Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại một số vấn đề KHI áp DỤNG HÌNH PHẠT đối với NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM tội THEO LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 - 2013

Đề tài:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHI ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH

Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Thu Hương

Sinh viên thực hiện:
Ngô Quốc Thành
MSSV: 5095464
Lớp: Luật Thương mại 3 – K35

Cần Thơ, tháng 5 năm 2013


Những vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam
hiện hành

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………........
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………....
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Những vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam
hiện hành

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Những vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam
hiện hành

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................2
5. Kết cấu đề tài ..........................................................................................................2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH PHẠT VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI ................................................................................................................4

1.1 Vài nét về hình phạt............................................................................................4
1.1.1 Khái niệm hình phạt.....................................................................................4
1.1.2 Đặc điểm của hình phạt ...............................................................................5
1.1.3 Mục đích của hình phạt................................................................................8
1.1.4 Các loại hình phạt.........................................................................................10
1.2 Khái quát về người chưa thành niên phạm tội ................................................11
1.2.1 Khái niệm người chưa thành niên ................................................................11
1.2.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội .................................................12
1.2.3 Đặc điểm tâm – sinh lý của người chưa thành niên phạm tội ......................16
1.2.3.1 Đặc điểm về sinh lý của người chưa thành niên phạm tội ....................16
1.2.3.2 Đặc điểm về tâm lý của người chưa thành niên phạm tội .....................17
1.4 Lịch sử phát triển của chế định người chưa thành niên phạm tội ở Việt
Nam.......................................................................................................................18
1.5 Quy định về người chưa thành niên phạm tội ở một số nước trên thế giới ..25

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Những vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam
hiện hành

CHƯƠNG 2
HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH............................................30
2.1 Nguyên tắc xử lý khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội...............................................................................................................................30
2.2 Các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. .........36
2.2.1 Hình phạt cảnh cáo .....................................................................................36

2.2.2 Hình phạt tiền..............................................................................................37
2.2.3 Hình phạt cải tạo không giam giữ ...............................................................39
2.2.4 Hình phạt tù có thời hạn ..............................................................................41
2.3 Vấn đề tổng hợp hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên pham
nhiều tội ....................................................................................................................43
2.4 Vấn đề giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm
tội ............................................................................................................................48
2.5. Hậu quả pháp lý của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội ....................................................................................................................50
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...............54
3.1 Tình trạng chưa thành niên phạm tội ngày càng gia tăng.............................54
3.2 Một số bất cập về việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội ....................................................................................................................58
3.2.1 Vấn đề áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa được Bộ luật Hình sự hiện hành quy
định ............................................................................................................................58
3.2.2 Hình phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội tại Điều 74
Bộ luật Hình sự hiện hành vào thực tiễn còn nhiều điều phải bàn luận ....................61
3.2.3 Sự bất lợi đối với người chưa thành niên phạm tội khi Bộ luật Hình sự hiện
hành chưa có quy định riêng về quyết định hình phạt nhẹ hơn đối với họ................64
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Những vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật Hình sự Việt Nam
hiện hành


3.2.4 Bộ luật Hình sự hiện hành chưa có quy định về tổng hợp hình phạt trong
trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, trong đó tất cả các tội phạm đều
được thực hiện khi chưa đủ 18 tuổi và tổng hợp mức hình phạt chưa phù hợp với các
tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện . ........................................................65
3.2.5 Sự chênh lệch giữa các hình phạt khi áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội .....................................................................................................................66
3.3 Một số kiến nghị để hoàn thiện vấn đề áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội .................................................................................................67
3.3.1 Bộ luật Hình sự cần quy định vấn đề giảm nhẹ hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.................67
3.3.2 Khắc phục hạn chế về hình phạt tù có thời hạn tại Điều 74........................68
3.3.3 Giải pháp hoàn thiện về quyết định hình phạt nhẹ hơn cho người chưa thành
niên phạm tội..............................................................................................................71
3.3.4 Bộ luật Hình sự hiện hành cần có quy định về tổng hợp hình phạt trong
trường hợp họ phạm tội, trong đó tất cả các tội phạm đều được thực hiện khi chưa đủ
18 tuổi và quy định hợp lý hơn về mức hình phạt khi tổng hợp hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội.................................................................................72
3.3.5 Hình phạt cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ cần được áp dụng
nhiều hơn đối với người chưa thành niên phạm tội ...................................................74
KẾT LUẬN ...............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế hệ trẻ, thế hệ thanh thiếu niên hay cụ thể hơn là những người chưa thành niên
chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Họ nắm giữ vẫn mệnh của đất nước trong tay,
hành động của họ quyết định sự phát triển hay suy thoái của một quốc gia. Để một quốc
gia phát triển giàu mạnh với một nền xã hội văn minh thì ngay từ đầu phải tạo cho người
chưa thành niên có những suy nghĩ, hướng đi và mục tiêu đúng đắn.
Từ khi gia nhập Liên Hiệp quốc, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động tham gia các
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em như Công ước về Quyền trẻ em 1989, Nguyên
tắc tối thiểu chuẩn về quản lý người chưa thành niên (Nguyên tắc Bắc Kinh) 1985…
Đồng thời nội luật hóa, xây dựng chính sách pháp luật phù hợp như Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Dân
sự; Luật hôn nhân và gia đình…với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em cũng
như quy định trách nhiệm của cha mẹ, gia đình và các tổ chức xã hội.
Tuy nhiên, một hiện tượng đang xảy ra phổ biến tại các nước trên thế giới là tình
hình người chưa thành niên phạm tội ngày càng gia tăng. Các nước đang nỗ lực tìm cách
đảm bảo hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên phải tuân thủ theo đúng pháp
luật quốc tế về quyền con người. Để tính công bằng và nghiêm khắc của pháp luật hình
sự cũng như yêu cầu bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất, thì vấn đề xử phạt người chưa
thành niên phạm tội luôn là yêu cầu cấp thiết đặt ra với mỗi quốc gia. Đặc biệt vấn nạn
người chưa thành niên phạm tội ngày càng có xu hướng tăng nhanh qua mỗi năm. Và
Việt Nam cũng nằm trong tình trạng đó.
Thấy được điều này, các nhà làm luật từ đầu đã đề ra những quy định riêng biệt
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm giúp họ sửa chữa sai lầm và
có hướng đi đúng đắn về sau, cụ thể là Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam năm 1985
đã dành hẳn một chương (Chương XVII – Những quy định đối với người chưa thành niên
phạm tội) để quy định về vấn đề người chưa thành niên phạm tội và kế thừa những quy
định đó Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng đã tiếp thu và phát huy tại Chương X. Bộ luật
Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng dành một chương giống như Bộ luật
Hình sự năm 1999, với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng phạm tội do người

chưa thành niên gây ra. Tuy nhiên, những chính sách pháp luật đó khi được áp dụng lại là
một vấn đề cần phải bàn, có những quy định không còn phù hợp với thực tế hiện nay,
nhiều quy định chưa rõ ràng dẫn đến việc áp dụng không thống nhất đặc biệt là vấn đề áp
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 1

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Chính vì vậy, người viết chọn đề
tài “Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo
luật hình sự Việt Nam hiện hành” nhằm mục đích tìm hiểu vấn đề trên. Từ đó người
viết đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập vấp phải và góp phần hoàn thiện
những quy định của pháp luật hình sự hiện về người chưa thành niên phạm tội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đề tài là người viết sẽ tìm hiểu những kiến thức chung
nhất về người chưa thành niên phạm tội và những quy định đối với người chưa thành
niên phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành; tìm hiểu chính
sách xử lý của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là
việc áp dụng hình phạt đối với họ. Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng những quy định này
trong thực tiễn. Từ đó, người viết đưa ra một số kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện
pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội, tìm ra các giải pháp nhằm cải thiện
trong vấn đề áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, luận văn có phạm vi nghên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn xoay quanh việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm

theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành. Cụ thể nội dung nghiên cứu bao gồm: Lý luận
chung về hình phạt và người chưa thành niên phạm tội, những quy định của Bộ luật Hình
sự hiện hành đối với người chưa thành niên phạm tội và phân tích, đánh giá những bất
cập của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Từ đó đề xuất
những giải pháp thiết thực để khắc phục những bất cập và góp phần hoàn thiện những
quy định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, người viết đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích luật viết, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu lý luận trên sách
vở, phương pháp sưu tầm và phân tích số liệu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của đề tài gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về hình phạt và người chưa thành niên phạm tội.
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 2

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

Chương 2: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự
Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Một số bất cập và kiến nghị để hoàn thiện việc áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội theo luật Hình sự Việt Nam hiện hành.


GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 3

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH PHẠT VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI
Trong mọi mặt của đời sống hiện nay, nền kinh tế - xã hội không ngừng phát triển
bao trùm lên mọi lĩnh vực và từ đó cũng kéo theo mặt tiêu cực đó là các tội phạm ở các
lĩnh vực ngày càng đa dạng và nguy hiểm hơn. Theo đó, Nhà nước ta phải có những biện
pháp để ngăn chặn mà cụ thể đó chính là pháp luật, nó là công cụ hữu hiệu để quản lý
cũng như nhằm đảm bảo sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội. Tạo ra môi trường
sống lành mạnh, giúp mọi người phát huy những đức tính tốt đẹp của dân tộc từ đó đất
nước mới có thể phát triển ổn định.
Pháp luật bao trùm lên mọi mặt của đời sống, nó tác động ít nhiều đến mọi người,
các hành vi của họ đều chịu sự chi phối của pháp luật. Nếu có hành vi nguy hiểm làm gây
hại đến các quan hệ xã hội sẽ được pháp luật bảo vệ và trừng trị những hành vi đó . Diễn
biến về tình hình tội phạm luôn được sự quan tâm sâu sát của Nhà nước ta khi mà đất
nước đang thay đổi từng ngày. Trong các chủ thể của tội phạm, có một chủ thể đặc biệt
đó là người chưa thành niên, khi chủ thể này phạm tội sẽ có những hình thức xử lý khác
nhau đó là các biện pháp tư pháp và mang tính nghiêm khắc hơn đó là những hình phạt
được pháp luật hình sự điều chỉnh bằng những quy định riêng. Những quy định riêng đó
như thế nào mà chỉ có người chưa thành niên phạm tội mới được áp dụng, để hiểu rõ hơn
trước tiên phải tìm hiểu về nền móng cơ bản của của vấn đề đó là “Lý luận chung về

hình phạt và người chưa thành niên phạm tội”.
1.1 Vài nét về hình phạt
1.1.1 Khái niệm hình phạt
Những vấn đề lý luận về khái niệm hình phạt trong luật hình sự, khi tiếp cận cần
phải phân biệt khái niệm hình phạt trong cả hai lĩnh vực thể hiện của nó – trong pháp
luật hình sự thực định và trong lý luận luật hình sự.
Trong pháp luật hình sự thực định của Việt Nam thời kì từ sau Cách mạng tháng
Tám đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai (1945 – 1999), thì định nghĩa pháp lý của
khái niệm hình phạt chưa được ghi nhận về mặt lập pháp. Chỉ có sau khi pháp điển hóa
lần thứ hai, với việc thông qua bộ luật hình sự năm 1999 thì định nghĩa pháp lý của khái
niệm hình phạt lần đầu tiên mới được nhà làm luật chính thức ghi nhận trong pháp luật
hình Việt Nam.
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 1

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

Trong lý luận luật hình sự, từ trước đến nay, khoa học luật hình sự của các nước
và của Việt Nam xung quanh khái niệm hình phạt, giữa các nhà hình sự học vẫn còn tồn
tại nhiều ý kiến khác nhau mà vẫn chưa có một quan điểm thống nhất, chẳng hạn:
- Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và hiện nay là Liên bang Nga có
các quan điểm coi luật hình sự là : a) Biện pháp cưỡng chế tòa án do Tòa án nhân danh
Nhà nước áp dụng với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm nhằm mục đích ngăn
ngừa chung và ngăn ngừa riêng; b) Sự trừng trị, tức là gây thiệt hại cho người có tội
những sự đau đớn và những sự tước đoạt do luật định mà người đó phải chịu; c) Một

trong những biện pháp đấu tranh chống tội phạm mà nội dung của nó là kết hợp thuyết
phục với cưỡng chế.1
- Trong khoa học luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm coi hình phạt là : a)
Biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong luật hình sự do
Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và mục
đích nhất định với mục đích là cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (Đỗ Ngọc
Quang); b) Biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định trong bản án đối với người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền,
lợi ích do luật quy định đối với người bị kết án (Võ Khánh Vinh); c) Theo Nguyễn Ngọc
Hòa và Lê Thị Sơn “ Biện pháp cưỡng chế nhà nước được luật hình sự quy định và do
Tòa án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”.2
Tổng kết tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm hình phạt, Bộ luật Hình sự
năm 1999 được sửa đổi, bổ sung 2009 đã đưa ra khái niệm hình phạt được quy định cụ
thể tại đoạn 1 Điều 26 như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ
quyền hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội .
1.1.2 Đặc điểm của hình phạt
Từ định nghĩa khoa học nói trên về khái niệm hình phạt cho thấy, hình phạt có
những đặc điểm dấu hiệu cơ bản dưới đây:
1

Lê Cảm, Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân,
[truy cập ngày 22/12/2012]
2
Lê Cảm, Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân,
[truy cập ngày 22/12/2012]
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG


Trang 2

số

14,2007,

số

14,2007,

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp
cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước.
Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện qua sự tước bỏ các quyền và lợi ích của
người bị kết án như quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu, thậm chí cả quyền sống.
Bên cạnh đó, hình phạt bao giờ cũng để lại cho người bị kết án hậu quả pháp lý là án tích
trong một thời gian do luật định.
Xét về nội dung, thì bất cứ hình phạt nào cũng chứa đựng trong đó là sự tước bỏ
và hạn chế nhất định (về thể chất, về tinh thần) cho người bị áp dụng. Thuộc tính tồn tại
tự nhiên của hình phạt là sự trừng trị.
Khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Nhà nước, một mặt trừng trị họ;
mặt khác, lên án họ cùng với hành vi phạm tội đã thực hiện và thông qua đó nhằm đạt
mục đích của hình phạt. Ở các chế độ xã hội khác nhau thì tính chất của hình phạt cũng
khác nhau.

- Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của luật hình sự là đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm mà công cụ để thể hiện nhiệm vụ này là hình phạt. Vì vậy, hình phạt là một trong
những chế định quan trọng nhất của luật hình sự và được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Hình phạt khi được áp dụng nghĩa là tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người
phạm tội, ảnh hưởng rất lớn đến số phận của họ. Để là cơ sở pháp lý vững chắc, tránh tùy
tiện trong áp dụng, hình phạt cũng như tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự, có
giá trị pháp lý chỉ sau Hiến pháp, quy định. Điều 26 Bộ luật Hình sự hiện hành nêu rõ:
“Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự…”. Quy định này biểu hiện sinh động
sự quán triệt tinh thần của chính sách hình sự nước ta trong việc quy định và áp dụng
hình phạt. Tinh thần đó thể hiện ở chỗ ngoài những hình phạt được quy định trong Bộ
luật Hình sự, không một biện pháp cưỡng chế nào được áp dụng với tính chất là hình
phạt. Đó chính là sự biểu hiện của sự tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế trong xây
dựng và áp dụng luật hình sự.
Hình phạt được luật hình sự quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm cụ
thể. Phần chung quy định khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt và các vấn đề có liên

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 3

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

quan đến việc quyết định hình phạt. Phần các tội phạm cụ thể quy định các loại và mức
hình phạt cụ thể cho từng hành vi phạm tội.3
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được áp dụng theo trình tự riêng. Cơ quan duy

nhất có quyền nhân danh Nhà nước áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là Tòa án.
Các dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính trái pháp luật hình sự và tính
có lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. Do vậy, cùng với việc
xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì cũng đòi hỏi phải quy định loại và
mức hình phạt cho người có hành vi phạm tội trong đó.
Trong mọi trường hợp không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi
không được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm và tất nhiên cũng không được áp dụng
một loại hình phạt nào đó nếu hình phạt ấy không được quy định trong hệ thống hình
phạt hoặc không được quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử phạt thỏa
mãn.
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đây là những cơ quan có
quyền nhân danh Nhà nước tuyên một người là có tội và áp dụng hình phạt đối với họ.
Ngoài Tòa án không có cơ quan nào khác có thẩm quyền quyết định hình phạt 4. Hình
phạt phải và chỉ được quy định trong pháp luật hình sự, đồng thời được Tòa án áp dụng
theo một trình tự đặc biệt do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định.
- Hình phạt nhằm mục đích tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án.
Tuy nhiên, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do ấy không thể chung chung mà phải
được ghi nhận một cách cụ thể trong pháp luật Hình sự và được thể hiện rõ ràng trong
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội. Với tính
chất là một dạng của trách nhiệm hình sự và một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình
sự, hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội.

3

Phạm Văn Beo, Giáo trình luật Hình sự Việt Nam quyển 1 (Phần Chung), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
Trang 336, 337
4

Nguyễn Ngọc Hòa, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 1), NXB công an nhân dân, Hà Nội, 2006. Trang 220,
221
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 4

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình
sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội. Do đó, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Dựa trên đặc điểm này có thể thấy hình phạt không thể áp dụng cho các thành viên
trong gia đình cũng như những người thân khác của người phạm tội, kể cả trong trường
hợp người phạm tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Cũng theo đặc điểm này, luật
hình sự Việt Nam không cho phép chấp hành hình phạt thay cho người phạm tội cho dù
sự chấp hành thay này là hoàn toàn tự nguyện.
1.1.3 Mục đích của hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước đặc biệt đảm bảo cho luật hình sự thực
hiện được nhiệm vụ đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quan hệ xã hội khỏi sự
xâm hại được pháp luật bảo vệ. Nhưng hình phạt không thể ảnh hưởng trực tiếp đến
những điều kiện và nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Hình phạt với nội dung là sự
tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích của người phạm tội có những ảnh hưởng,
những tác động nhất định đến người phạm tội cũng như những người khác trong xã hội
theo những hướng khác nhau, tùy thuộc vào việc hình phạt được quy định cũng như được
áp dụng như thế nào. Luật hình sự cần có những tác động như vậy của hình phạt phải đạt
được những kết quả trực tiếp hay những mục đích nhất định. Và khái quát vấn đề mục

đích của hình phạt Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định như sau: “Hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Mục đích của hình phạt có ý nghĩa quan trọng không chỉ về lý luận mà đặc biệt cả
về thực tiễn. Với những quan điểm khác nhau về mục đích của hình phạt có thể sẽ có
những quy định khác nhau về hệ thống hình phạt, về quyết định hình phạt trong quy định
của luật cũng như quan điểm khác nhau về áp dụng hình phạt trong thực tiễn.
Mục đích của hình phạt là trừng trị, hình phạt trước hết là nhằm trừng trị người
phạm tội. Nếu hình phạt không có mục đích trừng trị, thì cũng không còn là hình phạt
nữa. Tuy nhiên, nội dung của việc trừng trị không phải luật nội dung nào cũng quy định
như nhau mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà các biện pháp trừng
trị có thể khác nhau. Giáo trình đại học của các cơ sở đào tạo khác nhau, các tác giả đều

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 5

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

thống nhất coi trừng trị là mục đích của hình phạt 5. Ngược lại, hiện nay, khi bàn đến mục
đích của hình phạt, có một số luật gia, một số nhà khoa học pháp lý không thừa nhận hình
phạt trong luật hình sự nước ta có mục đích trừng trị mà chỉ thừa nhận trừng trị là bản
chất, là thuộc tính tất yếu của hình phạt.
Khẳng định mục đích của hình phạt “không chỉ trừng phạt người phạm tội…”

theo Bộ luật Hình sự hiện hành thì không thể không thừa nhận mục đích trừng trị của
hình phạt. Tất nhiên, nội dung trừng trị đã khác và tiến bộ hơn so với nội dung trừng trị
của hình phạt trong luật hình sự của các nhà nước bóc lột và nội dung này còn được thay
đổi theo sự phát triển của xã hội.
Theo tinh thần Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành, mục đích của hình phạt là ngăn
ngừa tội phạm theo hai hướng với cơ chế và nội dung khác nhau: Ngăn ngừa người bị áp
dụng hình phạt phạm tội lại và ngăn ngừa người khác phạm tội.
-Mục đích ngăn ngừa người bị áp dụng hình phạt phạm tội lại (ngăn ngừa riêng)
bao gồm: răn đe người bị áp dụng hình phạt, giáo dục người bị áp dụng hình phạt và hạn
chế (có thể là loại trừ) điều kiện phạm tội lại. Với nội dung là sự hạn chế, là sự tước bỏ
những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng hình phạt, là biện pháp đặc biệt để
răn đe và để giáo dục (bằng tác động cưỡng chế nhà nước) người bị kết án, ngăn ngừa họ
phạm tội lại. Hình phạt còn là biện pháp đặc biệt để hạn chế (có thể đến loại trừ) điều
kiện phạm tội lại của người bị kết án. Răn đe bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm
khắc nhất được hiểu là nội dung của trừng trị- một trong những mục đích của hình phạt
được luật quy định. Trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt
được mục đích khác, mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm
tội là giáo dục họ. Trừng trị và giáo dục người phạm tội là hai mục đích không tách rời
nhau mà có quan hệ mật thiết với nhau. Trừng trị là tạo cơ sở để giáo dục; giáo dục là sự
phát huy tính tích cực của trừng trị.
- Mục đích ngăn ngừa người khác phạm tội (ngăn ngừa chung) được đặt ra trước
hết đối với những người “không vững vàng” trong xã hội. Hình phạt khi được quy định
và khi được áp dụng cho người phạm tội cụ thể không chỉ tác động đến chính bản thân họ
mà còn tác động đến cả những người khác trong xã hội. Đối với họ hình phạt có mục đích
răn đe, kiềm chế không để họ phạm tội. Qua sự răn đe như vậy, hình phạt nhằm mục đích
thức tỉnh, giáo dục những người này thấy được sự cần thiết tuân theo pháp luật và các

5

Trường Đại học luật Hà Nội, Hình phạt và hệ thống hình phạt, NXB công an nhân dân, Hà Nội, 2008, trang 30


GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 6

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

quy tắc của cuộc sống xã hội, từ bỏ ý định phạm tội và thận trọng hơn trong xử sự để
tránh hành vi của mình trở thành hành vi phạm tội.
Mục đích của hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nội dung của mục đích này không nhằm vào người
phạm tội mà nhằm vào cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe phòng ngừa. Mọi người
nhìn vào hình phạt để có những hành động đúng đắn, tôn trọng pháp luật, nếu không họ
cũng có thể bị xử phạt như những người phạm tội, đồng thời nhắc nhở mọi người trong
cộng đồng xã hội không nên phạm tội.
Tóm lại, các mục đích nêu trên của hình phạt được đặt ra cho hình phạt nói chung
còn đối với hình phạt cụ thể cũng như các trường hợp cụ thể yêu cầu của mục đích này có
thể khác nhau. Các mục đích này của hình phạt đã phải được chú ý tới khi xây dựng luật.
Nhưng mục đích này có thể đạt được hay không cơ bản còn phụ thuộc vào việc áp dụng
hình phạt. Hình phạt đã tuyên, một mặt phải thể hiện được đó là sự trừng phạt cần thiết
của Nhà nước đối với người đã có hành vi phạm tội, để có thể đủ răn đe được người
phạm tội và qua đó đủ răn đe những đối tượng khác, đặc biệt là những người có nguy cơ
phạm tội cao. Mặt khác, hình phạt đã tuyên cũng phải đảm bảo được tính chất là biện
pháp, là phương tiện giáo dục người phạm tội có ý thức tuân thủ pháp luật cũng như giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy,
hình phạt đã tuyên phải thể hiện là sự kết hợp hợp lý giữa trừng trị và giáo dục cũng như

giữa ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng.
1.1.4 Các loại hình phạt
Trong luật hình sự Việt Nam nói riêng cũng như luật hình sự các nước nói chung,
hình phạt luôn luôn tồn tại với ý nghĩa là hệ thống các hình phạt cụ thể. Hệ thống đó phản
ánh chính sách hình sự của Nhà nước cũng như thể hiện quan niệm của Nhà nước về bản
chất và mục đích của hình phạt. Các hình phạt được sắp xếp theo một trật tự nhất định
tùy thuộc vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt và theo thứ tự từ nhẹ đến
nặng. Xuất phát từ quan niệm về hình phạt cũng như mục đích của hình phạt, luật hình sự
Việt Nam đã xây dựng hệ thống hình phạt bao gồm 12 loại hình phạt khác nhau, trong đó
có bảy hình thuộc hình phạt chính và bảy hình phạt thuộc hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập, không phụ thuộc vào hình phạt
vào bổ sung. Mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt chính, các hình phạt chính
hiện nay bao gồm:
- Cảnh cáo;
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 7

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Trục xuất;
- Tù có thời gian;
- Tù chung than;
- Tử hình

Hình phạt bổ sung là hình phạt chỉ được tuyên kèm theo hình phạt chính. Mỗi tội
phạm có thể bị tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ sung hoặc không tuyên hình phạt bổ
sung nào. Các hình phạt bổ sung hiện nay bao gồm:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Quản chế;
- Tước một số quyền công dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
- Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính
Hình phạt chính và hình phạt bổ sung tuy cùng là hình phạt nhưng là hai bộ phận
cấu thành khác nhau của hệ thống hình phạt. Hình phạt chính là bộ phận cơ bản có tính
chất quyết định của hệ thống hình phạt. Hình phạt bổ sung chỉ là bộ phận kèm theo, phụ
thuộc hoàn toàn vào hình phạt chính, nhằm tăng cường, củng cố tác động của hình phạt
chính.
1.2 Khái quát về người chưa thành niên phạm tội
1.2.1 Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân
cách, chưa có đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy
định cụ thể về độ tuổi của người chưa thành niên.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Dân sự
2005, Bộ luật Lao động, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 8

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH



Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa
thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
- Trong Bộ luật Hình sự hiện hành, tại Điều 68 quy định: “Người chưa thành niên
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này”.
- Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, tại chương XXXII: Quy định về thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội, cũng đề cập hai nhóm: Từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 , tại Điều 18 nói rõ: “Nguời từ đủ 18 tuổi trở lên
là nguời thành niên. Nguời chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên.”
- Theo Điều 119 Bộ luật Lao động hiện hành thì: “Người lao động chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi”.
- Tại Điều 7 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định: “Người
chưa đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm
hành chính quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng trên sự phát triển về mặt
thể chất và tinh thần của con người được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn
bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, mỗi nước quy định những quyền và nghĩa vụ
cụ thể của người chưa thành.
Như vậy, có thể đưa khái niệm về người chưa thành niên như sau: Người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người thành niên.
1.2.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự,

do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Về mặt nguyên tắc, mọi người phạm tội đều
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần, địa vị xã hội. Tuy nhiên, đối với trường hợp người phạm tội là người chưa thành
niên, Nhà nước có chính sách xử lý riêng, căn cứ vào đặc điểm đặc thù của sự phát triển
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 9

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

tâm sinh lý con người ở độ tuổi này cũng như đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Để một người chưa thành niên được xem là người phạm tội thì trước hết họ phải là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và thực hiện ít nhất một hành vi mà hành vi đó là
hành vi trái pháp luật hình sự thì mới xem xét đến vấn đề họ có phải là người phạm tội
hay không theo như như quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999: “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Tuy nhiên, không phải hành vi nào của người chưa thành niên vi phạm pháp luật
hình sự thì đều được xem là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có những
người chưa thành niên thỏa điều kiện được quy định tại Điều 68 Bộ luật Hình sự năm
1999 thì mới xem xét có phải là người phạm tội hay không. Điều 68 quy đinh: “Người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự
theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần
chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.”.
Từ quy định trên, người chưa thành niên phạm tội là người thỏa các điều kiện dưới

đây:
- Họ là người chưa thành niên, có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi;
- Đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự;
- Đã thực hiện hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm;
- Có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trước hết, họ phải là người chưa thành niên. Vấn đề này đã được người viết phân
tích ở mục 1.2.1. Để xem xét người chưa thành niên có phải là người phạm tội hay
không, cần xem xét thêm về độ tuổi. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được Bộ luật Hình sự
hiện hành quy định tại Điều 12 là:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định người chưa thành niên phạm tội thành hai
nhóm tuổi: nhóm thứ nhất, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và nhóm thứ hai, nhóm từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Ở nhóm tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhóm này phải chịu
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 10

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà không cần biết họ phạm tội cô ý hay vô ý. Vấn
đề cố ý phạm tội và vô ý phạm tội được quy định tai Điều 9 và Điều 10 Bộ luật Hình sự
năm 1999.6
Còn nhóm từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định

khác hơn, theo đó người trong nhóm tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự với tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (bao gồm cố ý phạm tội và
vô ý phạm tội). Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng căn cứ vào lỗi và mức độ nguy hiểm của
tội phạm để quyết định có tội hay không có tội đối với người chưa thành niên ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, các quy định về
tuổi chịu trách nhiệm vẫn được giữ không thay đổi.
Với mức độ nguy hiểm của tội phạm, Bộ luật Hình sự hiện hành quy định có sự
phân định với những mức độ khác nhau cụ thể tại khoản 3 Điều 8 như sau:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.”

6

“Điều 9. Cố ý phạm tội

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xẩy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Điều 10. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu

quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 11

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

Điều kiện tiếp theo đồng thời với điều kiện đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
người chưa thành niên phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 13 Bộ luật
Hình sự hiện hành quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau:
“Điều 13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào
tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự.”
Từ quy định trên, có thể rút ra được người có năng lực trách nhiệm hình sự là
người không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình.
Sau khi đáp ứng được các điều kiện trên (là người chưa thành niên, đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự) và người đó phải có hành vi mà

hành vi đó được luật hình sự quy định là tội phạm thì mới được xem là người chưa thành
niên phạm tội. Tức là người đó đã thực hiện ít nhất một hành vi nguy hiểm cho xã hội,
xâm phạm đến các khách thể được Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành bảo vệ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, đã thực
hiện hành vi phạm tội, thỏa mãn các điều kiện chủ thể của tội phạm, tức là họ phải có
năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với trường hợp phạm
tội rất nghiêm trọng do cố ý, đặc biệt nghiêm trọng hoặc từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
đối với mọi tội phạm. Điều 68 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: “Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này”. Như thế, theo tinh thần của điều luật và
những phân tích trên có thể đúc kết khái niệm về người chưa thành niên phạm tội với nội
dung :

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 12

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

“Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi,
có năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi mà pháp luật hình sự quy định là
tội phạm.”
Bàn về tội phạm do người chưa thành niên gây ra, Bùi Thành Chung đưa ra khái
niệm với nội dung như sau: “Tội phạm do người chưa thành niên gây ra là hành vi nguy

hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và người đó phải chịu trách
nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán xét của cơ quan tiến
hành tố tụng”7 . Ở đây, cần phân rõ hai khái niệm người chưa thành niên phạm tội và tội
phạm do người chưa thành niên gây ra.
Hai khái niệm trên là hai khái niệm không đồng nhất. Khái niệm người chưa thành
niên phạm tội là khái niệm để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực
hiện hành vi phạm tội, còn khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái
niệm dùng để chỉ tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa
thành niên).
1.2.3 Đặc điểm tâm – sinh lý của người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi và đang ở trong quá trình phát
triển để trở thành người lớn. Dù thuộc giới tính nào, diễn biến tâm - sinh lý cũng có
những điểm giống nhau do lứa tuổi, tất nhiên ở mỗi giới có thể có các biểu hiện ít nhiều
khác nhau.
1.2.3.1 Đặc điểm về sinh lý của người chưa thành niên phạm tội
Về mặt sinh lý, người chưa thành niên thấy mình đã lớn bởi sự thay đổi các bộ
phận cơ thể dần được hoàn thiện, đặc biệt là họ đang ở giai đoạn mà ai cũng phải trãi qua
khi trở thành người lớn – giai đoạn “dậy thì”, đang trong giai đoạn chuyển hóa từ trẻ em
trở thành nguời lớn. Họ chú tâm vào bề ngoài của mình hơn trước, nên họ nói chung cảm
thấy mình “người lớn hơn”. Bởi vậy, họ luôn tìm cách tự khẳng định mình.
Tư duy của người chưa thành niên cũng phát triển dần theo thời gian, lúc còn bé
thì họ tư duy theo đồ vật, các sự kiện cụ thể, cái đang tồn tại truớc mắt trong thực tại.

7

Truờng đại học cảnh sát nhân dân, Khái niệm nguời chưa thành niên và khái niệm tội phạm do nguời chưa thành
niên gây ra - cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lí nguời chưa thành niên
phạm tội, Bùi Thành Chung, [truy
cập ngày 18/12/2012]
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG


Trang 13

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

Càng về sau, họ được dẫn dắt tới một cách tư duy hoàn toàn mới mẻ. Chẳng hạn , họ có
khả năng thực nghiệm được tư duy trừu tượng.
1.2.3.2 Đặc điểm về tâm lý của người chưa thành niên phạm tội
Hành vi phạm tội của người chưa thành niên luôn chịu sự chi phối của đời sống
tâm lý, đặc điểm cá nhân trong hoàn cảnh xã hội của họ. Đối với con người, đặc trưng cơ
bản là hoạt động có ý thức, có mục đích. Tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vô ý
nhưng vẫn là hành vi của một chủ thể là con người có ý thức.
Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự hoàn thiện cơ bản của các chức năng
sinh lý làm cho người chưa thành niên có ấn tượng sâu sắc rằng “mình không còn là trẻ
con nữa”. Đặc điểm tâm lý nổi bật, đặc trưng mà ta thường thấy ở lứa tuổi này là sự biểu
hiện nhu cầu độc lập. Nhu cầu độc lập là mong muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định
theo cách phù hợp với nhận thức của bản thân hơn là để thỏa mãn đòi hỏi của xã hội, môi
trường hay người khác. Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và
quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác.
Sự hình thành và phát triển nhu cầu độc lập ở lứa tuổi này là sự phát triển tâm lý
có tính tất yếu của người chưa thành niên. Họ muốn khẳng định những sự thay đổi rõ rệt
của mình về nhân cách trên con đường trở thành người lớn. Trong nhiều lĩnh vực của đời
sống, họ không muốn phụ thuộc vào người lớn, trước hết là cha mẹ, ông bà và những
người khác. Người chưa thành niên suy nghĩ và hành động theo cách thức riêng của
mình.
Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của lứa tuổi này. Họ

muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá cuộc sống xã hội xung quanh mình. Họ
muốn tiếp thu kinh nghiệm sống, kiến thức của những người lớn tuổi và những bạn bè
cùng lứa tuổi. Trong bối cảnh phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ và
hiện đại như ngày nay thì khao khát hiểu biết của người chưa thành niên không chỉ trong
phạm vi của cuộc sống quanh mình, phạm vi của đất nước mình mà còn khám phá cuộc
sống của các quốc gia khác. Khám phá cái mới giúp người chưa thành niên nâng cao
nhận thức, hiểu biết của mình. Đây là điều quan trọng đối với việc phát triển nhân cách
của họ. Điều đáng lưu ý là họ không chỉ có nhu cầu khám phá cái mới mà còn tìm tòi, thử
nghiệm cái mới, trong đó có cả những cái thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội.
Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về mặt sinh
học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống
còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Thực tế cho thấy,
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 14

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

những người chưa thành niên còn rất non nớt về kiến thức xã hội và kiến thức pháp luật.
Nhận thức và quan điểm về pháp luật chưa hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo cách
hiểu chủ quan của họ. Vì vậy, nhiều người chưa thành niên thường thờ ơ, lãnh đạm đối
với các quy định của pháp luật và từ đấy dễ bước vào con đường phạm tội.8
Tóm lại, ở lứa tuổi này tâm - sinh lý của người chưa thành niên vô cùng phức tạp.
Ý thức bản thân rất non kém. Ý thức đúng đắn giúp cho họ có những hành vi đúng đắn,
cách cư xử hợp lý, tránh xa con đuờng phạm tội. Hiểu được điều này, cần có những
người dẫn đường giúp họ hình thành những hướng đi đúng đắn, phát huy những cái tốt

đẹp và tranh xa cái xấu, cái sai từ đó tránh xa con đuờng phạm tội.
1.3 Lịch sử phát triển của chế định người chưa thành niên phạm tội ở Việt
Nam
Truớc những năm đầu thế kỷ XX thì vấn đề người chưa thành niên phạm tội chỉ
xuất hiện một cách mờ nhạt chưa được quy định trong một văn bản cụ thể nào.
Ðến năm 1912 Bộ Hình luật canh cải ra đời áp dụng cho Nam phần Việt Nam.
Theo Bộ luật này muốn quy định trách nhiệm của thiếu nhi từ 13 tuổi đến 18 tuổi, Tòa án
thụ lý trước hết phải đặt câu hỏi lương tri để biết bị can đã hành động có tri thức hay
thiếu tri thức. Tất cả tùy thuộc vào câu hỏi này nếu Tòa xác nhận bị can đã hành động vô
lương tri Tòa án sẽ miễn nghị và chỉ áp dụng biện pháp giáo hóa như giao trả cha mẹ hay
giao cho một trại giáo hóa không vượt quá tuổi thành niên dân sự của bị can (Ðiều 66).
Chỉ trong truờng hợp Tòa án xác nhận bị can hành động có lương tri, vấn đề áp dụng hình
phạt mới đặt ra. Nếu bị can thuộc loại tuổi từ 13 tuổi đến 16 tuổi thì họ được hưởng một
sự khoan miễn giảm tội nghĩa là được hưởng chế độ trách nhiệm giảm thiểu tính như sau:
a) Nếu hình phạt luật dự liệu cho tội phạm của bị can là tử hình hay khổ sai chung
thân, thì họ chỉ phải chịu hình phạt giam từ 10 đến 20 năm, thi hành tại một trại trừng
giới.
b) Nếu hình phạt luật dự liệu là khổ sai hữu hạn bị can thiếu nhi chỉ phải lãnh một
hình phạt giam bằng 1/3 hay bằng một nữa hình phạt mà lẽ ra nguời đó phải lãnh nếu
người đó đã thành niên (Ðiều 67)

8

Đặng Thanh Nga, Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội, [truy cập ngày 6/2/2013]
GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 15

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH



Một số vấn đề khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam
hiện hành

c) Nếu bị can phạm một khinh tội 9, hình phạt áp dụng cho y không quá một nữa
hình phạt mà lẽ ra y phải lãnh nếu y đã trên 16 tuổi (Ðiều 69).
Những thiếu nhi từ 16 tuổi đến 18 tuổi nếu có hành động lương tri khi phạm pháp,
không được hưởng sự khoan miễn giảm tội này chúng được đồng hóa với các can phạm
đã thành niên.
Tại Trung phần Việt Nam, Bộ Hoàng Việt Hình luật (3/7/1933) Điều 85 quy định
có phần khác đôi chút về điểm b là trong trường hợp đứa trẻ hành động có lương tri và
nếu hình phạt dự liệu là khổ sai hữu hạn hay cầm cố thì họ sẽ bị phạt giam từ 3 đến 10
năm. Các điểm a và c cũng giống Hình luật canh cải. Tuy nhiên, tuổi vị thành niên hình
sự được tính đến 16 tuổi còn tại Trung phần (Điều 83) thay vì đến 18 tuổi như Nam phần.
Ðến 1958 thì những vấn đề về tuổi chịu trách nhiệm hình sự được đề cập đến. Ðạo
luật ngày 3/7/1958 lập ra các tòa án thiếu nhi đã quy định một thủ tục xét xử có nhiều đặc
điểm khác thủ tục thường, nhằm mục đích bảo vệ bị can thiếu nhi. Ðây là một thứ “đặc
quyền tài phán” dành cho thiếu nhi về phương diện hình sự. Ðạo luật 1958 đã chọn tuổi
13 làm tuổi tối thiểu để giới hạn tuổi chịu trách nhiệm hình sự của thiếu nhi. Sự ấn định
tuổi tối thiểu này được phòng theo luật đối chiếu, nhất là đạo chỉ vụ ngày 2/2/1954 của
Pháp quốc.
Nếu những người duới 13 tuổi đã được coi là hoàn toàn vô trách nhiệm truớc hình
luật thì vấn đề trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra cho những nguời từ 13 tuổi đến 18 tuổi.
Theo luật ngày 3/7/1958 (Ðiều 3 “Những người dưới 13 tuổi được coi là vô trách nhiệm
hoàn toàn về phương diện hình sự”. Trong tất cả truờng hợp nào, dù họ phạm trọng tội
Tòa án cũng chỉ có thể áp dụng các biện pháp giáo hóa mà không thể phạt tù .
Ðây là một điểm tiến bộ so với chế độ cũ. Ðối với loại thiếu nhi từ 13 tuổi đến 18
tuổi đạo luật 3/7/1958 không đá động gì đến câu hỏi lương tri và sự khoan miễn giảm tội
mà chỉ quy định như sau:“Nếu hoàn cảnh và cá nhân can phạm bắt buộc, tòa án thiếu
nhi có thể chiếu hình luật xét xử phạt tù vị thành niên trên 13 tuổi” (Ðiều 3) .

Vấn đề về câu hỏi lương tri vì luật 1958 không sửa đổi các Điều 66 và Điều 67
Hình luật canh cải, nên giai đoạn này xét xử nguời chưa thành niên phạm pháp vẫn đặt
câu hỏi lương tri và căn cứ vào đó mà định số phận của bị can. Tòa phá án thời kì này
cho rằng: lý do là câu hỏi lương tri vẫn cần thiết “Vì luật 1958 không hề hủy bỏ Ðiều 66,

9

Khinh tội là tội không đến nổi chết.

GVHD: NGUYỄN THU HƯƠNG

Trang 16

SVTH: NGÔ QUỐC THÀNH


×