Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

bài thảo luận lớp đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.57 KB, 13 trang )

BÀI THẢO LUẬN (Ngày 31/3/2017)
Lớp Đảng viên mới K1 2017.
Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị Quận
Câu 1: Vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia
Thực hiện: Nhóm 5.
Sau hai mươi năm đổi mới, hai mươi năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mười lăm năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2001- 2010, đất nước ta đã phát triển về mọi mặt, với tầm vóc, vị thế mới.
Trong thành tựu và thắng lợi chung to lớn ấy, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), giữ
gìn trật tự an toàn xã hội (TTATXH) đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và chế độ XHCN, bảo đảm sự ổn định chính
trị, xã hội, môi trường hòa bình, hợp tác, tạo thế và lực cho sự phát triển của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà
thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương và cấp ủy các địa phương, công tác
quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về lĩnh vực an ninh trật tự (ANTT) đã được các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang
tiến hành nghiêm túc, kịp thời; công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, xây dựng ý thức chính trị và nhận thức về công tác giữ gìn ANTT cho toàn Đảng, toàn dân, các
cấp, các ngành được quan tâm và đạt kết quả tốt.
Trong công tác bảo vệ ANTT, lực lượng Công an nhân dân (CAND) đã dựa vào dân, tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại nên đã phát hiện, ngăn chặn kịp thời, đập tan nhiều âm mưu, kế hoạch gây bạo
loạn chính trị, tập hợp lực lượng, tìm cách hình thành tổ chức chính trị đối lập, kịp thời vô hiệu hóa
hoạt động xâm hại đến ANQG của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Từng bước tập
trung xây dựng và củng cố vững chắc thế trận an ninh nhân dân, kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân;
kết hợp có hiệu quả công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại với phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trên
các địa bàn chiến lược, trọng điểm về ANTT, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu
số. Đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm về ma túy, tội
phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia…, bảo đảm vững chắc ANTT. Chủ động mở
rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực công tác bảo vệ ANTT, xây dựng lực lượng, hậu cần
và trao đổi thông tin về tình hình tội phạm khủng bố với các cơ quan an ninh, cảnh sát nhiều quốc gia


trên thế giới.
Lực lượng CAND đã từng bước kiện toàn về tổ chức, bộ máy, chức năng nhiệm vụ và công tác
cán bộ theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng xung
kích trên mặt trận bảo vệ ANTT; thực hiện tốt phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ" được nhân dân tin cậy, yêu mến; luôn rèn luyện,
phấn đấu có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước XHCN, hết lòng
hết sức tận tụy phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, quốc gia, dân tộc.
Thế giới đã bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, với những biến động, phức tạp, khó
lường tác động mạnh mẽ đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo đó, thời cơ, vận hội và nguy
cơ, thách thức cùng các nhân tố tích cực, tiêu cực, nhân tố bên trong, bên ngoài tương tác, đan xen lẫn
nhau, luôn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ ANTT của đất nước. Sự chống phá của các thế lực
thù địch bên ngoài, của thế lực phản động trong và ngoài nước ngày càng gia tăng với nhiều phương
thức, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, phương tiện hoạt động ngày một tinh vi, hiện đại hơn. Sự xuất
hiện của nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm môi trường, tội phạm về ma túy, tội phạm khủng bố quốc tế,
tội phạm rửa tiền, các tai, tệ nạn xã hội và các mối đe dọa an ninh mang tính chất phi truyền thống
đang có xu hướng gia tăng, tác động không nhỏ đến môi trường phát triển lành mạnh, bền vững của
đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: "Nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan
xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào". Nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Các thế lực thù địch


tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ",
"nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" diễn biến phức tạp.
Đứng trước tình hình trên, nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH trong tình hình mới đặt ra
nhiều vấn đề hết sức quan trọng, đó là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định
chính trị, bảo đảm ANQG và TTATXH; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động

chống phá của các thế lực thù địch, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: "…bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta".
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH trong những năm tới, cần phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; giữ vững chủ quyền
biên giới, vùng trời, biển, đảo của đất nước. Bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN. Giữ vững ổn định chính trị, TTATXH. Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động của các thế lực thù địch; trong bất cứ tình huống nào cũng không để xảy ra bị động, bất ngờ, sẵn
sàng ứng phó có hiệu quả trước các mối đe dọa, kể cả đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn
cầu.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm và
nghĩa vụ của mỗi người công dân trong việc bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH. Công tác tuyên truyền,
giáo dục phải giúp nâng cao nhận thức đúng đắn của toàn xã hội nói chung, trong lực lượng CAND nói
riêng về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, ANQG, TTATXH trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu, rộng với sự đan xen giữa các mặt hợp tác, đấu tranh và cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia dân tộc; các âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ, tội phạm khủng bố, tội phạm sử
dụng công nghệ cao… xuất hiện với những biến thái khó lường, trở thành những nguy cơ đe dọa
ANTT cả ở bên trong và bên ngoài đất nước.
Kết hợp chặt chẽ an ninh với quốc phòng; an ninh - quốc phòng với kinh tế ngay từ khi hoạch
định từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và trong quá trình triển khai thực
hiện các nhiệm vụ, dự án phát triển phải đặc biệt quan tâm phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo của Tổ quốc… nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Chăm lo xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tăng
cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện nghiệp vụ cho CAND phù hợp với điều kiện kinh tế của
đất nước, trước hết tập trung vào các lực lượng nghiệp vụ mũi nhọn trong bảo đảm ANQG, giữ gìn

TTATXH. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong toàn lực lượng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XI và nhanh chóng kiện toàn bộ máy, tổ chức Công an các cấp theo tinh thần tinh gọn,
hiệu quả cao. Để lực lượng CAND thực sự vững mạnh, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, đào
tạo mới, đào tạo lại, rèn luyện nâng cao năng lực, trình độ, nhận thức cả về chính trị tư tưởng, chuyên
môn nghiệp vụ và đạo đức cách mạng gắn với cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ"; tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện
cán bộ, chiến sĩ luôn gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, trong thực thi, chấp hành pháp luật và
trong sinh hoạt, đời sống.
Thường xuyên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, làm tốt công tác dự báo
tình hình, kịp thời phát hiện những diễn biến mới về âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và
các đối tượng xâm phạm ANQG, từ đó thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh làm thất bại các âm mưu, hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH trong giai đoạn mới
của cách mạng. Qua đó bổ sung và phát triển lý luận, khoa học về ANQG và TTATXH trong tình hình
mới.
Tiếp tục phát huy hơn nữa sức mạnh thế trận an ninh nhân dân, đổi mới biện pháp và đối sách
nhằm phát hiện và kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động bạo loạn chính trị, "diễn biến hòa bình"
cũng như nguy cơ, tác động của "quyền lực mềm"; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc phòng ngừa,
tiến công các loại tội phạm, giảm thiểu tai nạn giao thông, xử lý nghiêm các hành vi chống người thi


hành công vụ, chấn chỉnh kỷ cương xã hội và tinh thần thượng tôn pháp luật, giữ gìn môi trường xã hội
trong lành và bình yên cuộc sống, góp phần chấn hưng các giá trị nhân văn, nhân bản của dân tộc Việt
Nam.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng trong lực lượng CAND; tập trung thanh tra, kiểm tra những
lĩnh vực, địa bàn hoạt động mà nhân dân và công luận phát hiện, phản ánh các biểu hiện vi phạm
nguyên tắc tập trung, dân chủ, vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực… Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với CAND; nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về ANQG,
TTATXH. Trên cơ sở đó, hoàn thiện chiến lược ANQG và hệ thống các cơ chế, chính sách về ANQG,
TTATXH; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế phối hợp giữa Quân đội với
Công an, giữa Công an với các tổ chức chính trị, xã hội.

Bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH là nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang của lực lượng CAND. Tận dụng
thời cơ, phát huy truyền thống vẻ vang, vượt qua thách thức, lực lượng CAND nguyện chung sức,
chung lòng, quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
góp phần tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

Câu 2: Phân tích tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế trong gian đoạn
hiện nay?
Thực hiện: Nhóm 4
Cơ sở của hội nhập kinh tế
Ngày nay, các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối
quan hệ song phương và đa phương nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với
những mức độ khác nhau, nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc
tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sôi động
và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính tín
dụng toàn cầu, là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng
giao lưu kinh tế và khoa học – công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các
vấn đề kinh tế – xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường sinh thái nhằm mục đích hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, tiến tới tự do hoá hoàn toàn
những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực.
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tê đối với Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Đối với các nước
đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh
của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Có thể nói sự hội nhập của nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại những lợi ích kinh tế
khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Đặc biệt là nước ta thì
mở cửa và hội nhập với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới đang là xu thế tất yếu. Chính sự
hội nhập này đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể:

Thứ nhất


Tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất, nhập
khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước, các khu vực khác trên thế giới.
Thứ hai
Hội nhập khu vực còn góp phần chuyển hướng mậu dịch, sự chuyển hướng này diễn ra phổ biến
khi hình thành liên minh thuế quan vì khi đó các điều kiện cơ bản giữa các nước thành viên trong liên
minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn
Thứ ba
Hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá Thương Mại tạo điều kiện cho nước ta có điều kiện
thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý…từ các quốc gia khác trong liên minh.
Về lâu dài tự do hoá Thương Mại góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tự do hoá
Thương Mại giúp tăng trưởng kinh tế bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng năng suất cận biên của 2
yếu tố sản xuất là vốn và lao động.
Bên cạnh những lợi ích kinh tế chủ yếu trên đây, cũng cần phải thấy rằng việc hội nhập vào nền
kinh tế các nước trong khu vực với các hình thức liên kết đa dạng từ thấp đến cao đang đặt ra cho nước
ta những thử thách mới cần phải ứng xử cho phù hợp với quá trình tự do hoá Thương Mại. Những thử
thách đó là :
Phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở xoá bỏ những hạn chế về
Thương Mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan.
Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp.
Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có tỷ trọng đáng kể
trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó khăn trong quá trình cân đối ngân sách
của chính phủ.
Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung ( luật chơi chung) đối với các nước thành viên.
Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu vực.
Như vậy, việc hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực, hình thành các dạng liên kết kinh
tế quốc tế luôn đưa lại cho nước ta những thuận lợi và những khó khăn, những lợi ích kinh tế khác
nhau. Vì vậy, chúng ta cần tính toán cân nhắc, lựa chọn để đưa ra những quyết định thích hợp trong

quá trình hội nhập nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu thế nổi bật của
kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công
cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
- Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia
trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và


vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5 “5 cường quốc”), các nước trong nhóm G8(7 quốc qua có nền công
nghiệp hàng đầu thế giới); nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở
nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường
trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
- Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Ký kết các
hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996.
Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm
1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt

Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01
năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có một số điểm nổi bật
sau:
Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các tổ chức kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC, Việt Nam đã nỗ
lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các
tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng
minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể
chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
* Trong khuôn khổ ASEAN
- Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, 1995-2011), mối quan hệ
hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới
đời sống kinh tế, xã hội và chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các
diễn đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác thương mại và đầu tư
lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).


- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015
đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam
tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
* Trong khuôn khổ APEC
- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu vực dành viện
trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá
trị nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
* Trong khuôn khổ ASEM
- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn
hướng tới mục tiêu đem lại những đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.

Câu 3: Phân tích vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở Đảng
Thực hiện: Nhóm 3.
1- Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
1.1- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng
Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là “nền tảng”, là “gốc rễ” của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng” và “Chi bộ là nền tảng của Đảng, của cách
mạng…”. Điều đó đủ nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở
đảng. “Đảng mạnh là do các chi bộ đều mạnh” và “Các chi bộ mạnh tức Đảng mạnh”.
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng là nơi góp phần phát triển hoàn thiện đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những “sợi dây
chuyền” nối liền Đảng với dân.
1.2- Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở
Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên giữ vị trí, vai trò lãnh đạo hệ
thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng của Đảng.
Vị trí hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng thể hiện vai trò đoàn kết và lãnh đạo toàn diện các
tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ. Đồng thời
cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên quần chúng thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng ở cơ sở thành một
khối thống nhất ý chí và hành động, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của cơ sở.

2- Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
2.1- Chức năng
Tổ chức cơ sở đảng có 02 chức năng quan trọng:
Một là: lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
ở cơ sở.
Hai là: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao
hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên
quần chúng nhân dân hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.
Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở thực hiện chức năng là hạt nhân chính trị đối với chính quyền, đoàn
thể, các tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở
cơ sở. Chi bộ là nơi gần dân, sát dân nhất, trực tiếp lắng nghe, tiếp thu ý kiến và giải quyết những vấn
đề quần chúng đặt ra hàng ngày hoặc báo cáo kịp thời lên cấp trên; tiến hành vận động nhân dân và
làm công tác phát triển đảng viên.
2.2- Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) quy định 05 nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
như sau:
2.2.1- Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm
vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2.2.2- Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê
bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện
và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến
thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
2.2.3- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an
ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.4- Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
2.2.5- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của

Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều
lệ Đảng.
3- Nhiệm vụ, giải pháp (những giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt nhiệm vụ của TCCSĐ)
1.1- Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ


a. Vai trò, tác dụng của sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ là hoạt động rất quan trọng của chi bộ, đảng bộ cơ sở, có vai trò, tác dụng to lớn
đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ, đảm bảo cho chi bộ và mỗi đảng viên
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
b. Nội dung sinh hoạt chi bộ
Nội dung sinh hoạt chi bộ cần tập trung vào ba vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, học tập, quán triệt đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thông tin những vấn đề tình hình thế giới, trong nước, địa phương có liên quan đến tư tưởng của
đảng viên trong chi bộ, quần chúng trong cơ quan, đơn vị, địa phương.
Hai là, bàn bạc, quyết định những vấn đề về sự lãnh đạo của chi bộ đối với các nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, công tác vận động quần chúng.
Ba là, thảo luận, quyết định những vấn đề xây dựng nội bộ Đảng: chủ trương, biện pháp xây dựng
chi bộ trong sạch, vững mạnh; thực hiện tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật
Đảng và tăng cường đoàn kết trong chi bộ; những nội dung của công tác đảng viên như: kết nạp đảng
viên, phân công nhiệm vụ đảng viên, quản lý đảng viên, đánh giá chất lượng đảng viên…

Câu 4: Nêu những nhiệm vụ chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn
hiện nay?
Thực hiện: Nhóm 2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong
đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình
thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát

triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây mà Người đã
tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập
một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội trên
mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con
người đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong
lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di
chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, là một tổ chức thống nhất về chính trị tư
tưởng và tổ chức trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng định ra
đường lối chủ trương đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.


Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể thấy, dưới dự lãnh đạo của Đảng, chúng ta vượt qua rất nhiều khó
khăn, thách thức để đưa công cuộc đổi mới đất nước thành công và đạt được những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện: chính trị ổn định, kinh tế-xã hội phát triển, an ninh quốc phòng
không những được giữ vững mà còn được tăng cường thêm tiềm lực, đời sống của nhân dân không
ngừng được nâng lên, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có những lời dạy với những
phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người nêu cái đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ
ra cái sai, cái xấu, cái dở để giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu
bật những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Quan niệm của
Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Con người không phải thần thánh, có tốt có xấu ở
trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con

người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải
trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người
cách mạng phải ý thức được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và là đạo đức của
những con người được giải phóng, trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “gian nan rèn
luyện mới thành công”. Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
“cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng,
mọi lĩnh vực: từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội. Quần chúng chỉ quý
mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. Người dạy “đảng viên đi
trước”, để cho “làng nước theo sau”. Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, “người tốt việc
tốt”, “xây” đi liền với “chống”, tự phê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức
mới là những biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay. Không thể chỉ giản đơn đòi
hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ ràng chủ nghĩa xã hội muốn thành công cần có đạo
đức. Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc học tập và thực
hành theo tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đảng ta luôn khẳng định, xây dựng Đảng về đạo đức là nhiệm vụ then chốt. Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn đang tồn
tại, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có
những diễn biến phức tạp. Như Đảng ta đã đánh giá: có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý,
kể cả một số cán bộ cao cấp lợi dụng chức quyền đã tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng
phí của công, quan liêu, xa dân, ức hiếp dân, kèn cựa địa vị... Sự thoái hóa về đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân,
tổn thương mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất này chỉ là “một bộ phận” nhưng điều nghiêm trọng lại là
những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền; cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, kiên quyết đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích
nhóm”, “Nói không đi đôi với làm” là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng. Để thực hiện nhiệm vụ này,
chúng ta phải đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, đồng thời
tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù

địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch của cán bộ,
đảng viên. Do đó, Đại hội XII của Đảng, Bộ chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW “Về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là nền tảng tư tưởng
rất quan trọng của cán bộ, đảng viên. Cho nên xây dựng Đảng về đạo đức là để thiết lập những cơ chế,
mối quan hệ giữa cá nhân đảng viên với đảng viên, giữa đảng viên với tổ chức Đảng, giữa các tổ chức
Đảng với nhau, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Vì vậy, mỗi cán bộ, Đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị cần phải rèn luyện thường
xuyên và phát huy vai trò gương mẫu trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong, luôn tự
phê bình và phê bình, có trách nhiệm trong công tác, có ý thức kỷ luật và giữ đoàn kết nội bộ. Bên
cạnh đó, Đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là
tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và nhiệm vụ đảng viên, đồng thời nhắc nhở, đôn đốc đảng


viên khác trong chi bộ, đảng bộ chấp hành. Đồng thời, thực hiện tốt tự phê bình và kịp thời phát hiện,
phê bình trung thực, chân thành, thẳng thắn đối với đảng viên và tổ chức đảng trong chi bộ, đảng bộ có
khuyết điểm hoặc có dấu hiệu vi phạm. Tích cực tham gia công tác kiểm tra, giám sát theo chương
trình, kế hoạch kiểm tra giám sát của chi bộ, đảng ủy hoặc theo yêu cầu của cấp ủy và ủy ban kiểm tra
cấp trên.
Ở nước ta, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, nên hầu hết những người có chức, có
quyền là đảng viên đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng có vai trò rất quan trọng trong việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị
và đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên. Mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát của Đảng
là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Nếu đi chệch vấn đề có tính
nguyên tắc này, công tác kiểm tra sẽ mất phương hướng, chệch mục tiêu và không đem lại hiệu quả.
Xây dựng đạo đức, nhân cách người đảng viên cộng sản đòi hỏi phải có lòng kiên trì, tâm huyết
của cả nhà giáo dục và người được giáo dục. Sinh thời, Hồ Chí Minh vẫn dạy, sự nghiệp “trồng người”
phải được tiến hành bền bỉ, lâu dài, công phu như đem gạo vào giã, đem vàng đi luyện. Do vậy, việc
rèn luyện đạo đức, gương mẫu của cán bộ, Đảng viên cần phải được tiến hành thường xuyên, mọi lúc,
mọi nơi. Công việc này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò tích cực của các tổ chức đảng,

chính quyền, đoàn thể và quần chúng với sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên của bản thân
mỗi cán bộ, Đảng viên trong công tác, lao động, sinh hoạt và học tập.
Đất nước đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong
điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn, hoàn thành trọng trách mà nhân dân tin cậy
giao phó, tiếp tục không ngừng rèn luyện để có đủ bản lĩnh, năng lực, trí tuệ và sự tín nhiệm lãnh đạo
cách mạng, lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển, “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. Đồng
thời, từng cán bộ, đảng viên phải ra sức, nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả, hoàn thành các nhiệm
vụ chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, quán triệt về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị. Mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên
phải nhìn thẳng vào sự thật, nhận diện đúng, đánh giá đúng, nói rõ sự thật; tập trung xây dựng phương
pháp, phong cách làm việc khoa học, gần dân, trọng dân, vì dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng;
chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.

Câu 5: Phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam
Thực hiện: Nhóm 1.
Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường
lối, chủ trương, chính sách đó. Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng, phải người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.
*

Nội dung phấn đấu rèn luyện của người đảng viên trong giai đoạn hiện nay:

1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng
- Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người đảng viên, là tiêu chí
phân định đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giá chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành
mọi mặt công tác đảng viên. Mọi đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.
- Điểm 1 điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông

qua đã xác định.Tiêu chuẩn đảng viên như sau:
- “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và đân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân;


chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của
Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
- Những tiêu chuẩn đảng viên thể hiện qua các điểm sau:
+ Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
 Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng
của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục
tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
 Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là
phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
 Thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực,
vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
+ Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
 Nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, những nguời cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có
trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và
nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự
tụt hậu...
 Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình đó đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những

kiến thức về mọi mặt để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
+ Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viện phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân;
yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn
xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân...
 Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và
hết lòng phục vụ nhân dân, kiện định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực
ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống nhất giữa lời nói
và việc làm.
 Đạo đức, lối sống mới yêu cầu phải dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá
nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho
bản thân mình.
 Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong
quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
+ Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của của Đảng trên cơ sở thực
hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và
phê bình.
 Đoàn kết trong Đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Nền tảng của sự đoàn kết
trong Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các
nguyên tắc tổ chức Đảng.
 Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất
hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng.
 Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ
trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn
trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không
được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội
nghị Đảng.
+ Năm là, gắn bó mật thiết với quần chúng.



 Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân
chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng,
một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
 Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn
của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị - thực
tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên.
+ Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
 Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn
của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.
 Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới.
Đó là kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bê ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong sáng
trong hoàn cảnh mới.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: Cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và
một thành viên của Đảng. Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm
tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ có phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ
chức đảng.
-

Về mặt cá nhân:

Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt
Nam, đó là:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương

phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của
bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
-

Về tư cách thành viên của tổ chức đảng:

+ Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và không
ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảngviên, cán bộ và chi bộ cần
phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên...”, coi đó là
cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
+ Phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện
phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh
hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai
trái, thù địch.
-

Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:

+ Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành công
cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ
trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.
+ Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung
tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó



có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “những bước trung gian”,
“bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng
phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, kinh tế tư nhân không đối lập
với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Tuy nhiên, nền kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những tác
động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu cực đó. Nghị quyết
Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính
sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong Đảng, để
làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy định đối với
đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện
tốt những quy định này.
*

Liên hệ thực tiễn:

Là một công chức Ủy ban nhân dân phường, tôi luôn xác định phải kiên định lập trường
cách mạng của giai cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ XHCN, vững vàng, không dao động trước bất
kỳ khó khăn, thử thách nào. Ra sức phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác. Luôn có tinh thần
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. Luôn đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tận tâm trong công
việc; tận tình trong phục vụ nhân dân.
Luôn là người đi đầu, làm gương trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước,
đồng thời vận động gia đình, láng giềng cùng thực hiện.
Tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội,
phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoạn hay tư tưởng sai lệch.
Học tập, nắm vững lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thường xuyên trau dồi
đạo đức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư.



×