính
dây chuyền, một ngân hàng đổ vỡ có thể kéo theo khủng hoảng cho toàn hệ thống
và để lại những hậu quả nặng nề cả về kinh tế và xã hội. Chính vì thế, tại hầu hết
các quốc gia đều đặt ra rất nhiều những quy chế đặc biệt ngăn chặn các ngân hàng
chấp nhận rủi ro qua mức hay có những hành vi kinh doanh gian lận nhằm bảo về
quyền lợi của người gửi tiền cũng như đảm bảo sự an toàn lành mạnh của nền kinh
tế. Những quy định, quy chế này sẽ có những tác động đáng kể đến những chuẩn
mực, thông lệ kế toán và kiểm toán trong ngành công nghiệp này.
 Hoạt động kinh doanh ngân hàng có những loại rủi ro đặc thù ít xuất
hiện trong những ngành kinh doanh khác:
+ Rủi ro tín dụng: Rủi ro khi một khách hàng hay một đối tác không có khả năng
hoàn thành những nghĩa vụ của nó một cách đầy đủ.
+ Rủi ro thanh khoản: Rủi ro xuất hiện khi ngân hàng không có đủ thanh khoản cần thiết
để thực hiện các nghĩa vụ hay thanh toán các khoản nợ khi chúng đến hạn.
+ Rủi ro thị trường (rủi ro giá cả): Rủi ro xuất hiện khi giá trị của tài sản hoặc các
nghĩa vụ nợ thay đổi do những biến động của các yếu tố của thị trường, còn được
gọi là rủi ro vị thế. Rủi ro thị trường bao gồm ba loại rủi ro sau:



• Rủi ro lãi suất: Rủi ro xuất hiện khi mức lãi suất liên quan đến các tài sản
hoặc quyền được nhận tài sản trong tuơng lai không tương đương với lãi suất của
các nghĩa vụ hay các tài sản nợ.
• Rủi ro tỷ giá: Rủi ro xuất hiện khi có sự không cân đối giữa những tài sản,
quyền với những nghĩa vụ, khoản nợ ghi bằng cùng một đồng tiền.
• Rủi ro giá cổ phiếu: Rủi ro xuất hiện do những thay đổi trong giá cả của một
hoặc một số loại cổ phiếu đơn lẻ.
+Rủi ro tín thác: Rủi ro thất thoát xuất hiện từ các yếu tố như không đảm bảo được
an toàn cho tài sản của khách hàng hay sao nhãng trong quản lý tài sản thay mặt cho
một bên thứ ba.
+ Rủi ro hoạt động: Rủi ro xuất hiện khi hệ thống kế toán của ngân hàng không đủ
khả năng xử lý các giao dịch kịp thời và chính xác. Loại rủi ro này có thể làm trầm
trọng thêm các loại rủi ro khác.
Những rủi ro trên thường xuất hiện ở nhiều loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng,
cả khoản mục ngoại bảng và nội bảng. Chúng có đặc thù là mang tính gián tiếp, tức
là xuất phát từ những biến động của nền kinh tế nói chung hoặc từ rủi ro của khách
hàng chuyển thành rủi ro của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ đã cam kết với ngân hàng. Phần lớn các rủi ro này đều có thể tích lũy rất
nhanh, nếu không được ghi nhận giám sát liên tục kịp thời và đầy đủ chúng có thể
đẩy ngân hàng đi đến đổ vỡ nhanh chóng. Thực tế đã chứng minh có những trường
hợp một ngân hàng lớn có uy tín có thể sụp đổ nhanh chóng do những rủi ro trong
kinh doanh ngoại hối hay chứng khoán. Vì thế trong xu hướng hiện nay vấn đề quản
trị rủi ro đang có một vai trò ngày càng quan trọng trong kinh doanh ngân hàng. Để
quản trị rủi ro thành công ngân hàng phải thiết lập và duy trì thường xuyên một hệ
thống ghi nhận và giám sát rủi ro hiệu quả, đồng thời các nhà quản lý ngân hàng
phải có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể giám sát và quản lý
rủi ro.
1.2.2 Kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại

Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM, tháng 8 năm 2001,
UB Basel về giám sát ngân hàng, đã ban hành tài liệu hướng dẫn những nguyên tắc


cơ bản về KTNB của các NHTM. Tài liệu này có thể coi như khung để tổ chức hoạt
động KTNB tại các NHTM.
1.2.2.1Khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ của KTNB trong NHTM.
Như đã đề cập trong phần 1.1. KTNB theo khái niệm mà IIA đưa ra là “hoạt
động xác nhận và tư vấn mang tính độc lập và khách quan được thiết kế nhằm tạo ra
giá trị gia tăng và nâng cao hiệu quả hoạt động của một tổ chức. KTNB giúp cho tổ
chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ
thống và mang tính kỷ luật để đánh giá và nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị
doanh nghiệp, hệ thống kiểm soát và việc quản lí rủi ro”
Từ khái niệm KTNB trong NHTM, chúng ta cũng thấy mục tiêurằng:
HĐQT có trách nhiệm cuối cùng trong việc đảm bảo rằng các nhà quản trị
điều hành cấp cao (Ban tổng giám đốc) thiết lập và duy trì một hệ thống KSNB, hệ
thống đo lường và đánh giá rủi ro trong các hoạt động khác nhau của NH, một hệ
thống để cân đối giữa mức độ rủi ro với VTC của NH, các phương pháp thích hợp
để giám sát việc tuân thủ luật pháp, các quy chế, và các chính sách nội bộ. Ít nhất
một năm một lần, HĐQT phải xem xét lại hệ thống KSNB và các thủ tục đánh giá
về vốn.
Các nhà quản trị điều hành cấp cao (Ban Tổng giám đốc) chịu trách nhiệm
phát triển các quy trình để nhận dạng, đo lường, giám sát và kiểm soát các rủi ro mà
NH đang gánh chịu. Họ phải báo cáo lên HĐQT về hệ thống KSNB và các thủ tục
đánh giá về VTC ít nhất là mỗi năm một lần.
Bộ phận KTNB là một phần trong hoạt động giám sát thường xuyên đối với
hệ thống KSNB và việc đánh giá về VTC của NH. Bộ phận KTNB cung cấp đánh
giá độc lập về sự đầy đủ, thích hợp và tính hiệu lực trên thực tế của các chính sách,
thủ tục đã được thiết tại NH. Như vậy, KTNB hỗ trợ cho HĐQT và các nhà quản
trị điều hành cấp cao của NH thực hiện một cách hiệu quả những trách nhiệm

được mô tả ở trên của họ.
Nhìn một cách tổng thể, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ trong NH bao gồm:


-

Kiểm tra, đánh giá về tính đầy đủ, thích hợp và hiệu lực thực tế của hệ thống
KSNB .

-

Xem xét việc vận dụng và tính hiệu quả của các thủ tục quản lý rủi ro, các
phương pháp đánh giá rủi ro.

-

Xem xét hệ thống thông tin tài chính và quản trị, bao gồm cả hệ thống thông tin
điện tử và các dịch vụ ngân hàng điện tử,

-

Xem xét tính chính xác và đáng tin cậy của sổ sách kế toán và các báo cáo tài
chính.

-

Xem xét về các phương pháp và phương tiện bảo vệ an toàn tài sản.

-


Xem xét hệ thống đánh giá VTC và cân đối VTC với rủi ro ước tính của NH.

-

Đánh giá tính kinh tế và tính hiệu quả trong hoạt động.

-

Kiểm tra cả các giao dịch và sự vận hành của các thủ tục kiểm soát cụ thể.

-

Xem xét hệ thống được thiết lập nhằm đảm bảo tính tuân thủ với pháp luật và
các quy chế quản lí, các quy tắc hoạt động và vịêc thực hiện các chính sách và
thủ tục đã đề ra.

-

Kiểm tra tính đáng tin cậy và tính kịp thời của các báo cáo mang tính bắt buộc.

-

Thực hiện các cuộc điều tra đặc biệt.
Các nhà quản trị điều hành cấp cao cần đảm bảo rằng bộ phận KTNB được

thông báo một cách đầy đủ về những phát triển, những sáng kiến và những sản
phẩm mới, những thay đổi trong hoạt động để đảm bảo rằng những rủi ro phát sinh
được ghi nhận ngay từ những giai đoạn đầu tiên.
1.2.2.2Các nguyên tắc của KTNB
(i) Tính liên tục

Tính liên tục yêu cầu mỗi NH, đặc biệt là các NH lớn hoặc các NH có hoạt
động phức tạp nên thiết lập một bộ phận kiểm toán chính thức, hoạt động lâu dài.
Và một trong những trách nhiệm và nghĩa vụ của các nhà quản trị cấp cao là phải
thực hiện tất cả các biệp pháp cần thiết để đảm bảo rằng NH luôn luôn có thể tin
cậy vào hệ thống KTNB phù hợp với quy mô và bản chất hoạt động của mình. Các
biện pháp này bao gồm cả việc cung cấp các nguồn lực cần thiết và đội ngũ nhân


sự phù hợp để bộ phận KTNB có thể đạt được mục đích của mình. Tại các NH nhỏ,
KTNB có thể được thuê ngoài từ các tổ chức chuyên cung ứng dịchvụ này. Tại một
số quốc gia, người ta cho phép các NH nhỏ thực thi một hệ thống đánh giá độc lập
các thủ tục KSNB cơ bản thay cho hoạt động KTNB. Tuy nhiên dù KTNB được
NH tự tổ chức thực hiện hay được thuê ngoài thì nó vẫn phải đảm bảo tính liên tục
và các yêu cầu nghề nghiệp khác đối với KTNB.
(ii) Tính độc lập
Tính độc lập được hiểu là việc bộ phận KTNB và kiểm toán viên không bị
chi phối bởi các điều kiện, đe dọa tính khách quan và công bằng trong nhận xét của
họ. Bộ phận KTNB của NH cần độc lập với các hoạt động được kiểm toán và độc
lập với quy trình KSNB thường ngày. Điều này có nghĩa rằng KTNB được có một
vị thế phù hợp trong NH, và thực hiện các nhiệm vụ của mình với sự khách quan
và công bằng.
Bộ phận KTNB phải có quyền chủ động trong việc thực hiện công việc của
mình tại bất cứ bộ phận, phòng ban hay chức năng nào của NH. Đồng thời được
phép báo cáo với cấp thích hợp hoặc thông báo nội bộ về những phát hiện và đánh
giá của họ. Nguyên tắc về tính độc lập cũng nhấn mạnh rằng bộ phận KTNB nên
thuộc quyền kiểm soát trực tiếp của UBKT thuộc HĐQT (nếu có), hoặc ít nhất là
tổng giám đốc.
Trong các trường hợp cần thiết, người đứng đầu bộ phân KTNB có quyền
chủ động trao đổi trực tiếp với HĐQT; chủ tịch HĐQT, các thành viên của UBKT
hoặc vơi kiểm toán viên độc lập theo những quy định nội bộ của chính NH được

xác định trong Điều lệ kiểm toán. Ví dụ khi các nhà quản trị điều hành cấp cao đưa
ra những quyết định trái với quy định của pháp luật hoặc của các cơ quan quản lí.
Tính độc lập cũng yêu cầu rằng KTV không được có những xung đột lợi ích
với NH. Khung lương thưởng cho KTVNB cần phải có sự nhất quán với mục đích
của KTNB. Bộ phận KTNB cũng cần được đánh giá một cách độc lập bởi một bên
thứ 3 độc lập, ví dụ kiểm toán bênngoài hoặc bởi UBKT (nếu có).


Mỗi NH cũng cần thiết lập Điều lệ KTNB nhằm củng cố vị thế và thẩm
quyền của bộ phận KTNB trong NH. Trong điều lệ cần nêu rõ ít nhất các vấn đề
sau:
- Mục tiêu và nhiệm vụ của KTNB.
- Vị trí của KTNB trong tổ chức, thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ
của nó với các chức năng kiểm soát khác.
- Trách nhiệm của người đứng đầu bộ phận KTNB.
Điều lệ này nên được bộ phận KTNB xây dựng và định kỳ xem xét lại, được
các nhà quản trị điều hành cấp cao thông qua và cuối cùng phải được sự xác nhận
của HĐQT (thường là UBKT thuộc HĐQT).
Trong điều lệ, các nhà quản trị cấp cao giao cho KTNB quyền chủ động bắt
đầu công việc, và uỷ quyền cho bộ phận này, khi thực hiện nhiệm vụ của mình,
được phép tiếp cận và trao đổi trực tiếp với bất cứ nhân viên nào, được kiểm tra bất
cứ hoạt động hoặc đơn vị nào trong NH, được tiếp cận tất cả các sổ sách và dữ liệu
của NH, bao gồm cả các thông tin quản trị và các biên bản của các tổ chức tư vấn.
Điều lệ cũng nêu rõ các điều khoản và điều kiện mà theo đó bộ phận KTNB
có thể được yêu cầu cung cấp dich vụ tư vấn hoặc thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt
khác.Điều lệ cần được phổ biến trong toàn tổ chức.
(iii)Tính khách quan và công bằng.
Bộ phận KTNB cần luôn công bằng và khách quan, tức là thực hiện các
nhiệm vụ của mình không có bất cứ một sự thiên vị nào và không chịu sự can thiệp
nào.

Tính khách quan và công bằng cũng yêu cầu KTNB tự mình nỗ lực để tránh
những xung đột về lợi ích, từ khía cạnh này, nhiệm vụ của các nhân viên trong bộ
phận KTNB định kỳ nên được thay đổi (đảo cho nhau). Các nhân viên KTNB được
tuyển dụng tại chỗ (từ nguồn nội bộ) không nên kiểm toán các hoạt động hoặc chức
năng mà họ đã thực hiện trong vòng 12 tháng gần nhất.
Tính khách quan cũng yêu cầu rằng KTNB không tham gia vào các hoạt
động kinh doanh của NH hoặc lựa chọn hay triển khai các biện pháp KSNB. Và,


không đuợc phép gán cho KTNB trách nhiệm về các hoạt động này, vì điều này sẽ
làm cản trở việc đưa ra những xét đoán độc lập.
Tuy nhiên, yêu cầu về tính khách quan không loại trừ khả năng các nhà quản
trị điều hành cấp cao có thể yêu cầu những ý kiến tư vấn của KTNB về một số vấn
đề cụ thể liên quan tới các nguyên tắc KSNB cần tuân thủ. Ví dụ, các nhà quản trị
cấp cao để đạt được hiệu quả trong công việc, có thể tham khảo ý kiến của KTNB
khi xem xét những thay đổi tổ chức quan trọng, khởi động một hoạt động mới quan
trọng hoặc có rủi ro cao, thành lập bộ phận mới chuyên thực hiện các hoạt động có
rủi ro cao, thiết lập hay cơ cấu lại hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống thông tin quản
trị và hệ thống công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trách nhiệm cuối cùng trong việc
phát triển và giới thiệu những vấn đề này vẫn thuộc về nhà quản trị cấp cao. Thực
tế, chức năng tư vấn nên là nhiệm vụ thứ 2 và trong mọi trường hợp không được
phép ảnh hưởng đến những nhiệm vụ và trách nhiệm chính cũng như tính độc lập
của KTNB. Tiếp theo các báo cáo KTNB có thể bao gồm những kiến nghị liên
quan đến thiếu sót hoặc yếu điểm của Hệ thống KSNB và những đề nghị nhằm
nâng cấp hệ thống KSNB .
(iv) Yêu cầu về năng lực chuyên môn
Năng lực chuyên môn của từng KTV nội bộ cũng như của toàn thể bộ phận
KTNB nói chung là điều kiện thiết yếu cho việc vận hành chức năng KTNB một
cách hoàn hảo trong NH.
Năng lực chuyên môn của mỗi KTV nội bộ, cũng như tinh thần cầu tiến của

nhân viên và việc đào tạo liên tục là những điều kiện tiền đề đối với tính hiệu quả
trong hoạt động của bộ phận KTNB. Để đánh giá về năng lực chuyên môn cần cân
nhắc các vấn đề như bản chất của vai trò của KTV, khả năng của KTV trong việc
thu thập thông tin, điều tra, đánh giá và trao đổi thông tin. Một yếu tố nữa cần được
xem xét đến là sự phát triển trong lĩnh vực tài chính dẫn đến sự phức tạp ngày càng
tăng trong hoạt động NH, và nhiệm vụ mà một KTV nội bộ cần thực hiện cũng
ngày càng đa dạng hơn.


Năng lực chuyên môn, và cụ thể là kiến thức và kinh nghiệm của toàn thể bộ
phận KTNB cũng cần có sự chú ý đặc biệt. Hàm ý chính ở đây là bộ phận KTNB
xét như một tổng thể phải có đủ năng lực để kiểm tra tất cả các lĩnh vực mà NH có
tham gia hoạt động.
Liên tục thực hiện những nhiệm vụ tương tự nhau hoặc thực hiện công việc
mang tính lặp lại có thể ảnh hưởng không tốt tới khẳ năng đưa ra những xét đoán
có tính phê phán. Do đó, các NH được khuyến cáo rằng, nếu có thể thì nên luân
chuyển nhân viên trong bộ phận KTNB. Sự luận chuyển này phải được thực hiện
theo cách mà không làm ảnh hưởng tới tính độc lập của KTV nội bộ.
Năng lực chuyên môn có thể được duy trì thông qua đào tạo liên tục và có hệ
thống mỗi nhân viên KTNB. Tất cả các nhân viên của bộ phận KTNB đều cần có
những kiến thức cập nhật ở một mức độ nhất định về kỹ thuật kiểm toán và các
hoạt động ngân hàng.
(v) Phạm vi hoạt động
Nguyên tắc chung ở đây là mọi hoạt động, mọi đơn vị trong NH đều là đối
tượng của KTNB. Nhìn ở giác độ tổng thể, phạm vi của KTNB bao gồm cả việc
kiểm tra và đánh giá về tính phù hợp và tính hiệu quả của hệ thống KSNB và cách
thức để thực hiện các trách nhiệm đã được phân công. Nói cách khác, nó chính là
việc phân tích rủi ro của hệ thống KSNB của NH.
Cụ thể, bộ phận KTNB cần đánh giá về các vấn đề sau:
- Sự tuân thủ của NH đối với các chính sách và kiểm soát rủi ro (cả định

lượng và phi định lượng)
- Tính đáng tin cậy (bao gồm tính nhất quán, tính chính xác và đầy đủ) và
tính kịp thời của các thông tin tài chính và quản trị.
- Tính liên tục và đáng tin cậy của hệ thống thông tin điện tử.
- Hoạt động của các phòng ban nhân sự
Bộ phận KTNB cần có sự quan tâm thích đáng tới những quy định pháp lí và
giám sát liên quan tới hoạt động ngân hàng, bao gồm các chính sách, nguyên tắc,
luật lệ, và hướng dẫn liên quan đến cách thức mà NH được tổ chức và quản lí do


×