Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH, NIÊM yết cổ PHIẾU của DOANH NGHIỆP NHÀ nước cổ PHẦN HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 115 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 33 (2007-2011)

HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH, NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HOÁ

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ts. LÊ THỊ NGUYỆT CHÂU

NGUYỄN MINH VŨ
MSSV: 5075082
Lớp: Luật Thương Mại 1- K33

Cần Thơ, 5/2011


LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH, NIÊM
YẾT CỔ PHIẾU CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HÓA .......3
1.1

Khái niệm, vai trò của doanh nghiệp nhà nước. ................................................ 3

1.1.1



Khái niệm doanh nghiệp nhà nước. ....................................................3

1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà
nước 1995..........................................................................................3
1.1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo luật doanh nghiệp nhà
nước 2003..........................................................................................6
1.1.1.3 Khái niêm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp 2005. ....8
1.1.2

Vai trò của doanh nghiệp nhà nước .................................................. 12

1.1.2.1 Về mặt chính trị ............................................................................. 12
1.1.2.2 Về mặt xã hội. ................................................................................ 13
1.1.2.3 Về mặt kinh tế. .............................................................................. 13
1.2 Sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vào thị trường chứng khoán. ...... 14
1.2.1

Thị trường chứng khoán (TTCK) ..................................................... 14

1.2.2

Sự cần thiết của việc Doanh nghiệp nhà nước tham gia vào thị
trường chứng khoán. ........................................................................ 15

1.3

Khái niệm, vai trò của hoạt động phát hành chứng khoán ............................. 17

1.3.1


Khái niệm hoạt động phát hành chứng khoán ..................................17

1.3.2

Vai trò của hoạt động phát hành cổ phiếu ........................................ 18

1.3.3

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ............................................... 19

1.4

Khái niệm, vai trò của hoạt động niêm yết chứng khoán ............................... 23

1.4.1

Khái niệm hoạt động niêm yết chứng khoán ....................................23

1.4.2

Vai trò của hoạt động niêm yết chứng khoán ...................................23

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH,
NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN
HÓA ..................................................................................................................... 24
2.1

Quy định về hoạt động phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước ....24


2.1.1

Điều kiện phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước ............... 25

2.1.1.1 Các quy định chung về điều kiện phát hành cổ phiếu ...................... 25
2.1.1.2 Điều kiện phát hành cổ phiếu đối với doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thực hiện cổ phần hóa. ...................................................... 37
2.1.1.3 Điều kiện phát hành cổ phiếu đối với doanh nghiệp nhà nước nắm
cổ phần chi phối .............................................................................. 43
2.1.2

Thủ tục tiến hành phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước ...43


2.1.2.1 Các quy định chung về thủ tục phát hành cổ phiếu.......................... 43
2.1.2.2 Thủ tục phát hành cổ phiếu đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước thực hiện cổ phần hóa ............................................................. 57
2.1.2.3 Thủ tục phát hành cổ phiếu đối với doanh nghiệp nhà nước nắm cổ
2.2

phần chi phối. ................................................................................... 62
Quy định về hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước ...... 62

2.2.1

Điều kiện niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước ................. 63

2.2.1.1 Điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định chung .......................... 63
2.2.1.2 Điều kiện niêm yết cổ phiếu đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước cổ phần hóa............................................................................. 67

2.2.1.3 Điều kiện niêm yết đối với doanh nghiệp nhà nắm cổ phần chi
phối .................................................................................................69
2.2.2

Thủ tục niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước .................... 69

2.2.2.1 Thủ tục niêm yết theo quy định chung............................................ 69
2.2.2.2 Thủ tục niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
cổ phần hóa. .................................................................................... 72
2.2.2.3 Niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi
phối. ................................................................................................ 73
2.3 Xử lý vi phạm trong hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh
nghiệp nhà nước.....................................................................................................73
2.3.1

Xử lý quy phạm trong hoạt đông phát hành cổ phiếu của doanh
nghiệp nhà nước. ............................................................................. 73

2.3.2

Xử lý vi phạm trong hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh
nghiệp nhà nước. ............................................................................. 81

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
PHÁP HÀNH NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC HIỆN NAY .............................................................................................. 83
3.1

Thực trạng hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam. ........................................................................................... 83


3.1.1

Những kết quả đạt được ...................................................................83

3.1.1.1 Đối với bản thân doanh nghiệp phát hành, niêm yết cổ phiếu.......... 83
3.1.1.2 Đối với nhà nước ............................................................................ 85
3.1.1.3 Đối với thị trường chứng khoán và nền kinh tế ............................... 86
3.1.2

Những tồn tại trong hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của
doanh nghiệp nhà nước. ...................................................................87

3.1.2.1 Tồn tại trong hoạt động nghiệp phát hành cổ phiếu của doanh nhà
nước ................................................................................................ 88


3.1.2.2 Tồn tại trong hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà
3.2

nước. ............................................................................................... 93
Giải pháp hoàn thiện.............................................................................................. 95

3.2.1

Giải pháp chung về hoàn thiện các quy định pháp luật ..................... 95

3.2.2

Giải pháp riêng cho từng vấn đề ...................................................... 98


KẾT LUẬN ....................................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã được hình thành từ lâu và có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và
xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì vị trí chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế ngày càng mờ nhạt và tỏ ra không còn phù hợp với nền kinh tế thị
trường. Chính vì điều này Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trường cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước từ những năm 90 nhằm đổi mới doanh nghiệp nhà nước để
thích nghi với tình hình mới. Cổ phần hóa đã làm thay đổi đáng kể doanh nghiệp
nhà nước và trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta. Đặc biệt là từ khi thị trường chứng khoán ra đời thì cổ phần hóa càng được
đẩy mạnh. Trong đó phát hành cổ phiếu lần đầu để chuyển thành công ty cổ phần là
khâu quan trọng của quá trình cổ phần hóa, sau đó doanh nghiệp sẽ tiến hành niêm
yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán khi đủ điều kiện và thực hiện các đợt phát
hành thêm cổ phiếu đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa hai
hoạt động này tạo nên bước tiến đáng kể đối với sự phát triển của khu vực kinh tế
nhà nước. Nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với sự phát triển doanh
nghiệp nhà nước nói riêng và nền kinh tế nói chung người viết đã chọn đề tài hoạt
động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa cho
luận văn tốt nghiệp.
Đã có một số luận văn nghiên cứu riêng về cổ phần hóa cũng như về thị
trường chứng khoán. Vì vậy người viết chủ yếu nghiên cứu về hoạt đông phát hành
và hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp
luật điều chỉnh về vấn đề nay. Qua đó người viết đã nhận thấy một số tồn tại và đề

xuất một số giải pháp hữu ích.
Luận văn có kết cấu như sau:
 Lời mở đầu
 Nội dung:
Chương 1: Cơ sở lý luận của hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Chương 2: Quy định pháp luật về hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu
của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp đối với tình hình hoạt động phát hành,
niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
 Kết luận.

1


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

Do kiến thức của bản thân còn hạn chế nên người viết không tránh được những
sai sót trong quá trình làm luận văn. Người viết hy vọng nhận được sự thông cảm
và góp ý của thấy cô và các bạn để hoàn thiện đề tài này.
Để hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân, Người viết đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn- Ts. Lê Thị Nguyệt Châu cùng sự
giúp đỡ của bạn bè.
Trước ngưỡng cửa cuối cùng của chương trình đại học, người viết xin gửi lời
cảm ơn trân thành đến các thầy cô khoa Luật Trường đại học Cần Thơ đã truyền đạt
cho Người viết kiến thức trong bốn năm ở giảng đường đại học. Người viết cũng
xin gửi lời tri ân đến gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện và giúp đỡ người viết trong
những năm ngồi ghế nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn.


2


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH, NIÊM YẾT CỔ
PHIẾU CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HÓA
1.1 Khái niệm, vai trò của doanh nghiệp nhà nước.
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Loại hình doanh nghiệp nhà nước là loại hình doanh nghiệp xuất hiện ở tất
cả các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng dễ hiểu vì đối với quốc gia sẽ có những
ngành mà nhà nước không muốn tư nhân tham gia do có thể ảnh hưởng đến quốc
kế dân sinh của họ. Đó có thể là những ngành về an ninh quốc phòng hay khai thác
các khoáng sản đặc biệt là các khoáng sản đặc thù của quốc gia hay khoáng sản quý
hiếm… Hay cũng có thể là nhà nước phải thành lập những doanh nghiệp ở những
lĩnh vực mà tư nhân không đủ khả năng tham gia hoặc không muốn tham gia. Đó
có thể là các ngành, lĩnh vực cần nhiều vốn mà tư nhân không đảm bảo đủ điều
kiện hoặc những ngành hoạt động trong lĩnh vực công ích mà tư nhân không muốn
tham gia do lợi nhuận không hấp dẫn. Bằng cách tham gia vào nền kinh tế với vai
trò là một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước có thể thực hiện đồng thời
hai chức năng kinh tế và xã hội cũng như là góp phần quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Ngoài ra doanh nghiệp nhà nước còn góp phần tạo việc làm, tạo ra thu nhập cho
người lao động, làm giảm đói nghèo, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tuy lí do để
doanh nghiệp nhà nước tồn tại ở các quốc gia có thể không giống nhau nhưng có
thể khẳng định rằng doanh nghiệp nhà nước là loại hình doanh nghiệp không thể
thiếu ở các quốc gia.
Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam ra đời cũng khá lâu, bắt đầu từ những xí
nghiệp nhà nước được thành lập sau Cách mạng tháng Tám bằng con đường quốc

hữu hóa. Tuy nhiên, sự phát triển doanh nghiệp nhà nước ồ ạt về số lượng chỉ diễn
ra sau khi đất nước thống nhất. Tính đến năm 1993 cả nước có hơn 12000 doanh
nghiệp nhà nước.
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước
1995
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, tại kỳ họp thứ 7 ngày 20/04/1995 Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp
nhà nước đầu tiên. Với Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 đã tạo điều kiện cho
doanh nghiệp nhà nước có được sự phát triển mới để thực hiện các chức năng chính
3


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

trị, kinh tế xã hội của mình. Theo điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 quy
định thì khái niệm doanh nghiệp nhà nước được hiểu như sau:
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ
Việt Nam.”
Điều 1 Nghị định số 56/1996/NĐ-CP ngày 2 tháng 10 năm 1996 của Chính
phủ giải thích khái niệm doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích được hiểu như
sau: “Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc
DNNN là thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Nhà nước trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công
cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và

theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì
mục tiêu lợi nhuận.”
Với các quy định trong Luật doanh nghiệp nhà nước và các Nghị định hướng
dẫn đi kèm ta có thể thấy nhà nước đã có sự phân biệt giữa hai loại hình doanh
nghiệp nhà nước đó là doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Từ đó, Nhà nước có cơ chế quản lý và chính
sách phù hợp với từng loại doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh
doanh được mở rộng quyền và trách nhiệm để thực hiện hoạt động trên cùng mặt
bằng pháp lý và bình đẳng với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác,
từng bước nâng cao tính cạnh tranh của loại doanh nghiệp này. Đây cũng là những
động thái bước đầu rất quan trọng để từng bước xoá bỏ sự bao cấp đối với doanh
nghiệp Nhà nước, tiến dần tới việc đưa loại doanh nghiệp này vào hoạt động cùng
một đạo Luật doanh nghiệp thống nhất của nền kinh tế.
Mô hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được tổ chức theo điều 2 Luật
doanh nghiệp nhà nước 1995 bao gồm doanh nghiệp nhà nước tổ chức dưới hình
thức doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, doanh nghiệp thành viên của tổng công ty
và quản lý phần vốn của Nhà nước đầu tư ở các doanh nghiệp”. Như vậy, doanh

4


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

nghiệp Nhà nước chia thành doanh nghiệp độc lập và các Tổng công ty (90 và 91)1
.Với mô hình Tổng công ty, Luật doanh nghiệp Nhà nước 1995 đã bước đầu đưa ra
chủ trương xây dựng các doanh nghiệp quy mô lớn dưới hình thức các tập đoàn
kinh tế mạnh. Với việc quy định điều kiện để thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh
nghiệp Nhà nước, xác định lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực hạn chế thành lập mới doanh
nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995 cũng đã thể chế hoá định
hướng đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời sự xuất hiện

của Hội đồng quản trị trong mô hình quản lý tại các Tổng công ty và doanh nghiệp
Nhà nước độc lập có quy mô lớn là một bảo đảm cho việc thực hiện quyền chủ sở
hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp có nhiều vốn và tài sản quan trọng.
Ngoài ra, cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp Nhà nước được quy định
khá toàn diện, thể hiện sự cải cách phù hợp với cơ chế thị trường nên đã bảo đảm
tính đồng bộ, thống nhất trong quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp
nhưng vẫn mở rộng hơn quyền tự chủ của doanh nghiệp tạo sự chủ động, linh hoạt
trong hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng , Luật doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ
nhiều hạn chế như: Những quy định về giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước chưa
đủ điều kiện về tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm về tài sản để khẳng định
doanh nghiệp Nhà nước có đủ tư cách pháp nhân như quy định trong Bộ Luật dân
sự. Nói cách khác, vấn đề quyền của chủ sở hữu Nhà nước và quyền quản lý của
doanh nghiệp đối với tài sản được Nhà nước giao cho doanh nghiệp còn nhiều nội
dung không rõ ràng, khó xác định trách nhiệm trong những trường hợp thất thoát,
lãng phí tài sản tại doanh nghiệp Nhà nước. Định hướng thành lập và điều kiện, thủ
tục thành lập doanh nghiệp Nhà nước chưa cụ thể, chi tiết nên việc thành lập rườm
rà, không gắn được trách nhiệm giữa người thực hiện đầu tư với người quản lý vận
hành doanh nghiệp. Từ đó tạo cơ sở cho sự lãng phí, thất thoát nhiều tài sản của
Nhà nước. Ví dụ như những lãng phí, kém hiệu quả trong việc quyết định đầu tư
thành lập mới doanh nghiệp được thể hiện trong quá trình vận hành, quản lý doanh
nghiệp Nhà nước.
Hơn nữa, khái niệm dịch vụ, sản phẩm công ích, tiêu thức xác định doanh
nghiệp công ích quy định chưa hợp lý, mang nặng tính độc quyền của doanh nghiệp
Nhà nước với những ưu đãi có tính đặc quyền. Vì thế tình trạng chuyển doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh sang loại doanh nghiệp hoạt động công ích và thành
1

Các tổng công ty 90 và 91 được thành lập theo Quyết định số 90/TTG ngaỳ 7-3-1994 cuả Thủ tướng Chính
phủ về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và Quyết định số 91/TTG Ngày 7-3-1994 của Thủ

tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh.

5


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

lập mới doanh nghiệp hoạt động công ích diễn ra một cách tuỳ tiện nhằm được
hưởng những ưu đãi của Nhà nước đối với loại doanh nghiệp này. Tính đến tháng
11 năm 2002 cả nước có 732 doanh nghiệp công ích, chiếm 12,77% tổng số doanh
nghiệp Nhà nước.
Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995 mới chỉ quy định một số nội dung mang
tính nguyên tắc về Tổng công ty. Chưa có quy định cụ thể về việc thành lập, tổ
chức lại và giải thể Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Vì thế Tổng công ty
Nhà nước hiện tại thực chất là sự gán ghép theo quyết định hành chính các doanh
nghiệp Nhà nước có quan hệ ngang với mục đích giảm bớt đầu mối quản lý. Thẩm
quyền và quan hệ làm việc của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc, Ban
kiểm soát trong các mô hình quản lý không rõ ràng, kém hiệu quả. Chưa có quy
định cụ thể, có hiệu lực về cơ chế trách nhiệm của bộ máy điều hành quản lý doanh
nghiệp Nhà nước và của đại diện chủ sở hữu. Đây cũng là cơ sở của việc quản lý
kém hiệu quả về kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước và cũng là nguyên nhân
của tệ nạn tham ô, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức liên
quan đến tài sản Nhà nước. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước
chưa bình đẳng đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.2
1.1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước
2003
Từ những tồn tại của Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 đã dẫn đến sự ra đời
của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2003. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 đã đánh dấu một bước phát triển mới
của loại hình doanh nghiệp nhà nước. Góp phần nâng cao vai trò của doanh nghiệp

nhà nước đối với các thành phần khác trong nền kinh tế. Theo đó, khái niệm doanh
nghiệp nhà nước cũng có sự thay đổi. Điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước 2003
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.” Qua đó, ta thấy khái niệm doanh
nghiệp Nhà nước đã mở rộng hơn, bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ và các doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần, vốn góp chi
phối.
Cùng với sự thay đổi về khái niệm Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 còn
một số điểm mới:

2

Luật doanh nghiệp nhà nước và đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
[ ngày truy cập 16/02/2011]

6


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

Thứ nhất, Doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng
và phù hợp với các mô hình doanh nghiệp cơ bản thường có trong nền kinh tế thị
trường như công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Phạm
vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước (sửa đổi) chủ yếu đối với các công
ty Nhà nước và quan hệ giữa chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước
sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà
nước. Như vậy, việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp
Nhà nước không phải là công ty Nhà nước sẽ áp dụng Luật doanh nghiệp
12/6/1999.

Công ty Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ
được tổ chức dưới hai hình thức công ty Nhà nước độc lập và Tổng công ty Nhà
nước. Trong đó, “tổng công ty Nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự
đầu tư, góp vốn với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức
và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế,
công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc
một số chuyên ngành kinh tế- kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh
doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty” (Điều
46 Luật doanh nghiệp Nhà nước 26/11/2003). Có 3 loại hình Tổng công ty Nhà
nước là:
+ Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập.
+ Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập.
+ Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước.
Hai loại Tổng công ty đầu là cơ sở của các Tập đoàn kinh tế mạnh mà Nhà nước ta
hướng tới xây dựng.
Thứ hai, bỏ loại doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích, chuyển từ quản
lý doanh nghiệp Nhà nước độc quyền hoạt động công ích sang quản lý hoạt động
công ích trên cơ sở mở rộng cơ chế đấu thầu hoạt động công ích. Xác định rõ mục
tiêu hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp Nhà nước là hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, việc thành lập công ty Nhà nước, quyết định thành lập mới công ty
Nhà nước đồng thời là quyết định dự án đầu tư thành lập công ty Nhà nước. Công
ty Nhà nước mới được thành lập là chủ đầu tư đối với dự án này. Những quy định
mới trong thủ tục thành lập có mục đích khắc phục những bất cập của Luật doanh
nghiệp Nhà nước cũ dẫn đến sự lãng phí, thất thoát và vô trách nhiệm trong quản lý
tài sản và vốn của Nhà nước như trên đã đề cập.
Thứ tư, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước nói chung và
do Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện
7



Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

đối với công ty Nhà nước. Tại công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị, Hội đồng
quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu Nhà nước và có quyền tuyển chọn
ký hợp đồng hoặc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và quyết định mức lương đối
với Tổng giám đốc.
Thứ năm, dành một chương trong Luật để quy định các hình thức chuyển đổi
sở hữu đối với công ty Nhà nước. Lần đầu tiên những vấn đề liên quan đến thay đổi
quyền sở hữu tài sản Nhà nước đã được Luật hoá với những quy định có tính
nguyên tắc về hình thức, mục tiêu và thẩm quyền quyết định khi thực hiện.3
Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 vẫn không giải quyết được
nhiều vấn đề của doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn
thua lỗ. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước cho thấy doanh nghiệp nhà nước làm ăn
rất kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 đơn vị được kiểm toán kinh
doanh thua lỗ trong năm 2004; 11/19 đơn vị có lỗ lũy kế với tổng lỗ luỹ kế đến hết
2004 là 1.058 tỉ đồng. Tỉ suất lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp được kiểm
toán rất thấp (từ 0,18% đến 0,8%) trong đó có các tập đoàn có vẻ rất mạnh như
Công nghiệp tàu thuỷ 0,42%, Dệt may 0,8%...4
1.1.1.3 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp 2005.
Với những hạn chế nêu trên của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật
doanh nghiệp 2005 đã ra đời. Đánh dấu một bước phát triển mới đối với các loại
hình doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2005 đã bỏ hình thức doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước và đưa các loại hình doanh nghiệp về một sân chơi chung. Từ đây tạo
ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà cụ thể là giữa nhà nước và tư nhân.
Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo ra động lực phát triển hơn nữa cho các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Như Ts.Đặng Văn Thanh - phó chủ
nhiệm Ủy ban Kinh tế và ngân sách QH nói: “Tôi cho rằng Luật doanh nghiệp ra
đời sẽ là đòn bẩy, thúc bách các doanh nghiệp nhà nước phải nhanh chóng sắp xếp
kinh doanh. Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp tư nhân, thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh cũng phải đổi mới các phương thức kinh doanh sao cho phù hợp nhất.

Bởi một khi áp Luật chung cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng, tính cạnh tranh sẽ rất quyết liệt. Do đó, muốn tồn tại thì

3

Doanh nghiệp nhà nước và đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
[Truy cập ngày 16/02/2011]
4
Nguyễn Quang A: Vì sao doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả?
[ Truy cập ngày
16/02/2011]

8


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

không còn đường nào khác, các doanh nghiệp phải tự đổi mới để từ đó nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.5
Theo điều 2 Luật doanh nghiệp 2005 quy định đối tượng áp dụng của Luật
gồm:
(i) Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
(ii) Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động của các doanh nghiệp.
Như vậy, không còn sự phân biệt thành phần kinh tế tư nhân và nhà nước nữa,
không còn Luật doanh nghiệp nhà nước nữa mà chỉ có một Luật doanh nghiệp 2005
thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp. Điều này cũng được quy định rõ tại điều
169 Luật doanh nghiệp 2005 quy định về việc thành lập doanh nghiệp nhà nước
“Doanh nghiệp do Nhà nước thành lập kể từ ngày Luật này có hiệu lực phải được
đăng ký, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật này và pháp luật có

liên quan.” Nội dung này của Luật Doanh nghiệp phù hợp với những điều ước mà
nước ta đã cam kết trong các thỏa thuận đa phương và song phương, nhất là các
nguyên tắc cơ bản như “Đối xử quốc gia” và “Tối huệ quốc”. Đồng thời, phải đón
trước được xu thế hội nhập, góp phần xây dựng và tiếp tục hoàn thiện môi trường
kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, đủ mức hấp dẫn và có sức
cạnh tranh so với khu vực, là một bước tiến quan trọng trong lộ trình hội nhập
WTO.
Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2005, định nghĩa doanh nghiệp nhà nước
cũng có sự thay đổi. Theo khoản 22 điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 thì “Doanh
nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.”.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được nêu tại điều 8 và 9 Luật doanh
nghiệp 2005 còn có điều 10 nêu quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có sản xuất,
cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích. Cụ thể là là các quyền và nghĩa vụ:
i) Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 8, Điều 9 và các quy định khác có
liên quan của Luật này.
ii) Được hạch toán và bù đắp chi phí theo giá thực hiện thầu hoặc thu phí sử
dụng dịch vụ theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
iii) Được bảo đảm thời hạn sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thích hợp để
thu hồi vốn đầu tư và có lãi hợp lý.

5

Xuân Toàn: Không chuyển đổi nhanh doanh nghiệp nhà nước có thể đổ vở hàng loạt.
/>[Truy cập ngày 16/02/2011]

9


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước


iv) Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lượng, đúng chất lượng và
thời hạn đã cam kết theo giá hoặc phí do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định.
v) Bảo đảm các điều kiện công bằng và thuận lợi như nhau cho mọi đối tượng
khách hàng.
vi) Chịu trách nhiệm trước pháp luật và khách hàng về số lượng, chất lượng,
điều kiện cung ứng và giá, phí sản phẩm, dịch vụ cung ứng.
vii) Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo Luật doanh nghiệp 2005 thì không có doanh nghiệp công ích
mà chỉ có doanh nghiệp có sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích.
Điều này cũng có nghĩa là mọi loại hình doanh nghiệp điều có thể tham gia sản
xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích với các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của Luật doanh nghiệp 2005.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh cũng chịu sự
điều chỉnh của Luật này và các quy đinh riêng của chính phủ.
Đồng thời, để phù hợp với các loại hình doanh nghiệp được quy định trong
Luật doanh nghiệp 2005, tại điều 166 Luật này có quy định về việc chuyển đổi
công ty nhà nước :
“ Thực hiện theo lộ trình chuyển đổi hằng năm, nhưng chậm nhất trong thời
hạn bốn năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực, các công ty nhà nước thành lập theo
quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 phải chuyển đổi thành công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật này. Chính phủ
quy định và hướng dẫn trình tự, thủ tục chuyển đổi.
Trong thời hạn chuyển đổi, những quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm
2003 được tiếp tục áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước nếu Luật này không có
quy định.”
Riêng đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm 100% vốn thì việc
chuyển công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ là bước đệm để
chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Mô hình công ty cổ phần là
mô hình doanh nghiệp mà Đảng và Chính phủ đang hướng tới cho các doanh

nghiệp nhà nước. Sở dĩ phải chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn mà cụ thể là
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu là vì việc
chuyển đổi sang công ty cổ phần tốn nhiều thời gian và còn nhiều điều bất cập (sẽ
nói ở phần sau) trong khi chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn sau đó chuyển
sang công ty cổ phần thì dễ dàng hơn. Hơn nữa, thời hạn 4 năm (chính xác là đến
ngày 1 tháng 7 năm 2010) mà Luật doanh nghiệp đưa ra không đủ để chuyển tất cả
10


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

các doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn thành
công ty cổ phần trong khi Luật lại đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải có một
“thân phận” rõ ràng để chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp chung. Và đến
thời điểm 1/7/2010 theo thống kê có khoảng 1.500 cần chuyển sang Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Sau ngày này coi như các doanh nghiệp đã bình
đẳng trên cùng một sân chơi. Tất cả sẽ vận động theo cơ chế thị trường.
Một điểm tiến bộ đáng lưu ý nữa của Luật doanh nghiệp 2005 là việc quy
định cụ thể vai trò chủ sở hữu của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể
tại điều 168 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: thực hiện quyền chủ sở hữu vốn của
Nhà nước tại doanh nghiệp
(1) Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp theo
các nguyên tắc sau đây:
a) Thực hiện quyền chủ sở hữu với vai trò là người đầu tư vốn;
b) Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước;
c) Tách biệt chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý
hành chính nhà nước;
d) Tách biệt thực hiện quyền chủ sở hữu đối với quyền chủ động kinh doanh
của doanh nghiệp; tôn trọng quyền kinh doanh của doanh nghiệp;
đ) Thực hiện thống nhất và tập trung các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu về

vốn.
(2) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước;
cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước; cách thức và tiêu chí đánh giá
hiệu quả và thực trạng bảo toàn, phát triển vốn nhà nước; cơ chế phối hợp, kiểm tra
và đánh giá đối với cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước; các chủ trương, biện
pháp sắp xếp, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
có vốn nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật.
(3) Định kỳ hằng năm, Chính phủ trình Quốc hội báo cáo tổng hợp về thực trạng
kinh doanh vốn sở hữu nhà nước, thực trạng bảo toàn và phát triển giá trị vốn đầu
tư và tài sản sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.
Như vậy nhà nước sẽ có vị thế ngang bằng các chủ sở hữu khác và chỉ được
can thiệp vào doanh nghiệp trong phạm vi số vốn và theo đúng các quy định của
Luật và điều lệ công ty. Hay nói cách khác nhà nước sở hữu phần vốn góp vào
doanh nghiệp chứ không phải sở hữu doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp sẽ hoạt
động theo quy định của pháp luật và quy Luật thị trường. Sự can thiệp của nhà
nước vào doanh nghiệp chỉ có thể được thực hiện thông qua người đại diện phần
vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Sẽ không có quyết định hành chính nào của
11


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

người hay đơn vị đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp được ban hành nhằm điều
chỉnh hoạt động của doanh nghiệp.
Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước đã có sự thay đổi về mô hình, cách thức quản
lý, sự can thiệp của nhà nước… qua các thời kỳ qua các thời kỳ theo hướng ngày
càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhà nước đã đề ra. Với Luật doanh nghiệp 2005, cách hiểu về doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã có nhiều nét tương đồng với thế giới, qua đó góp
phần thu hẹp sự khác biệt về loại hình doanh nghiệp nhà nước ở nước ta so với thế

giới.
1.1.2 Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Như đã nói ở trên, doanh nghiệp nhà nước có vai trò hết sức quan trọng
trong nền kinh tế. Vì vậy nó là loại hình doanh nghiệp mà hầu hết các quốc gia đều
có tuy vị trí, vai trò có khác nhau. Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước có vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Doanh
nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường. Đây là yêu cầu có tính quy Luật chung của sự phát triển kinh tế
xã hội, vì bản thân nền kinh tế thị trường chứa đựng những khuyết tật mà muốn
khắc phục nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước. Vai trò của của doanh nghiệp
nhà nước bao gồm vai trò về mặt chính trị, kinh tế, xã hội.
1.1.2.1 Về mặt chính trị
Về mặt chính trị, doanh nghiệp nhà nước là công cụ đảm bảo sự quản lý vĩ
mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Thông qua doanh nghiệp nhà nước chính phủ
có thể kích thích một ngành hoặc một nhóm ngành nào đó phát triển bằng cách tăng
cường đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh các ngành đó. Khi các sản phẩm,
dịch vụ thuộc ngành mà nhà nước muốn kích thích phát triển thu hút được nhu cầu
thị trường, đem lại lợi nhuận cao thì các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác sẽ đầu tư và phát triển ngành, nhóm ngành đó. Như vậy mục tiêu của nhà
nước đã được thực hiện. Ngoài ra doanh nghiệp nhà nước còn tham gia bình ổn giá
cả. Đó là khi có sự tăng giá những mặt hàng mà chính phủ muốn kiểm soát giá. Để
bình ổn giá, thông qua doanh nghiệp nhà nước chính phủ sẽ kiềm không cho giá
các mặt hàng đó tăng lên khi đó sẽ đảm bảo được sự ổn định của thị trường. Hơn
nữa việc phát triển doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp cho nền kinh tế của chúng ta độc
lập hơn. Chúng ta sẽ không phải phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài đặc biệt là các
mặt hàng thiết yếu. Vì nếu không tự chủ trong sản xuất các mặt hàng thiết yếu và
phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài thì tình hình kinh tế xã hội của chúng ta sẽ dễ
12



Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

bị ảnh hưởng khi nước ngoài cắt giảm nguồn xuất khẩu từ đó có thể dẫn đến những
bất ổn về chính trị hoặc điều đó có thể đặt ta vào vị thế yếu hơn trước đối tác.
Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước còn đảm nhận một nhiệm vụ chính trị quan trong
là xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng cho an ninh quốc phòng. Đây là những doanh
nghiệp hết sức quan trọng đối với quốc gia. Chúng đảm bảo cho chúng ta có một
nền quốc phòng vững chắc. Với vai trò đó không thể giao cho các thành phần kinh
tế khác sở hữu loại doanh nghiệp này. Mà chỉ có nhà nước với các quyền năng và
chức trách của mình mới có thể sở hữu các doanh nghiệp đó.
1.1.2.2 Về mặt xã hội.
Về mặt xã hội, doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo việc làm, tạo thu nhập
cho người lao động. Với một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước thì số việc làm
tạo ra là một đóng góp lớn cho nhu cầu việc làm của xã hội. Và tại các doanh
nghiệp nhà nước các chế độ về quyền lợi của người lao động được đảm bảo tốt đặc
biệt là có sự hoạt động mạnh của tổ chức công đoàn. Ngoài ra, bằng cách thành lập
mới các doanh nghiệp nhà nước ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, nhà nước đã vực dậy tiềm năng kinh tế của vùng đó và qua đó cũng góp phần
cải thiện đời sống kinh tế xã hội của vùng chẳng hạn như nhiều lao động sẽ có việc
làm (bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp), hệ thống cơ sở hạ tầng sẽ
phát triển theo sự phát triển của các dự án, công trình. Và đặc biệt một trong những
chức năng xã hội của doanh nghiệp nhà nước là chức năng xây dựng cơ sở hạ tầng,
các công trình phúc lợi xã hội, các công trình đòi hỏi vốn lớn nhưng thu hồi vốn
chậm mà các thành phần kinh tế khác không muốn tham gia. Đó có thể là đường sá,
cầu cống, bệnh viện, trường học…Doanh nghiệp nhà nước còn đi đầu trong áp
dụng khoa học công nghệ từ đó thúc đẩy việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất trong các ngành, lĩnh vực liên quan.
1.1.2.3 Về mặt kinh tế.
Về kinh tế, doanh nghiệp nhà nước đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách đồng

thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Đặc biệt đối với một số lĩnh
vực như khai khoáng doanh nghiệp nhà nước còn đảm bảo khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên của quốc gia. Nhiều doanh nghiệp nhà nước mạnh đã đưa sản
phẩm của Việt Nam ra thương trường quốc tế qua đó góp phần làm tăng sức cạnh
tranh của các mặt hàng của chúng ta so với thế giới từ đó nâng cao địa vị của chúng
ta trên thương trường quốc tế. Với vai trò đảm bảo nhu cầu trong nước, tăng cường
cho xuất khẩu doanh nghiệp nhà nước ngày càng trở thành một thành phần kinh tế
quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Hơn nữa với tiềm lực kinh tế mạnh
doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư, phát triển các ngành đòi hỏi vốn lớn như công
13


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

nghiệp cơ kí, tàu thủy, dầu hỏa, …qua đó tạo ra thu nhập cao cho nhà nước cũng
như thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, với vai trò chủ đạo doanh nghiệp nhà nước có tầm quan trọng lớn đối
với nền kinh tế đặc biệt là với nền kinh tế thị trường có sự định hướng Xã hội chủ
nghĩa của chúng ta. Tuy nhà nước ngày càng tách biệt chức năng kinh tế và xã hội
của doanh nghiệp nhà nước nhưng không thể phủ nhận rằng qua chức năng kinh tế
nhà nước cũng đã thực hiện chức năng xã hội của doanh nghiệp nhà nước. Tuy còn
nhiều khó khăn nhưng doanh nghiệp nhà nước sẽ là đầu tàu, động lực lớn để đưa
con tàu kinh tế Việt Nam vượt đại dương sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
1.2 Sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vào thị trường chứng khoán.
1.2.1 Thị trường chứng khoán (TTCK)
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán,
chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có
thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến
việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển
hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange). Tại Sở

giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được tập trung tại một địa điểm;
các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình
thành nên giá giao dịch. TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the
counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các
công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng
điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
Với Việt Nam, sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính
phủ đã ký ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK chính
thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã
do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/1996/NĐ-CP ngày
28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi
vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Qua 7 năm
với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao
dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định
số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán
Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương.
14


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức ra đời
vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch
chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN
nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng). Sau 4 năm hoạt động Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội được chuyển đổi, tổ chức lại theo Quyết định số

01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trở thành Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội).
Sự ra đời của thị trường chứng khoán và hai sở giao dịch đã tạo ra nhiều cơ
hội cho các doanh nghiệp huy động vốn và tăng cường quy mô sản xuất qua đó góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam theo các nguyên tắc:
i) Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của
tổ chức, cá nhân.
ii) Công bằng, công khai, minh bạch.
iii) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
iv) Tự chịu trách nhiệm về rủi ro.
v) Tuân thủ quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc đã nêu, cùng với chính sách khuyến khích phát triển thị trường
chứng khoán là động lực lớn để thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Tuy
nhiên, không phải loại hình doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia vào thị trường
chứng khoán được mà chỉ có công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mới có
quyền tham gia. Trong đó, chỉ có công ty cổ phần mới có thể phát hành cổ phiếu,
một hình thức huy động vốn quan trong cho công ty.
1.2.2 Sự cần thiết của việc Doanh nghiệp nhà nước tham gia vào thị trường
chứng khoán.
Trước hết cần biết rằng, để tham gia vào thị trường chứng khoán thì doanh
nghiệp nhà nước phải là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Tuy
nhiên, mô hình công ty cổ phần là phù hợp nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp
nhà nước. Với mô hình này doanh nghiệp nhà nước có thể tham gia vào thị trường
chứng khoán với nhiều loại chứng khoán đặc biệt là cổ phiếu. Điều này đem lại cho
nhà nước và bản thân doanh nghiệp nhiều thuận lợi:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay có số lượng khá lớn trong
đó có nhiều doanh nghiệp có quy mô vốn lớn. Vì vây việc đảm bảo vốn cho các
doanh nghiệp kinh doanh này là một vấn đề khó khăn cho nhà nước. Hơn nữa
không phải doanh nghiệp nào cũng làm ăn có hiệu quả, các doanh nghiệp làm ăn

thua lỗ đồng nghĩa với việc nhà nước mất tiền. Trong hoàn cảnh đó thị trường
15


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

chứng khoán là một giải pháp tốt cho vấn đề. Khi tham gia vào thị trường chứng
khoán doanh nghiệp nhà nước có thể huy động vốn từ các thành phần kinh tế khác
và từ nhân dân. Đây sẽ là một nguồn vốn khổng lồ mà thị trường chứng khoán
mang lại cho doanh nghiệp qua đó làm giảm gánh nặng về vốn cho nhà nước. Hơn
nữa khi có được nguồn vốn hùng hậu doanh nghiệp sẽ có điều kiện thực hiện các
dự án, phát triển khoa học công nghệ, tăng cường đội ngũ cán bộ, nhân viên có
trình độ cao từ đó kinh doanh có hiệu quả hơn. Thêm nữa khi doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả xảy ra thua lỗ thì nhà nước cũng được chia sẽ phần thua lỗ đó. Còn
nếu doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì nhà nước ngoài có thêm nguồn thu từ doanh
nghiệp, nhà nước còn có thêm nguồn thu từ các loại thuế.
Thứ hai, ngoài vấn đề về vốn, sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vào thị
trường chứng khoán còn giúp cải thiện chất lượng quản lý doanh nghiệp, đưa doanh
nghiệp hoạt động đúng với quy Luật thị trường. Tại sao như vậy? Vì khi doanh
nghiệp gia nhập thị trường chứng khoán có nghĩa là doanh nghiệp phải thực hiện
công bố thông tin theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Khi đã công bố
thông tin tức là doanh nghiệp đã chịu sự kiểm tra, giám sát của cổ đông, của nhà
đầu tư có quan tâm. Điều này buộc doanh nghiệp phải cẩn trọng trong kinh doanh
để không làm ảnh hưởng đến uy tín và lòng tin của nhà đầu tư đối với doanh
nghiệp. Và cũng vì chịu sự giám sát của nhà đầu tư nên mọi quyết định của người
quản lý doanh nghiệp đều phải minh bạch, phải xuất phát từ lợi ích của doanh
nghiệp điều này sẽ hạn chế tình trạng “công tư bất phân” hoặc các hành vi trục lợi,
tham ô của những người quản lý doanh nghiệp nhà nước. Đây vốn là một vấn đề
nhức nhối mà nhà nước đang cố tìm cách giải quyết. Đồng thời doanh nghiệp có thể
thu hút những cổ đông có trình độ quản lý cao vào bộ máy quản lý doanh nghiệp

thay cho những người quản lý yếu kém.
Thứ ba, việc đưa doanh nghiệp ra thị trường chứng khoán đồng nghĩa với việc
chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và kinh
doanh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước không thể thực hiện
bao cấp, cung cấp vốn hay các ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước như trước nữa vì
nhà nước cũng chỉ là một trong số các chủ sở hữu vốn doanh nghiệp. Doanh nghiệp
sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đây cũng là cách thực hiện cam kết bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà
chúng ta đã cam kết với các đối tác khi gia nhập WTO.
Ngoài ra việc gia nhập thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp nhà
nước sẽ đem lại cho thị trường chứng khoán nhiều hàng hoá. Càng nhiều hàng hóa
thị trường chứng khoán sẽ càng sôi động hơn, nhà đầu tư sẽ có nhiều cơ hội lựa
16


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

chọn hơn. Từ đó thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Qua đó đồng
vốn trong xã hội sẽ được tận dụng tốt hơn
1.3 Khái niệm, vai trò của hoạt động phát hành chứng khoán
1.3.1 Khái niệm hoạt động phát hành chứng khoán
Theo quy định tại khoản 1 điều 6 Luật chứng khoán đã sửa đổi, bổ sung sẽ
có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2011 thì chứng khoán là bằng chứng xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ
chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi
sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán,
hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;

d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định.
Trong phạm vi luận văn người viết chỉ nghiên cứu hoạt động phát hành đối
với cổ phiếu . Cổ phiếu là loại chứng khoán chủ yếu trên thị trường chứng khoán.
Theo quy định tại khoản 2 điều 6 Luật chứng khoán thì “Cổ phiếu là loại chứng
khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn
cổ phần của tổ chức phát hành.” Cổ phiếu sẽ mang lại cho người nắm giữ nó những
quyền nhất định như là quyền biểu quyết đối với các vấn đề quan trọng của công ty,
quyền hưởng cổ tức và các quyền khác tùy theo loại cổ phần mà họ nắm giữ.
Vậy làm sao để nhà đầu tư có thể nắm giữ cổ phiếu của một công ty? Điều đầu
tiên là công ty phải phát hành cổ phiếu. Hoạt động phát hành cổ phiếu thực chất là
hoạt động chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần đến nhà đầu tư. Tuy nhiên,
không phải mọi đối tượng đều được phát hành cổ phiếu mà chỉ những chủ thể phát
hành mới có được quyền này. Theo quy định tại khoản 12 điều 6 Luật chứng khoán
sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì hoạt động phát hành hay chào bán chứng khoán
được chia làm hai phương thức là chào bán chứng khoán ra công chúng và chào
bán chứng khoán riêng lẻ.
Đối với tổ chức phát hành, sự phân biệt này xuất phát từ điều kiện, nhu cầu,
mục đích khác nhau. Chẳng hạn, công ty lựa chọn phương thức phát hành riêng lẻ
bởi lẽ do một số nguyên nhân sau:
- Công ty không đủ tiêu chuẩn để phát hành ra công chúng.
- Số lượng vốn cần huy động thấp. Do đó nếu phát hành với hình thức ra công
chúng thì chi phí huy động trên mỗi đồng vốn trở nên quá cao.

17


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

- Công ty phát hành cổ phiếu nhằm duy trì các mối quan hệ kinh doanh. Ví dụ
như: phát hành cổ phiếu cho nhà cung cấp hay tiêu thụ sản phẩm.

- Phát hành cho cán bộ công nhân viên chức của công ty.
Trong khi đó, phát hành ra công chúng lại có những lợi thế khác như:
- Có tính khả mại cao hơn và các cổ đông hay các nhà đầu tư vào chứng khoán
của công ty có thể chuyển góp vốn thành tiền bất cứ lúc nào.
- Có lợi thế rất lớn trong việc quảng bá tên tuổi.
- Giới kinh doanh đều coi các công ty được niêm yết trên thị trường tập trung
là những công ty có sự ổn định nhất định. Việc này sẽ tạo thuận lợi rất lớn
cho công ty trong quá trình tìm bạn hàng và ký kết hợp đồng.
- Chứng khoán được phát hành riêng lẻ khó có thể phản ánh được mối quan hệ
cung cầu trên thị trường do số lượng người mua rất hạn chế. Việc phát hành
ra công chúng với sự tham gia của hàng nghìn nhà đầu tư giúp công ty bán
được chứng khoán của mình với mức giá hợp lý.
Tuy nhiên, tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một
chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát riêng theo
quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về ý nghĩa, việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để
xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có
chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng
đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng
là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu
quả.
Về hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng ta có hình thức chào bán
chứng khoán lần đầu ra công chúng, chào bán thêm cổ phần hoặc quyền mua cổ
phần ra công chúng và các hình thức khác. Trong đó phát hành lần đầu ra công
chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán
rộng rãi cho công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được bán lần đầu cho công chúng
nhằm tăng vốn thì đó là IPO sơ cấp, còn khi cổ phần được bán lần đầu từ số cổ
phần hiện hữu thì đó là IPO thứ cấp.
Như vậy, hoạt động phát hành chứng khoán là việc chào bán chứng khoán
của tổ chức phát hành đến nhà đầu tư với hai hình thức chào bán ra công chúng và

chào bán riêng lẻ.
1.3.2 Vai trò của hoạt động phát hành chứng khoán.
Đối với doanh nghiệp, phát hành chứng khoán là một kênh huy động vốn hiệu
quả. Đặc biệt là loại chứng khoán phát hành là cổ phiếu. Vì khi đó doanh nghiệp sẽ
18


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

huy động được một lượng vốn phục vụ cho các mục đích kinh doanh nhưng không
phải lo trả lãi định kỳ như các khoản vay tại các tổ chức tín dụng. Nếu kinh doanh
thua lỗ doanh nghiệp cũng không cần phải trả lại vốn. Ngoài ra, khi phát hành cổ
phiếu đặc biệt là phát hành ra công chúng thì danh tiếng của doanh nghiệp sẽ được
các nhà đầu tư biết đến và quan tâm. Điều này góp phần nâng cao uy tín của doanh
nghiệp. Hơn nữa khi phát hành chứng khoán doanh nghiệp phải công bố thông tin
theo quy định của pháp luật nên sẽ tạo áp Luật để doanh nghiệp nghiêm túc, minh
bạch hơn trong kinh doanh nhằm lấy được lòng tin qua đó nhận được quan tâm của
nhà đầu tư và như vậy mới đạt mục tiêu thu hút vốn của doanh nghiệp.
Đối với nhà nước, việc phát hành chứng khoán nói chung và cổ phiếu nói
riêng của doanh nghiệp sẽ giúp nhà nước dễ quản lý nền kinh tế hơn. Vì khi phát
hành buộc các doanh nghiệp phải công bố thông tin qua đó nhà nước có thể giám
sát việc kinh doanh của các doanh nghiệp có đúng pháp luật, chính sách. Hơn nữa
dựa vào biến động của thị trường chứng khoán nhà nước sẽ nắm đươc xu hướng thị
trường và tiến hành điều tiết nền kinh tế.
Đối với thị trường chứng khoán và nhà đầu tư, việc tham gia phát hành chứng
khoán của doanh nghiệp sẽ mang lại nguồn hàng hóa cho thị trường chứng khoán
qua đó tăng sự lựa chon cho nhà đầu tư. Thị trường càng nhiều hàng hóa càng sôi
động thì sẽ càng hấp dẫn nhiều nhà đầu tư. Và khi đó nó sẽ là một kênh huy động
vốn quan trọng biến đồng tiền nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn phát
triển kinh tế, phát triển đất nước.

Tuy nhiên, như đã đề cập để có thể phát hành cổ phiếu và tham gia vào thị
trương chứng khoán thì doanh nghiệp nhà nước phải chuyển thành công ty cổ phần.
Đây cũng là cách giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra chuyển sang
công ty cổ phần còn nhằm thực hiện cam kết tự do hóa thị trường, cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế với Quỹ tiền tệ thế giới IMF, tổ chức thương mại
quốc tế WTO. Với những mục tiêu đó chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước đã ra đời.
1.3.3 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước thực chất là một
khâu của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy thực hiện
phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước cũng nhằm thực hiện việc cổ phần
hóa với mục đích cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Vậy cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước là gì? Vai trò của nó đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa như thế nào?
19


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước

 Hoàn cảnh lịch sử
Việc đổi mới tư duy quản lý kinh tế bắt đầu diễn ra mạnh sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12 năm 1986.
Một trong những thay đổi tư duy quản lý đó là cải cách khu vực doanh nghiệp nhà
nước, bao gồm tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, yêu cầu phải chuyển sang
hình thức kinh doanh hạch toán kinh tế, lời ăn lỗ chịu.
Để có thể tiến hành cải cách kinh tế, bắt đầu từ nửa sau của thập kỷ 1990,
Việt Nam đã đề nghị sự giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật của các thể chế tài chính
toàn cầu như Nhóm Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát
triển châu Á và các nhà tài trợ mà hầu hết là những nước có nền kinh tế thị trường
phát triển. Một trong những điều kiện của các khoản vay là phải tiến hành một số

cải cách theo đề nghị của những tổ chức và nhà tài trợ - những cải cách mà vào thời
điểm đầu thập niên 1990 Việt Nam còn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết và do đó
rất miễn cưỡng thực hiện. Trong số những cải cách miễn cưỡng này có tư nhân hóa
các doanh nghiệp nhà nước. Để tránh gây ra mâu thuẫn sâu sắc với bộ phận cán bộ
và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, Chính phủ đã
quyết định sẽ không bán đứt các doanh nghiệp của mình cho các cá nhân, thay vì
đó tiến hành chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần. Tài
sản của doanh nghiệp được chia thành các cổ phần bán cho cán bộ công nhân trong
doanh nghiệp và phần còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh nghiệp, phần cổ
phần do nhà nước sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới 100%. Đó là tiền đề của quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
 Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp là chuyển doanh nghiệp từ loại hình doanh
nghiệp khác không phải là công ty cổ phần sang công ty cổ phần. Chẳng hạn, như
công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển sang công ty cổ phần sau khi được sự nhất trí
của các thành viên và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Bản chất của cổ phần hóa là chuyển đổi cơ cấu sở hữu, quan hệ giữa các chủ sở hữu
doanh nghiệp. Thể hiện về mặt pháp lý của cổ phần hóa là sự chuyển đổi hình thức
pháp lý của doanh nghiệp và các quy định điều chỉnh của pháp luật.
Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước (đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (đa sở hữu). Sự chuyển
đổi này được thể hiện ở hai mặt căn bản sau:
Thứ nhất, chuyển hóa quyền sở hữu từ đơn sở hữu sang đa sở hữu. Điều này
kéo theo sự thay đổi quyền quản lý, quyền sử dụng và tạo nên sự gắn kết chặt chẽ
giữa ba quyền liên quan đến tài sản của doanh nghiệp.
20


Đề tài: Hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước


Thứ hai, thay đổi quy chế hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ hoàn toàn bị nhà
nước chi phối sang tự chủ kinh doanh theo quy định của pháp luật.6
 Vai trò của cổ phần hóa
Theo PGS.Ts Tô Huy Rứa: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một
trong những hướng quan trọng của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Muốn
vậy, phải đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước. Theo hướng đó, sau nhiều
năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một
phương thức có hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị
quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ.”7
Như đã nói cổ phần hóa là chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần
bằng các hình thức theo quy định tại điều 4 Nghị định 109/2007 quy định về việc
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần gồm:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ
phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn
bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Có thể nhận thấy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có một sốt vai trò sau:
Thứ nhất, với việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần đã làm thay
đổi cơ bản quan hệ giữa nhà nước và công ty. Từ chỗ là chủ sở hữu duy nhất nay nhà
nước trở thành cổ đông của công ty, thực hiện quyền sở hữu của mình qua vai trò của
một cổ đông. Doanh nghiệp được tự chủ trong các quyết định kinh doanh theo quy

Luật thị trường. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tiềm năng, thế mạnh
của mình đồng thời tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế
6

PGS.TS. Lê Văn Tâm: Cổ phần hóa và quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa; tr9,10. Nxb
Chính trị quốc gia, 2004
7
PGS.Ts. Tô Huy Rứa: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- dưới góc nhìn kinh tế- xã hội bền vững
TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 1 (122) NĂM 2007

21


×