Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Phan tich noi dung cap pham tru kha nang va hien thuc tu do rut ra y nghia phuong phap luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.01 KB, 2 trang )

Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút
ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm khả năng và hiện thực.
- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng
sẽ tới, sẽ xuất hiện khi có điều kiện thích hợp.
- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thật
sự.
Như vậy khả năng là cái “chưa có” nhưng không phải bất kỳ cái chưa có nào
mà phải hiểu là cái chưa có ở thời điểm đang xét, là cái sẽ có trong tương lai, khi có
điều kiện thích hợp. Theo nghĩa đó, khả năng là tiền đề của cái mới.
Tuy khả năng là cái chưa có nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại.
Các sự vật mà khả năng đó biểu hiện chưa tồn tại như một hiện thực nhưng bản thân
khả năng thì tồn tại. Vì vậy, khả năng cũng là một trạng thái đặc biệt của hiện thực,
trạng thái mà hiện thực mới tồn tại trước khi trở thành chính bản thân mình.
- Phân loại khả năng:
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế (đều tồn tại thực sự, do hiện thực sinh
ra). Có những khả năng được hình thành một cách tất nhiên do quy luật vận động nội
tại của sự vật (khả năng tất nhiên), có những khả năng được hình thành một cách
ngẫu nhiên (khả năng ngẫu nhiên). Khả năng tất nhiên bao gồm khả năng gần (đã có
đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực), khả năng xa (còn
phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện biến thành hiện thực)

2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Khả năng và hiện thực ở trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách
rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng,
còn khả năng sẽ biến thành hiện thực. Đó là một quá trình vô tận. Do đó, sẽ mắc sai
lầm nếu tách cái nọ khỏi cái kia. Kết quả là trong hoạt động thực tiễn sẽ không nhìn
thấy khả năng tiềm tàng trong sự vật, do đó không xác định được tương lai phát triển


của nó, hoặc không tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự chuyển biến tích


cực và không ngăn chặn kịp thời những biến chuyển tiêu cực.
- Cũng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số
khả năng vốn đã có ở sự vật, trong những điều kiện nhất định, khi có thêm điều kiện
mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới. Ngay trong bản thân
mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, nó có thể tăng lên giảm đi là tùy
thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
- Quá trình khả năng biến thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không giống
như trong xã hội. Ở trong tự nhiên là một quá trình khách quan, diễn ra tự phát. Trong
xã hội, sự chuyển hóa đó phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
- Trong những điều kiện nhất định, có khả năng tất yếu trở thành hiện thực,
nhưng cũng có khả năng có thể không trở thành hiện thực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Nếu chỉ thấy hiện thực mà không thấy khả năng thì sẽ không dự đoán được
tương lai. Nếu thấy khả năng mà không thấy hiện thực sẽ dẫn đến bi quan. Nếu đồng
nhất khả năng với hiện thực thì sẽ ảo tưởng.
- Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực để đánh giá tình hình và
phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả năng để phát huy tối đa tính năng
động chủ quan, ứng xử kịp thời tránh tư tưởng chờ đợi thụ động.



×