Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại các HÀNH VI CẠNH TRANH về GIÁ NHẰM NÂNG CAO hạn CHẾ CẠNH TRANH TRONG LUẬT CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 76 trang )

Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 1

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 2

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 3

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÀNH VI HẠN CHẾ
CẠNH TRANH LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT


CẠNH TRANH .......................................................................................................26
2.1. Hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ .................................26
2.1.1. Chủ thể thực hiện hành vi..................................................................27
2.1.2. Nội dung của thỏa thuận....................................................................27
2.2. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham
gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh ..............................................29
2.3 Thỏa thuận loại bỏ thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thỏa thuận ............................................................................................32
2.4 Hành vi áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng .................................33
2.4.1. Áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý ....................................34
2.4.2. Áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý .....................................34
2.4.3. Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng..............36
2.5 Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh .............................................................................................37
2.6 Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm
tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.................................................................42
2.6.1. Chủ thể thực hiện hành vi..................................................................42
2.6.2. Biểu hiện khách quan của hành vi ....................................................43
2.6.3. Tác động của hành vi .........................................................................43
2.7 Ngăn cản việc tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới ......45
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC
HÀNH VI CẠNH TRANH VỀ GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG LUẬT CẠNH TRANH .............................................................................48
3.1. Thực tiễn các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong
Luật Cạnh tranh.................................................................................................48
3.1.1. Những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật ....................48
3.1.2. Trình độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng
nói chung về các quy định trong Luật Cạnh tranh chưa cao.....................55
3.1.3. Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh chưa được

xử lý và kiểm soát chặt chẽ...........................................................................56
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với hành vi cạnh tranh về giá
nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh .........................................58

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 4

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

3.2.1. Về quy định của pháp luật liên quan đến hành vi cạnh tranh về giá
............................................................................................................58
3.2.2. Thúc đẩy các biện pháp để đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống ....63
3.2.3. Một số kiến nghị khác ........................................................................63
KẾT LUẬN............................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................68

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 5

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cạnh tranh là quá trình tất yếu xảy ra trong sự phát triển kinh tế. Sự thay đổi thị
hiếu của người tiêu dùng đồng thời với sự gia tăng số lượng cũng như quy mô của các
doanh nghiệp trong cùng một ngành đã tạo nên một áp lực cạnh tranh lớn hiện nay trên
thị trường. Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành càng cao thì khả năng để một doanh
nghiệp bị thôn tính hoặc buộc phải từ bỏ thị trường do thiếu khả năng thích nghi càng
lớn. Điều này đã mang lại một ưu điểm lớn cho nền kinh tế là đảm bảo thị trường luôn
mở cửa cho các ngành mới, doanh nghiệp mới, buộc các doanh nghiệp tự cải thiện tình
hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ thông qua việc đổi mới, nâng cao chất lượng và giá cả,
góp phần thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cạnh tranh cũng làm phát sinh những hiện tượng không lành mạnh với
những toan tính, những thủ đoạn, những hành vi bất chính của một số doanh nghiệp,
không chịu được sức ép của cạnh tranh hoặc của một số doanh nghiệp có lợi thế trên thị
trường nhằm tiêu diệt đối thủ, ngăn cản sự phát triển tự nhiên của thị trường, lừa dối
khách hàng để trục lợi. Những biểu hiện không lành mạnh ấy ngày càng gia tăng về số
lượng và phức tạp trong biểu hiện, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh.
Ở Việt Nam, các hành vi cạnh tranh làm ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế ngày
càng nhiều, trong đó hành vi cạnh tranh về giá được sử dụng phổ biến nhất. Tuy cạnh
tranh về giá luôn được Nhà nước khuyến khích để các doanh nghiệp có thể sản xuất ra
những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tốt với mức giá hợp lý, phục vụ nhu cầu của người
tiêu dùng nhưng không phải mọi hành vi cạnh tranh về giá mà các doanh ngiệp thực hiện
đều được pháp luật cho phép đặc biệt là các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh
tranh. Đây là một hình thức cạnh tranh gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tự nhiên
của thị trường. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 là bước tiến trong việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về cạnh tranh, tạo hành lang pháp lý để bảo
vệ các chủ thể tham gia cũng như đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Với những
quy định tiến bộ ở giai đoạn này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, góp
phần thúc đẩy sự gia tăng số lượng doanh nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế
quốc gia. Tuy nhiên, một cách khách quan để nhìn nhận, sự điều chỉnh của pháp luật về
các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá trong Luật Cạnh tranh chưa thật sự cụ

thể. Đâu đó, vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, chưa điều chỉnh hết các vấn đề mà xã
hội phát sinh trong quá trình áp dụng những quy định của luật làm cho việc áp dụng pháp
luật khó khăn, do đó chưa bảo vệ một cách triệt để sự phát triển tự nhiên của cạnh tranh
cũng như những chủ thể tham gia vào quá trình này. Bên cạnh đó, do nền kinh tế nước ta
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 6

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

đang trên đà phát triển, vận động không ngừng, kéo theo đó là các hành vi hạn chế cạnh
tranh liên quan đến giá được nhiều doanh nghiệp sử dụng với mức độ tinh vi và phức tạp
hơn, gây khó khăn cho việc điều chỉnh và kiểm soát các hành vi này trên thực tế.
Từ những vần đề vừa nêu, người viết đã chọn đề tài: “Các hành vi cạnh tranh về
giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh” để nghiên cứu làm luận văn tốt
nghiệp cử nhân ngành luật cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh ngày càng diễn ra phức tạp
và đa dạng hơn vì vậy mục đích để người viết chọn đề tài này là muốn tiếp cận nghiên
cứu các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn của các hành vi cạnh tranh về giá nhằm
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. Từ đó có căn cứ để xác định hành vi cạnh tranh về giá
nhằm hạn chế cạnh tranh trong thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật về lĩnh vực trên.
3. Phạm vi nghiên cứu
Cạnh tranh là nguồn lực để phát triển kinh tế, bên cạnh những mặt tích cực mà
cạnh tranh mang lại thì cũng có những mặt tiêu cực song hành. Để giảm bớt áp lực mà
môi trường cạnh tranh mang lại, các doanh nghiệp đã tiến hành thực hiện các hành vi

cạnh tranh khác nhau nhằm làm ảnh hưởng đến quyền tự do cạnh tranh của các chủ thể
khác tham gia thị trường, trong đó hành vi cạnh tranh về giá được sử dụng một cách rộng
rãi và phổ biến nhất.
Các hành vi cạnh tranh về giá rất đa dạng nhưng trong bài viết này người viết chỉ
tập trung xoáy sâu nghiên cứu pháp luật về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến
giá trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, trong bài viết này người viết cũng không đề cập đến
phần thủ tục xử lý đối với hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, từ việc tham khảo những quy định của pháp luật, các tạp chí,
giáo trình…và những thực tế phát sinh, người viết sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích
luật viết; phương pháp sưu tầm kết hợp với việc tham khảo, tổng hợp các tài liệu liên
quan trong các sách tham khảo, giáo trình, báo, tạp chí và trên các trang mạng điện tử.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì kết cấu
luận văn gồm 3 chương:

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 7

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh về
giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh
Trong chương 1, nội dung mà người viết tập trung để làm rõ là nêu lên khái niệm
cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh, giá và hành vi cạnh tranh về
giá. Bên cạnh đó là nêu lên những đặc điểm cơ bản, vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh, pháp

luật cạnh tranh, cách thức xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và phân tích sự tác động
của hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá.
Chương 2: Quy định của pháp luật về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên
quan đến giá theo quy định của Luật Cạnh tranh
Trong nội dung chương 2, người viết tập trung tìm hiểu quy định của pháp luật
hiện hành về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá.
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện các hành vi cạnh tranh
về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh
Trong nội dung chương 3, người viết sẽ nêu lên những bất cập xuất phát từ chính
những quy định của pháp luật và việc áp dụng quy định pháp luật liên quan đến các hành
vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
những vần đề đã nêu.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 8

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC HÀNH VI
CẠNH TRANH VỀ GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
LUẬT CẠNH TRANH
Sự ra đời của cạnh tranh đã góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế cũng như tạo nền tảng cho các doanh nghiệp tham gia thị trường phát huy hết
sự sáng tạo của mình, phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng ngày một tốt hơn thông
qua các hình thức cạnh tranh khác nhau mà hình thức được sử dụng phổ biến nhất chính

là cạnh tranh liên quan đến giá. Trong chương này, nội dung khái quát được đề cập là
làm rõ một số khái niệm liên quan đến cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh, hạn chế cạnh
tranh, giá và cạnh tranh về giá. Bên cạnh đó, nêu lên đặc điểm, ý nghĩa của cạnh tranh
và pháp luật cạnh tranh, cách thức xác định hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như những
tác động của hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh đối với các chủ thể của
cạnh tranh và nền kinh tế.
1.1 . Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh
1.1.1. Khái quát chung về cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm
Cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có
chung một môi trường sống đối với điều kiện nào đó mà các cá thể cùng quan tâm. Đó là
một khái niệm chung cơ bản dành cho nhiều lĩnh vực trong xã hội. Có thể nói là có cạnh
tranh thì mới có phát triển xã hội thành công. Song thuật ngữ “cạnh tranh” này thường
được dùng nhiều nhất trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường –
nền kinh tế hàng hóa như hiện nay. Cạnh tranh được xem như là nền tảng, động lực để
phát triển kinh tế, bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường dù muốn
hay không đều phải chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp thành công
trên thị trường là các doanh nghiệp có khả năng thích nghi với cạnh tranh và luôn giành
thế chủ động cho mình trong các mối quan hệ kinh tế xã hội bằng các yếu tố thích hợp.
Các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ cạnh tranh và các cách thức để nâng cao khả năng
cạnh tranh của chính bản thân mình1.
Ở Việt Nam vào thời kỳ kinh tế bao cấp khái niệm cạnh tranh chưa được quan
tâm, các hoạt động kinh tế của đất nước được tiến hành dựa trên chế độ bao cấp của Nhà
1

Nguyễn Văn Tâm, Lý luận chung về cạnh tranh, [ truy cập ngày 30-12-2012].

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 9


SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

nước, công hữu về tư liệu sản xuất. Vì thế cạnh tranh là một hoạt động không phù hợp
với điều kiện kinh tế thời kỳ đó.
Từ năm 1986, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp sang cơ chế mở cửa thị trường, phát triển nền kinh tế theo định hướng đa phương
hóa, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của các chủ thể. Kể từ đây, cạnh tranh được
thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức, điều khiển nền kinh tế quốc dân nói chung và trong tổ chức, điều hành
kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh không những là môi trường của
sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, góp
phần cho sự phát triển của nền kinh tế.
Cạnh tranh đã hình thành và phát triển ở các nước tư bản từ rất lâu nhưng cho
đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa đi đến một định nghĩa thống nhất về cạnh tranh.
Theo Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi
chủ thể kinh doanh - được hiểu là “sự nổ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương
nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba”2. Theo từ điển
kinh doanh của Anh, xuất bản năm 1992, cạnh tranh với tư cách là một hiện tượng xã
hội được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm
tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”3.
Trong cuốn Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh,
Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) cho rằng “cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường được dùng để chỉ một hoàn cảnh trong đó các
doanh nghiệp hoặc người bán cố gắng một cách độc lập giành được sự quan tâm,
chú ý của người mua để đạt được một mục tiêu kinh doanh nhất định như lợi nhuận,
doanh thu, thị phần”4. Bên cạnh đó theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được

hiểu là “hành vi của doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng
hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn yêu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi
bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường
xuyên”5. Theo từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh có nghĩa là “cố gắng giành phần hơn,
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau”6.Theo cách hiểu này, cạnh tranh là một sự đối đầu giữa các đối thủ kinh doanh
2
3

Bryan A.Garmer, Black’ Law Dictionary, St. Paul, 1999, trâng 278.
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2004, trang 19.
4
OECD & WB - Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và Ngân hàng Thế giới, Khuôn khổ cho việc xây dựng và
thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Hoàng Xuân Bắc dịch, 2004, trang 17.
5
Nguyễn Hữu Huyên, Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb. Tư pháp, 2004, trang 11.
6
Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2000, trang 112.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 10

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết hợp các yếu tố này và các yếu tố khác nhằm thu

hút khách hàng.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng về bản chất cạnh tranh được coi là
hành vi của hai hay nhiều chủ thể trong kinh doanh (trong nền kinh tế thị trường) với mục
đích giành cho mình những ưu thế cao nhất so với các chủ thể khác bằng cách sử dụng
những phương thức kinh doanh riêng. Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh
tế thị trường, đó là sản phẩm của quá trình chuyển đổi cơ chế của kinh tế quốc gia. Có tự
do cạnh tranh, nền kinh tế thị trường mới vận hành theo đúng quy luật tất yếu của nó và
phát huy nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả
mà cạnh tranh mang lại cho nền kinh tế, cho xã hội thì nó cũng đã đem đến nhiều hệ lụy
gây ra hậu quả tiêu cực cho kinh tế quốc gia thông qua việc các chủ thể là đối thủ của
nhau tìm cách loại bỏ đối thủ của mình bằng cách sử dụng các chiến lược kinh doanh
gian dối, làm lũng đoạn thị trường kinh doanh, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng,
chính vì thế các doanh nghiệp phải tự trang bị và cải tổ hoạt động kinh doanh của mình
cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập như hiện nay, qua
đó mang lại hiệu quả tích cực cho xã hội như chất lượng, mẫu mã hàng hóa, dịch vụ tốt
hơn với mức giá hợp lý.
1.1.1.2. Đặc trưng của cạnh tranh
Cạnh tranh là thành quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, làm nền tảng để thúc
đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước do đó cạnh tranh mang những đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội xảy ra giữa những chủ thể kinh
doanh. Cạnh tranh chỉ thực sự xuất hiện khi tồn tại những dấu hiệu sau đây:
• Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình
thức sở hữu khác nhau. Bởi vì cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các chủ
thể kinh doanh nhằm mục đích chiếm được lợi ích tối đa, mở rộng thị trường kinh
doanh, đòi hỏi phải có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh trên thị
trường, cạnh tranh không thể nào xuất hiện khi chỉ có một doanh nghiệp. Mặt
khác, khi có sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp nhưng chúng chỉ thuộc một
thành phần kinh tế duy nhất thì cạnh tranh cũng không còn ý nghĩa nữa vì cạnh
tranh là hiện tượng xảy ra giữa các đối thủ của nhau. Cạnh tranh chỉ thực sự trở

thành động lực thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động động hiệu quả và tốt
hơn khi các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau cùng tiến

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 11

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

hành tranh giành một lợi ích trên thị trường, sự đạt được mục đích của người này
sẽ dẫn đến thất bại của người kia với những tính toán khác nhau.
• Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do lựa chọn, quyết
định công việc kinh doanh của mình. Cạnh tranh chỉ diễn ra khi các bên cung, cầu
có khả năng lựa chọn, thay thế cũng như được tự do tham gia kinh doanh mà
không bị bất kỳ một cản trở nào tức là được bảo hộ về mặt pháp luật. Tự do kinh
doanh, tự do lựa chọn đối tác, hình thức kinh doanh và tự chịu trách nhiệm cho
hoạt động kinh doanh sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể chủ động trong
việc tiến hành các cuộc cạnh tranh gay gắt để tự tìm cơ hội mở rộng và phát triển
thị trường qua đó cũng góp phần làm tăng sự sáng tạo của các chủ thể.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các doanh
nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn về
lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định là người tiêu dùng7.
Trong kinh doanh, lợi nhuận chính là mục tiêu hàng đầu thúc đẩy các doanh
nghiệp tiến hành cạnh tranh với nhau, muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phải trang bị cho mình nguồn lực tài chính vững chắc bên cạnh đó là kiến thức
kinh tế, xã hội, có trình độ quản lý và tri thức về khoa học công nghệ cao, có kinh nghiệm
thương trường tốt8, nhằm nắm bắt tốt thị hiếu của người tiêu dùng bởi vì chính người tiêu

dùng là người quyết định sự thành bại của một sản phẩm, là thước đo sự thành đạt của
một chủ thể kinh doanh. Các doanh ngiệp có khả năng thích nghi với sự biến đổi của thị
trường thì sẽ thu hút được khách hàng bằng những sản phẩm chất lượng cao, giá cả phù
hợp thông qua đó cũng thu hồi được nguồn vốn mình bỏ ra và một khoản lợi nhuận kinh
doanh và ngược lại doanh nghiệp yếu kém sẽ không có lợi nhuận và quan trọng hơn là
mất khách hàng, rời khỏi thị trường. Đây chính là quy luật cạnh tranh, buộc các chủ thể
tham gia trên thị trường phải tiến hành tranh giành với nhau bằng tiềm lực chất xám và
tài chính.
Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật khách hàng giữa các doanh nghiệp là đối thủ
cạnh tranh của nhau. Khách hàng được coi là trung tâm thị trường, họ là những “trọng
tài” vô tư và khách quan nhất, họ sẽ quyết định sự sống còn, tồn tại hay không tồn tại của
các chủ thể kinh doanh trong quá trình cạnh tranh trên thị trường9.

7

Cách diễn tả của Nguyễn Như Phát & Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc
quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Công an nhân dân, 2001.
8
Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt nam, 2009, trang 9.
9
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2004, trang 33.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 12

SVTH: Lâm Cẩm Thi



Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng giành thị
trường mua hoặc bán sản phẩm. Cạnh tranh không chỉ diễn ra trên thị trường bán sản
phẩm giữa những chủ thể kinh doanh tiến hành cung ứng sản phẩm ra thị trường mà nó
còn xuất hiện ngay trên thị trường mua giữa các doanh nghiệp mà đối tượng để cạnh
tranh chính là nguyên liệu đầu vào.
Với sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn
ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường. Với sự giúp
đỡ của người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ lợi ích mà
họ mong muốn10. Đặc trưng này thể hiện các nội dung sau:
• Mục đích lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy để các chủ thể kinh doanh tiến
hành hoạt động cạnh tranh trên thị trường mua nguyên liệu lẫn thị trường bán sản
phẩm. Việc cùng chung mục đích lợi ích sẽ làm cho các doanh nghiệp trở thành
đối thủ của nhau, sự tồn tại của cạnh tranh được xác định dựa trên sự tồn tại của
thị trường liên quan đến các doanh nghiệp, cạnh tranh với nhau trong cùng một thị
trường kinh doanh sản phẩm ở một khu vực nhất định. Trong cùng một không
gian, kinh doanh cùng mặt hàng thì sản phẩm của các doanh nghiệp có khả năng
thay thế cho nhau, khi đó họ có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có
cùng một nguồn lợi ích để hướng đến, từ đó sẽ làm nảy sinh sự ganh đua, kình
địch nhằm giành lấy lợi ích cho riêng mình. Khả năng thay thế của một sản phẩm
thường được mô tả bằng tính năng sử dụng, tính chất lý hóa và giá cả tương tự
nhau11. Mọi sự khác biệt của một trong ba dấu hiệu trên sẽ làm phân hóa nhóm
khách hàng tiêu thụ và các sản phẩm đó sẽ không thể thay thế được cho nhau.
• Cạnh tranh là cuộc chạy đua không có hồi kết bởi nền kinh tế thị trường luôn vận
động và thay đổi liên tục, các doanh nghiệp phải phát triển không ngừng hoạt động
kinh doanh của mình để theo kịp sự biến động của kinh tế hội nhập. Cạnh tranh
không chỉ có mặt tích cực mà nó còn có cả mặt tiêu cực, nếu nó mang về cho
người thắng cuộc sự tín nhiệm của khách hàng và các yếu tố khác như vốn,
nguyên liệu, lợi nhuận…thì sẽ làm cho người thua cuộc phải thu hẹp thị trường và

cũng có thể phải rút khỏi cuộc đua trên thương trường, vì vậy các chủ thể kinh
doanh phải thực sự tài năng trong cuộc tranh giành gay gắt đó.

10

Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006,
trang 12.
11
Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006,
trang 12.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 13

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

1.1.1.3. Ý nghĩa của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện
mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường12. Cạnh tranh là một quy luật khách quan
của nền kinh tế, giống như những quy luật đào thải của tự nhiên, quy luật cạnh tranh có
thể mang lại lợi ích cho người chiến thắng cũng như thiệt hại cho người thua cuộc trong
một cuộc đua gay gắt nhằm mục đích giành lấy thị trường và người tiêu dùng, nhưng xét
về tổng thể các lợi ích mà cạnh tranh mang lại là rất lớn. Cạnh tranh không những có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp mà nó còn là nền tảng cho nền kinh
tế phát triển, góp phần cho các doanh nghiệp cải thiện chất lượng hàng hóa phục vụ
khách hàng tốt hơn qua từng thời kỳ của xã hội.

Cạnh tranh làm cho thị trường diễn ra theo những quy luật tất yếu của cạnh tranh
đồng thời làm tăng các giá trị kinh tế trong xã hội. Chung quy cạnh tranh đã mang lại
những thành quả tích cực sau13:
- Cạnh tranh giúp cho các nhà kinh doanh xác định đúng nhu cầu trên thị trường,
giúp họ có thể điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng. Bởi vì, khi doanh nghiệp nào được người tiêu dùng lựa chọn nghĩa là doanh nghiệp
đó đáp ứng được mong muốn của người tiêu dùng và khi đó các doanh nghiệp khác cũng
tiến hành cải tiến để được người tiêu dùng lựa chọn.
- Cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất, kinh doanh. Khi một doanh nghiệp đưa ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị
trường, sản phẩm đó nhanh chóng chiếm được ưu thế và tạo điều kiện để doanh nghiệp
thu lợi nhuận cao. Điều này làm cho các doanh nghiệp đối thủ phải tiến hành cải tiến mẫu
mã, chất lượng hàng hóa để đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Để đạt được điều
đó thì các doanh nghiệp phải tăng cường ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ
tiên tiến để cải thiện chất lượng sản phẩm đồng thời giảm chi phí sản xuất. Như vậy, khoa
học công nghệ ngày càng được phát triển và áp dụng rộng rãi trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
- Cạnh tranh sẽ giúp cho nhu cầu của xã hội được đáp ứng ngày càng tốt hơn, làm
cho nhu cầu luôn được thỏa mãn một cách tối ưu nhất. Khi cạnh tranh diễn ra, các doanh
nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau phải chú ý đến những sự thay đổi nhu cầu của
người tiêu dùng để có thể đưa ra những hàng hóa, dịch vụ phù hợp nhất. Điều này làm
12

Cách diễn tả của Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc
quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Công an nhân dân, H.2001.
13
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 23-26.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân


Trang 14

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

cho hàng hóa luôn có xu hướng được đa dạng hóa, chất lượng tốt hơn và giá cả hợp lý
hơn. Chức năng này làm cho các doanh nghiệp phải liên tục sáng tạo và phát triển những
sản phẩm, dịch vụ mới tốt và hấp dẫn hơn, cả về chất lượng và giá cả.
- Cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Do
quy luật cạnh tranh trên thị trường, các chủ thể khi tham gia kinh doanh muốn đạt được
lợi nhuận tối đa thì không thể thực hiện bằng phương thức bóc lột khách hàng mà phải
bằng cách tận dụng tối đa các nguồn lực về vật chất và nhân lực của mình vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Họ luôn phải sử dụng một cách tối ưu và hợp lý nhất các nguồn lực
tài nguyên này sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng hàng
hóa. Chính vì đặc điểm này mà nguồn lực tài nguyên được phát huy triệt để, tránh lãng
phí.
- Cho phép người tiêu dùng có thể lựa chọn người cung cấp cũng như hàng hóa,
dịch vụ mà họ muốn. Điều này làm cho họ có thể tránh được những hàng hóa, dịch vụ
kém chất lượng và được bảo vệ khỏi các hành vi tiêu cực của các chủ thể cạnh tranh trên
mặt trái của thị trường, ví dụ khi họ áp đặt điều kiện thương mại, lạm dụng quyền lực thị
trường đối với khách hàng…
- Cạnh tranh cũng định hướng phân phối nguồn lực và thu nhập tương ứng với
hoạt động và tính hiệu quả của các chủ thể tham gia thị trường. Cạnh tranh tạo ra áp lực
liên tục đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và vì vậy,
không một chủ thể kinh doanh nào có thể mãi mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống
phân phối trên thị trường. Trong từng thời điểm, một sản phẩm hàng hóa với những ưu
điểm tối ưu được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, chiếm ưu thế trên thị trường nhưng vị

trí đó luôn bị đe dọa bởi những loại sản phẩm cùng loại khác tiến bộ hơn. Có cạnh tranh,
các nhà kinh doanh không thể lạm dụng được ưu thế của mình. Vì vậy, cạnh tranh là một
yếu tố tác động tích cực đến việc phân phối và điều hòa thu nhập.
- Cạnh tranh là một quá trình lựa chọn những chủ thể đủ năng lực và loại bỏ
những chủ thể kinh doanh kém hiệu quả, đồng thời mở ra cơ hội cho những chủ thể mới
tốt hơn, năng động hơn gia nhập thị trường. Song hành cùng cạnh tranh là quy luật đào
thải những chủ thể hoạt động kém hiệu quả. Khi tham gia vào thị trường các doanh
nghiệp phải luôn “làm mới mình” để đáp ứng nhu cầu luôn vận động của khách hàng. Vì
thế, những doanh nghiệp nào có năng lực sản xuất tốt nhất thì sẽ thỏa mãn được yêu cầu
của người tiêu dùng, có thể chiếm được ưu thế trên thị trường, ngược lại doanh nghiệp
kém linh hoạt, hoạt động kém hiệu quả thì sẽ bị cạnh tranh loại bỏ ra khỏi thị trường.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 15

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

- Cạnh tranh công bằng sẽ làm giảm việc tích lũy quyền lực kinh tế và đồng thời
làm giảm tình trạng độc quyền, tập trung kinh tế. Khi nền kinh tế mở cửa thị trường, cạnh
tranh là quyền tự do của các doanh nghiệp thì quyền lực thị trường của các chủ thể kinh
doanh luôn thay đổi theo từng thời kỳ. Thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường
không đứng im mà luôn luôn thay đổi, do các doanh nghiệp tiềm năng có thể gia nhập thị
trường hoặc sự mở rộng thị trường của các doanh nghiệp đang hoạt động, quy luật này đã
làm cho tình trạng độc quyền giảm xuống một cách đáng kể.
1.1.2. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh

Pháp luật xuất hiện là do nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và phải phù
hợp với nền tảng của xã hội. Cơ sở cho sự ra đời của pháp luật cạnh tranh chính là sự
chuyển đổi cơ cấu từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, mà nền tảng của kinh tế thị
trường chính là sự tự do kinh doanh, tự do lựa chọn ngành nghề…theo đó có tự do cạnh
tranh. Nhiệm vụ chính của pháp luật cạnh tranh chính là điều chỉnh quan hệ cạnh tranh
thông qua việc quy định các hành vi ứng xử của chủ thể tham gia kinh doanh cũng như
các biện pháp tác động cần thiết đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh, việc ban hành đạo luật cạnh tranh chính là tạo cơ sở pháp lý nhằm mục đích đảm
bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng cho các chủ thể cạnh tranh khi tham gia
vào thị trường.
Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật cạnh tranh bao gồm: “Pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh; Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh; Những quy định điều
chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan”. Theo nghĩa hẹp, pháp luật
cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh
tranh bình đẳng và công bằng14.
Người ta có thể tiếp cận pháp luật cạnh tranh từ hai góc độ: những công cụ pháp
luật bảo đảm để cạnh tranh có thể diễn ra (pháp luật chống hạn chế cạnh tranh), những
công cụ đảm bảo cho cạnh tranh diễn ra một cách văn minh và công bằng (pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh). Điểm khác biệt trọng yếu giữa hai nhóm luật này
thể hiện ở chổ: luật kiểm soát hạn chế cạnh tranh xóa bỏ cản trở để cuộc cạnh tranh được
diễn ra và ngược lại trong cuộc ganh đua đó xuất hiện hành vi bất chính thì chúng được
xử lý bởi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, mọi cách phân chia
14

Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 38.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân


Trang 16

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

đều tương đối, khó tránh khỏi chồng chéo, các hành vi bán phá giá, phân biệt đối xử, tẩy
chay…vừa có thể là dấu hiệu lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để cản trở cạnh tranh
vừa mang tính cạnh tranh không lành mạnh – chúng có thể đồng thời thuộc phạm vi điều
chỉnh của cả hai nhóm pháp luật kể trên.
1.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh được ban hành nhằm mục đích điều tiết nền kinh tế, đảm bảo
cho các chủ thể kinh doanh tham gia vào thị trường được cạnh tranh một cách công bằng
bằng cách sử dụng những thủ thuật kinh doanh khác nhau nhưng phải không trái với quy
định của pháp luật để đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, pháp luật cạnh
tranh có một số đặc điểm cơ bản sau15:
- Pháp luật cạnh tranh là một bộ phận của pháp luật điều tiết thị trường nên nó
được xây dựng hết sức mềm dẻo để thích ứng với việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh
rất đa dạng trên thị trường. Tính mềm dẻo làm cho nhiều hành vi (nhất là trong pháp luật
chống hạn chế cạnh tranh) được điều chỉnh ở dạng “có thể bị cấm”. Bởi vậy, khi áp dụng
luật, các cơ quan có thẩm quyền thường phải hết sức linh hoạt, cân nhắc lợi ích của các
bên trong mỗi trường hợp cụ thể nhằm vừa đảm bảo khuyến khích cạnh tranh, vừa hạn
chế những hành vi cạnh tranh trái pháp luật.
- Do có nhiệm vụ chính là điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế, cho nên pháp
luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phải phù hợp với các chuẩn mực
kinh tế. Các quy định pháp luật có liên quan chặt chẽ đến học thuật, kiến thức của kinh tế.
Do đó, khi áp dụng các quy phạm pháp luật cạnh tranh vào các trường hợp cụ thể, về cơ
bản người ta thường sử dụng phương pháp tiếp cận dưới giác độ kinh tế.
- Pháp luật cạnh tranh mang đặc điểm của cả luật công lẫn luật tư, nó nội hàm

những vấn đề liên quan đến kinh tế của nhiều lĩnh vực pháp luật quan trọng như: dân sự,
thương mại, hành chính… Vì vậy, pháp luật cạnh tranh không có chế tài riêng, khi áp
dụng người ta phải sử dụng chế tài của một số lĩnh vực pháp luật khác, đó có thể là chế
tài dân sự (áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ yếu là bồi
thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm…) hoặc chế tài hành chính (áp dụng đối
với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh
tế, chủ yếu là phạt tiền).
- Khác với các lĩnh vực pháp luật khác, ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh
hoạt động cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh còn có các quy định điều chỉnh hoạt động tố
tụng cạnh tranh.
15

Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 39-40.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 17

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

1.1.2.3. Vai trò của pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh luôn có hai lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nhưng cả hai lĩnh vực pháp luật
này đều hướng tới mục đích chung là góp phần tạo lập và thúc đẩy môi trường kinh
doanh bình đẳng, tự do cũng như bảo vệ, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để bảo đảm
cho cạnh tranh được diễn ra đúng ý nghĩa vốn có và không trái với quy định của pháp
luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, các chủ thể cạnh tranh và của Nhà

nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội.
1.2. Những vấn đề chung về hành vi hạn chế cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm và ảnh hưởng của hành vi hạn chế cạnh tranh
Nguyên tắc tự do cạnh tranh được pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới
thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh, các tập đoàn có sức mạnh
kinh tế đã dùng quyền lực tài chính, công nghệ để hạn chế quyền tự do của các chủ thể
khác ngày càng diễn ra phổ biến. Đây là tiền đề cho sự ra đời của pháp luật chống hành vi
hạn chế cạnh tranh.
Nếu như Luật cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới sử dụng chống hoặc kiểm
soát độc quyền hay Tờ - rớt thì Luật Cạnh tranh của Việt Nam sử dụng khái niệm “hạn
chế cạnh tranh”. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì “Hành
vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hay tập trung kinh tế”.
Định nghĩa trên cũng tạo ra cơ cấu pháp luật về các nhóm hành vi hạn chế cạnh
tranh theo thông lệ quốc tế, bao gồm 3 bộ phận:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các – ten);
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (bao gồm cả vị trí độc quyền);
- Tập trung kinh tế.
Để phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh,
chúng ta dựa vào sự ảnh hưởng của chúng đối với mức độ cạnh tranh trên thị trường
thông qua đối tượng mà chúng xâm hại và hậu quả xảy ra. Do hành vi hạn chế cạnh tranh
nguy hại về mức độ cũng như trên phạm vi rộng lớn hơn cho thị trường so với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, nên pháp luật chống hạn chế cạnh tranh thường có biện
pháp xử lý nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi thỏa thuận nào cũng
bị xem là bất hợp pháp mà chỉ khi nào chúng rơi vào các trường hợp do luật liệt kê thì
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 18


SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

mới bị cấm. Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp ngoại lệ về hạn chế cạnh tranh có thể
được miễn trừ khi có những lý do kinh tế chính đáng16. Vì đây là pháp luật bảo vệ tự do
cạnh tranh, bảo vệ cơ cấu và tương quan trên thị trường nên phải cân nhắc đến quyền lợi
của nhiều bên trong quan hệ cạnh tranh.
1.2.2. Đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh
Tuy có nhiều dạng biểu hiện khác nhau nhưng những hành vi hạn chế cạnh tranh
này đều có chung những đặc điểm cơ bản sau17:
-

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh

Theo Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp.
Hay nói cách khác, doanh nghiệp là chủ thể của hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo Điều 2
Luật Cạnh tranh năm 2004 thì doanh nghiệp là các tổ chức và cá nhân kinh doanh, vì vậy,
các chủ thể khác như các Hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam và các cơ quan
quản lý Nhà nước có những hành vi hạn chế cạnh tranh… thì những hành vi đó không
được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh theo định nghĩa nói trên.
-

Thứ hai, về mục đích của hành vi hạn chế cạnh tranh

Hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều tác động
xấu đến môi trường kinh doanh, làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu sự cạnh tranh công bằng,
bình đẳng và lành mạnh, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu

dùng và của chủ thể khác. Tuy nhiên, mức độ nguy hại của hai nhóm hành vi này là khác
nhau. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh khi thực hiện sẽ
nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, thế nào
là giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường thì Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004
lại không giải thích. Lý giải về điều này là do, hành vi hạn chế cạnh tranh có nhiều loại
khác nhau nên không thể đưa ra một khái niệm chung chứa đựng những căn cứ cụ thể để
xác định khả năng và mức độ thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó, từng hành vi
hạn chế cạnh tranh có thể làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường ở những
mức độ khác nhau.
Mục đích thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh
tranh trên thị trường nên những hành vi này có thể làm biến dạng môi trường cạnh tranh,
làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan giữa các doanh nghiệp. Thậm chí nhiều
16

Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 43.
Bùi Ngọc Cương, Đồng Ngọc Ba, Lê Đình Vinh, Đoàn Trung Kiên, Giáo trình Luật thương mại, Nxb Giáo dục
Việt nam, 2010, trang 74.

17

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 19

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

hành vi hạn chế cạnh tranh còn có khả năng củng cố và duy trì vị thế thống lĩnh và độc

quyền trên thị trường, làm lũng đoạn thị trường, bóc lột khách hàng qua đó ảnh hưởng
chung đến nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước sẽ có cơ chế và mức độ can thiệp nghiêm khắc
đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh so với những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
-

Thứ ba, về nội dung của hành vi hạn chế cạnh tranh
Nội dung của hành vi hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản

của quan hệ thị trường mà doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp đang cạnh tranh
với nhau về giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện kí kết hợp đồng… Khi
hành vi hạn chế cạnh tranh xuất hiện thì các yếu tố trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống
nhất, triệt tiêu đi sự cạnh tranh trên thị trường.
1.2.3. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
1.2.3.1. Xác định thị phần, tổng thị phần
Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 tại khoản 5 Điều 3 “Thị phần của
doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh
thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa
doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng,
quý, năm”.
Như vậy, căn cứ để xác định thị phần là: tổng doanh thu hoặc doanh số của tất cả
các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan; doanh thu hoặc doanh số của doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra. Thị phần là một tiêu chí quan trọng để xác định
sự thành công và là chỉ số cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường,
có thể xác định thị phần của doanh nghiệp theo công thức: thị phần của doanh nghiệp X =
(doanh thu của doanh nghiệp X/tổng doanh thu hoặc doanh số của ngành) * 100.
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định “Thị phần kết hợp là
tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế”. Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế thì sẽ xác định thị phần của
từng doanh nghiệp có liên quan trong vụ việc, sau đó tính tổng thị phần của các doanh
nghiệp đó trên thị trường liên quan sẽ tính được thị phần kết hợp. Tuy nhiên, thị phần
luôn thay đổi theo thời gian chứ không cố định lâu dài, mọi diễn biến trên thị trường hoặc
những yếu tố khách quan khác đều có thể ảnh hưởng đến cấu trúc thị phần của thị trường
GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 20

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

liên quan đó. Vì vậy, để giải quyết các vụ việc cạnh tranh hiệu quả, khi xác định thị phần
kết hợp trong các vụ việc cạnh tranh cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố của thị trường để
xác định được chính xác hơn.
1.2.3.2. Xác định thị trường liên quan
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng
của nhà sản xuất hay thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng hóa hoặc
dịch vụ nhất định. Xác định thị trường liên quan là một yêu cầu cơ bản và tiên quyết đặt
ra cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh18. Chỉ
khi nào xác định được thị trường liên quan thì mới có cơ sở để xác định được những
doanh nghiệp nào là đối thủ cạnh tranh của nhau và thị phần của doanh nghiệp là bao
nhiêu. Thị trường liên quan là khái niệm được sử dụng trong phân tích cạnh tranh để chỉ
giới hạn thị trường nơi diễn ra các hoạt động cạnh tranh thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Cạnh tranh.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 giải thích khái niệm
thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan (là thị trường bao gồm những

hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả) và
thị trường địa lý liên quan (là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho
nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực
lân cận).
-

Thị trường sản phẩm liên quan

Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể
thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Khả năng thay thế cho nhau
phản ánh mức độ cạnh tranh giữa các sản phẩm tương tự nhau. Hiện nay, sự đa dạng của
nhu cầu thị trường đã kéo theo sự đa dạng của các sản phẩm, mặc dù sản xuất cùng loại
sản phẩm nhưng các doanh nghiệp khác nhau thì có những khác biệt nhất định về sản
phẩm đó.
Tính chất của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo các đặc tính lý hóa, mục đích
sử dụng nhằm có thể phân biệt với hàng hóa khác hoặc có thể xếp các hàng hóa cùng loại
với nhau. Các sản phẩm được coi là có thể thay thế cho nhau về mục đích sử dụng, về đặc
tính nếu như chúng có cùng mục đích sử dụng, có nhiều tính chất vật lý, tính chất hóa
học, tác động phụ với người sử dụng giống nhau19. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học có
hai nội dung cần phải xem xét là:
18
19

Vấn đề này không được đặt ra khi xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Khoản 1, 2 Điều 15 Nghị định 116/2005/NĐ-CP

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 21


SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

• Thứ nhất, mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục
đích sử dụng chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó20. Người sử dụng thường quan
niệm rằng hàng hóa, dịch vụ nào có chung mục đích sử dụng thì đó là các hàng
hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau. Vì vậy khi phân tích dấu hiệu này, cơ quan
có thẩm quyền cần phải nhìn nhận hiện tượng dưới góc độ của người sử dụng hàng
hóa, dịch vụ.
• Thứ hai, việc xác định sự tương tự về đặc tính của sản phẩm đòi hỏi phải phân
tích các yếu tố trong cấu tạo vật chất của sản phẩm như yếu tố lý hóa, các tác động
phụ đối với người sử dụng. Các sản phẩm không tương đồng nhau về những yếu
tố vừa nêu thì không thể thay thế cho nhau. Vì vậy việc xác định sự tương đồng về
yếu tố lý hóa của sản phẩm là cơ sở quan trọng để đánh giá sự thay thế của các sản
phẩm đó. Theo Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh (Nghị định 116/2005/NĐCP) thì hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế cho nhau về đặc tính nếu
hàng hóa, dịch vụ đó có nhiều đặc tính về vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật, tác
động phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống nhau.
Xác định phản ứng của người tiêu dùng khi có sự thay đổi giá cả của sản phẩm.
Việc điều tra về khả năng có thể thay thế giữa các sản phẩm cần phải được kiểm chứng từ
phản ứng của khách hàng trên thị trường đối với các sản phẩm khi có sự thay đổi về giá
của chúng trên thị trường. Khi khách hàng có thái độ sẵn sàng thay đổi thói quen sử dụng
một sản phẩm nhất định nào đó bằng sản phẩm khác, có nghĩa là hai sản phẩm trên có thể
thay thế cho nhau, đồng thới đáp ứng các điều kiện nhất định. Điểm c khoản 5 Điều 4
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định “Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế
cho nhau về giá cả nếu trên 50% của lượng ngẫu nhiên 1000 người tiêu dùng sinh sống
tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ khác
có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý

định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được
duy trì trong sáu tháng liên tiếp”.
Ngoài các căn cứ nêu trên thì trong những trường hợp cụ thể Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh có thể xem xét thêm các yếu tố khác như: tỷ lệ thay đổi của cầu đối với
một loại hàng hóa, dịch vụ khi có sự thay đổi về giá cả của hàng hóa, dịch vụ khác; thời
gian cung ứng hàng hóa, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tăng đột biến về cầu.

20

Theo Nghị định số 116/2005/NĐ-CP

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 22

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

-

Thị trường địa lý liên quan
Thị trường địa lý liên quan được xác định là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có

các hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và
có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Việc xác định khu vực không gian
liên quan được thực hiện dựa trên quan điểm của người sử dụng về khả năng thay thế cho
nhau của những sản phẩm được sản xuất hoặc được mua bán tại những địa điểm khác
nhau. Nếu người đang sử dụng sản phẩm được bán hoặc được sản xuất tại một địa điểm

nhất định chuyển sang mua sản phẩm tương tự tại địa điểm khác để phản ứng lại việc
tăng giá đáng kể trong một thời gian đủ dài, khi đó, hai địa điểm được xem xét nằm trong
khu vực địa lý mà các sản phẩm có thể thay thế cho nhau, nói cách khác là chúng có cùng
thị trường địa lý liên quan và ngược lại21.
Khu vực địa lý là những vùng thị trường được đo bằng khoảng cách không gian,
bao gồm các địa điểm mà tại đó những sản phẩm có thể thay thế cho nhau được phân
phối cho khách hàng, có thể là một quận, một thành phố, hoặc trong phạm vi cả nước…
Trong ranh giới của khu vực địa lý đó có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tham gia
phân phối sản phẩm liên quan và khu vực địa lý lân cận đủ gần có cơ sở kinh doanh của
doanh nghiệp khác để có thể tham gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu vực địa lý
nói trên. Các điều kiện cạnh tranh được xem xét để xác định bao gồm chi phí vận chuyển,
thời gian vận chuyển giữa các địa điểm trong cùng một khu vực thị trường hoặc giữa
vùng thị trường này với vùng thị trường khác; sự tồn tại của các rào cản gia nhập vùng thị
trường được xem xét.
Tóm lại, việc xác định thị trường địa lý liên quan là việc xem xét thái độ của
người tiêu dùng khi giá hàng hóa ở khu vực này tăng so với khu vực khác. Bên cạnh đó,
cũng phải xác định thêm các yếu tố khác có thể tác động đến nhu cầu, tâm lý tiêu dùng
của khách hàng (như chi phí và thời gian đi lại giữa các địa điểm khác nhau và khả năng
tham gia phân phối trong khu vực đó). Bởi khi thay đổi địa điểm mua sản phẩm từ nơi
này sang nơi khác chỉ vì giá của sản phẩm mà họ đang sử dụng tăng, người tiêu dùng sẽ
phải cân nhắc xem các chi phí phát sinh và thời gian bỏ ra cho việc đi lại là có lợi hơn so
với sự tăng giá hay không . Nếu họ chấp nhận được thì các địa điểm khác nhau đó được
coi là cùng một khu vực mà sản phẩm có thể thay thế cho nhau và ngược lại.
-

Xác định các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan

Việc nhận dạng thị trường liên quan chỉ có thể được coi là hoàn tất cho đến khi cơ
cấu thị trường đã được mô tả đầy đủ. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, do đó,
21


Nguyễn Ngọc Sơn, Xác định thị trường liên quan theo Luật Cạnh tranh năm 2004,
[truy cập ngày 14/02/2013]

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 23

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

bên cạnh việc phân tích các dấu hiệu về khả năng thay thế của cầu (tính chất sản phẩm,
khu vực địa lý…), cần phải xác định khả năng thay thế từ phía cung bằng cách xác định
có bao nhiêu doanh nghiệp tham gia vào thị trường và thị phần của họ. Làm tốt công việc
này sẽ có được những kết luận đúng về cấu trúc thị trường liên quan của hiện tại và trong
tương lai gần, đồng thời có được số liệu về tổng thị phần trên thị trường làm cơ sở xác
định vị trí của từng doanh nghiệp22.
Trong nền kinh tế thị trường không chỉ có các doanh nghiệp tham gia hiện tại mà
các doanh nghiệp tiềm năng có thể tham gia thay đổi liên tục, phạm vi đối thủ cạnh tranh
trên cùng một thị trường của doanh nghiệp luôn là một phạm trù mở, tức là nó luôn
hướng về tương lai với khả năng thay thế về cung. Vì lẽ đó, quá trình xác định các doanh
nghiệp trên cùng một thị trường liên quan, các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành qua
hai bước:
• Thứ nhất, xác định số lượng các doanh nghiệp cùng đang kinh doanh các sản
phẩm nằm trong phạm vi có thể thay thế cho nhau
• Thứ hai, xác định các doanh nghiệp có khả năng thay thế về cung hay nói cách
khác đây là những doanh nghiệp đang kinh doanh trên thị trường khác, song có
khả năng chuyển sang kinh doanh sản phẩm có thể thay thế nói trên. Điều này

được pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 8 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, theo
đó, “Khả năng thay thế về cung được hiểu là khả năng của doanh nghiệp đang
sản xuất, phân phối một hàng hoá, dịch vụ chuyển sang sản xuất, phân phối dịch
vụ khác trong khoảng thời gian ngắn và không có sự tăng lên đáng kể nào về chi
phí trong bối cảnh có sự tăng lên về giá của hàng hoá, dịch vụ khác đó”. Theo các
nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát triển Liên hiệp
quốc (OECD), các doanh nghiệp được coi là nằm trong phạm vi có khả năng thay
thế về cung là những doanh nghiệp có thể chuyển những tư liệu sản xuất hiện có
sang mục đích sản xuất các sản phẩm có thể thay thế đang được điều tra mà không
gặp bất cứ rào cản nào và không làm tăng chi phí đầu tư23.

22

Nguyễn Ngọc Sơn, Xác định thị trường liên quan theo Luật Cạnh tranh năm 2004,
[truy cập ngày 14/02/2013]
23
OECD & WB - Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - Ngân hàng thế giới, Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực
thi Luật và chính sách canh tranh, Bản dịch của Hoàng Xuân Bắc, 2004, trang 48.

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 24

SVTH: Lâm Cẩm Thi


Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh

1.3. Khái quát chung về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá trong
Luật Cạnh tranh

1.3.1. Khái niệm về giá
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, nghĩa là một số tiền phải trả cho
hàng hóa đó. Về nghĩa rộng đó là một số tiền phải trả cho một hàng hóa, một dịch vụ hay
một tài sản nào đó. Trong sản xuất hàng hóa để sản xuất sản phẩm đưa ra thị trường cần
phải hao phí một lượng lao động cần thiết đó chính là giá trị của hàng hóa. Thông qua
hoạt động trao đổi giữa người bán với người mua, mà hình thành nên mức giá của hàng
hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, do đặc thù của một số ngành, một số sản phẩm mà giá cả có các
tên gọi khác nhau. Ví dụ: Tiền lương, tiền công đó là giá cả hàng hóa sức lao động, lãi
suất là giá sử dụng tiền, giá cước là giá các dịch vụ vận chuyển, thông tin. Học phí là giá
của khóa học, tiền thuê là giá nhà ở hay sử dụng một phương tiện nào đó…
Với hoạt động trao đổi “Giá cả là mối tương quan trao đổi trên thị trường”. Khi
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, người sản xuất sẽ sản xuất ra một lượng sản
phẩm nhất định và những sản phẩm này đưa ra thị trường tiêu thụ - tức là diễn ra hoạt
động trao đổi thì sản phẩm đó mới là hàng hóa và thông qua hoạt động trao đổi mức giá
của hàng hóa được hình thành.
Vì vậy, không thể thiếu vắng giá cả ở bất kỳ một hoạt động trao đổi nào. Trao đổi
qua giá là trao đổi dựa trên giá trị của những thứ đem trao đổi. Khi thực hiện trao đổi qua
giá, trước hết phải đánh giá được giá trị của các thứ đem trao đổi. Nếu tiêu chuẩn của giá
trị là lợi ích kinh tế thì sự chấp nhận một mức giá phụ thuộc rất lớn vào sự xét đoán lợi
ích mà các thành viên tham gia trao đổi đánh giá về mức giá nào đó. Một mức giá không
được chấp nhận trong trao đổi thường xuất phát từ vấn đề cốt lỗi là lợi ích của một hoặc
cả hai bên tham gia trao đổi không được thỏa mãn. Cho dù giá cả mang nhiều tên gọi
khác nhau nhưng chúng đều chứa đựng một ý nghĩa kinh tế chung: lợi ích được xác định
bằng tiền.
Với người bán “Giá cả một hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập người bán nhận
được về việc tiêu thụ sản phẩm”. Trong hoạt động trao đổi, người bán đóng vai trò cung
ứng hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của người mua và muốn bán
được giá cao nhất, cao hơn giá trị hàng hóa. Bởi vì càng bán được giá cao thì sao khi bù
đắp được chi phí sản xuất thì phần dư ra là lợi nhuận của người bán, đó là vấn đề được
các nhà sản xuất kinh doanh quan tâm và hướng tới. Tuy nhiên, trên thị trường trong một

khoảng thời gian nhất định, chỉ chấp nhận mức giá phù hợp với giá trị hàng hóa (giá trị

GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân

Trang 25

SVTH: Lâm Cẩm Thi


×