Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN về QUYỀN tự DO KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.6 KB, 43 trang )

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI

`

LUẬN VĂN CỬ NHÂN LUẬT
KHOÁ 25 ( 1999 – 2003 )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
DOtậpKINH
Trung tâm HọcTIỄN
liệu ĐHVỀ
Cần QUYỀN
Thơ @ Tài TỰ
liệu học
và nghiên cứu
DOANH

Cán Bộ Hướng Dẫn :

Sinh Viên Thực Hiện :

Th.S BÙI QUANG NHƠN

LIÊNG THỊ HỒNG HOA

Bộ Môn Luật Thương Mại

MSSV : 5992598


Lớp Luật Thương MạI 25A

CẦN THƠ , 7/2003

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

1


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …

MỤC LỤC
–&—

Trung

Lời nói đầu.........................................................................................................1
Chương 1 : Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh........................3
1.1 Khái quát chung về quyền tự do kinh doanh .............................................3
1.2 Chủ thể của quyền tự do kinh doanh.........................................................6
1.2.1 Khái niệm chủ thể kinh doanh .............................................................7
1.2.2 Đặc điểm cơ bản của chủ thể kinh doanh.............................................8
1.2.3 Các loại hình chủ thể kinh doanh.........................................................9
1.2.3.1 Doanh nghiệp nhà nước ...............................................................9
1.2.3.2 Hợp tác xã .................................................................................11
1.2.3.3 Doanh nghiệp tư nhân ................................................................12
1.2.3.4 Công ty ......................................................................................12
1.2.3.5 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.....................................13
1.2.3.6 Các chủ thể kinh doanh khác ......................................................14
1.3 Nội dung của quyền tự do kinh doanh ....................................................15

1.3.1 Quyền thành lập doanh nghiệp ..........................................................15
1.3.1.1
chọnThơ
ngành@
nghề
kinhliệu
doanh
.......................................15
tâm Học
liệuQuyền
ĐH lựa
Cần
Tài
học
tập và nghiên cứu
1.3.1.2 Quyền lựa chọn địa bàn kinh doanh..............................................19
1.3.1.3 Quyền quyết định về vốn..............................................................20
1.3.2 Quyền hoạt động kinh doanh .............................................................24
1.3.2.1 Quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại.........24
1.3.2.2 Quyền sử dụng lao động ...............................................................27
1.3.2.3 Quyền quản lý kinh doanh ............................................................29
1.3.3 Quyền chấm dứt hoạt động kinh doanh..............................................30
Chương 2 : Thực tế áp dụng quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay ...32
2.1 Các văn bản pháp luật quy định về quyền tự do kinh doanh ...................32
2.2 Thực trạng áp dụng quyền tự do kinh doanh ...........................................34
2.2.1 Hiệu quả từ thực tiễn áp dụng quyền tự do kinh doanh ......................34
2.2.2 Những vấn đề thực tiễn trong mối quan hệ giữa sự quản lý nhà nước và
quyền tự do kinh doanh ....................................................................................37
2.3 Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của công dân ...........................................................................................39

Phần kết luận ...................................................................................................43
Danh mục tài liệu tham khảo

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

2


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …

LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới từ nền kinh
tế bao cấp tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhằm thể chế hoá đường lối của Đảng,
Hiến pháp 1992 ghi nhận quyền tự do kinh doanh - một quyền tất yếu trong nền
kinh tế thị trường. Từ đó, đảm bảo quyền tự do kinh doanh trở thành một nguyên
tắc cơ bản trong các quan hệ pháp luật kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được từ sự chuyển đổi trên, những quy định
pháp luật và thực tế thực thi quyền tự do kinh doanh còn nhiều vướng mắc. Hiện
nay, vấn đề quyền tự do kinh doanh chưa được nghiên cứu một cách tổng quát
mà chỉ được tìm hiểu từ những vấn đề cụ thể, riêng lẻ. Do đó, thông qua đề tài
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh ở nước ta
hiện nay” luận văn sẽ khái quát một cách hệ thống những tồn tại trên.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài :

Trung

Trên cơ sở các văn bản pháp luật đã ban hành điều chỉnh mối quan hệ
pháp luật kinh tế và thực tiễn thi hành các văn bản pháp luật đó, tác giả khái quát
những vấn đề có liên quan đến quyền tự do kinh doanh theo hướng bàn về quyền

và lợi ích của các chủ thể kinh doanh. Đồng thời tác giả cũng nêu và phân tích
những tồn tại bất cập trong các văn bản pháp luật dẫn đến những khó khăn, hạn
chế trong việc thực hiện quyền tự do kinh doanh. Tác giả cũng đề xuất những
hướng chung trong việc xây dựng pháp luật nhằm hoàn thiện pháp luật và
tâmđịnh
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
nâng cao về quyền tự do kinh doanh trong thực tế.
Xuất phát từ mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ :
Ø Khái quát những cơ sở lý luận của quyền tự do kinh doanh
Ø Nêu lên những cơ sở pháp lý thể hiện qua các văn bản pháp luật hiện hành
về quyền tự do kinh doanh
Ø Nêu lên những những vấn đề thực tiễn trong việc thực thi quyền tự do
kinh doanh ở nước ta hiện nay và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật liên quan đến quyền tự do kinh doanh.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài :
Ø Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và công
tác thực tiễn về những hoạt động có liên quan đến quyền tự do kinh doanh ở
nước ta hiện nay
Ø Luận văn có đưa ra những định hướng và kiến nghị có thể áp dụng trong
việc soạn thảo các văn bản pháp luật nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tự
do kinh doanh ở nước ta.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

3


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
Phương pháp nghiên cứu đề tài :

Luận văn được trình bày trên cơ sở quán triệt quan điểm Chủ nghĩa Mác –
Lênin, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kết hợp vận
dụng phương pháp liệt kê, phân tích tổng hợp thống kê, đối chiếu, so sánh những
tài liệu, số liệu thu được, từ đó rút ra những kết luận, nhận định về những vấn đề
còn vướng mắc liên quan đến chế định quyền tự do kinh doanh, đề xuất một số
định hướng có tính chất tham khảo cho các văn bản pháp luật thương mại được
ban hành sau này.
Cơ cấu của luận văn : Luận văn gồm 2 chương, cụ thể :
Lời nói đầu
Chương một : Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh
Chương hai : Thực tế áp dụng quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay
Kết luận

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

4


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH
DOANH
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, khi sản xuất hàng hoá
phát triển thì kéo theo sự hình thành và phát triển của các quan hệ thương mại.
Các thương nhân đóng một vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển của một
đất nước. Tuy nhiên lịch sử nước ta bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phong
kiến, tôn ti trật tự “sĩ – nông – công – thương“, nên thương nhân bị coi là người

phi sản xuất, chỉ trung gian trục lợi. Định kiến này đã làm cho hoạt động thương
nghiệp bị kìm hãm, không thể hình thành một tầng lớp thương nhân như một tầng
lớp độc lập. Trong chế độ phong kiến quân chủ, quyền của người dân không
được ghi nhận thì quyền của các chủ thể kinh doanh càng không được xét đến.

Trung

Đến khi cả nước thống nhất đi lên Chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đề ra là tiến
thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa, tiến hành cách
mạng về quan hệ sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có
hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế hợp tác xã.
Nguyên tắc quản lý được khẳng định trong Hiến pháp 1980 bao gồm: Nguyên tắc
kế hoạch thống nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lý
theo ngành theo địa phương và vùng lãnh thổ. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tâmmọi
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
quyết định kinh tế kể cả giá cả sản xuất đều do Nhà nước đề ra, các chủ thể
kinh doanh không được tự do tiến hành hoạt động kinh doanh riêng lẻ đã hình
thành nên tình trạng “ngăn sông cấm chợ“. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý bao cấp
làm cho các tổ chức kinh tế thiếu chủ động, thiếu hiệu quả, trông chờ và ỷ lại vào
Nhà nước. Kết quả là cả một nền kinh tế trong tình trạng trì trệ, đình đốn.
Từ giữa những năm 80, Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra những sai lầm,
nóng vội, duy ý chí trong việc đề ra và thực hiện những phương hướng xây dựng
và cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 ) đã mở ra
một giai đoạn mới - giai đoạn đổi mới quản lý kinh tế xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nghĩa là Nhà
nước sẽ đảm bảo dân chủ trong hoạt động kinh tế, sự bình đẳng và cùng có lợi
giữa các thành phần kinh tế trong hợp tác và cạnh tranh, thừa nhận và bảo hộ các
quyền của các chủ thể kinh doanh.... Đồng thời Nhà nước không can thiệp thô

bạo và sâu vào hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế. Theo phương
hướng này, nền kinh tế nước ta những năm qua đã thực hiện một cuộc chuyển đổi
sâu sắc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp hình thành cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước và đã thu được những kết quả bước đấu rất
quan trọng.
Để thực hiện chủ trương đổi mới này, Hiến Pháp 1992 được Quốc hội
khoá VIII kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15/4/1992 đã sửa đổi một cách căn bản
những quy định về chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1980, quy định mới những nội
dung phù hợp với các quan hệ mới trong quản lý nền kinh tế. Hiến pháp 1992 đã
thể chế hoá đầy đủ đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam với các quy
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

5


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
định: cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (Điều 15),
phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước (Điều 16)... Đặc biệt
lần đầu tiên Hiến pháp Việt Nam ghi nhận quyền tự do kinh doanh là quyền cơ
bản của công dân trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Điều 57 Hiến pháp 1992 quy
định:”Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật“.
Việc quy định quyền tự do kinh doanh cho công dân là một đòi hỏi tất
yếu, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Vì trong nền kinh tế thị trường mọi thứ
được quyết định dựa vào quy luật của thị trường, nhà kinh doanh phải chủ động
quyết định hoạt động kinh doanh theo tín hiệu của thị trường, họ cần được đảm
bảo sự tự do lựa chọn hành động. Với quyền tự do kinh doanh, các thành phần
kinh tế, nhất là kinh tế cá thể có điều kiện phát huy vai trò quan trọng của họ
trong sự phát triển nền kinh tế đất nước.

Khái niệm tự do kinh doanh xuất hiện từ cách mạng tư sản và đã được ghi
nhận là quyền của con người trong các bản Hiến pháp tư sản. Tự do được nói đến
ở đây mang tính chất mị dân, lừa bịp quảng đại quần chúng nhân dân mà thực
chất nó chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, cạnh tranh, bóc lột của giai cấp tư
sản nói chung và của các cá nhân tư sản nói riêng. Vì vậy khi quy định quyền tự
do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước cần phải điều chỉnh sao cho nó thật sự là quyền của mọi công dân.

Trung

Quyền tự do kinh doanh là một khái niệm rất rộng, muốn được thể chế
những
địnhCần
pháp Thơ
luật cụ@
thể Tài
để cóliệu
thể áphọc
dụngtập
trongvà
thựcnghiên
tế cần hiểu
tâmthành
Học
liệuquy
ĐH
cứu
rõ thế nào là quyền tự do kinh doanh? Cụ thể phải xem xét tự do là gì? Kinh
doanh là sao? Tự do kinh doanh có phải đơn thuần là việc mua bán một cách tự
do không bị ngăn trở, hạn chế?

Tự điển tiếng việt có giải thích: “tự do” là quyền được làm theo ý muốn
của mình, còn “kinh doanh” là tổ chức các hoạt động như buôn bán, mở nhà
máy...1 Tuy nhiên cách hiểu này còn khá sơ lược, khó hình dung về hoạt động
kinh doanh. Do vậy có thể xem xét định nghĩa về kinh doanh được quy định tại
khoản 2 Điều 3 Luật doanh nghiệp: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Với cách
giải thích khái niệm kinh doanh này, có nhiều luật gia đã phân tích hành vi kinh
doanh có các dấu hiệu sau:
v
Chủ thể kinh doanh phải mang tính chất nghề nghiệp, nghĩa là họ thực
hiện hành vi đó để thu nhận được thu nhập chính cho cuộc sống. Về mặt xã hội,
khi tham gia thương trường, việc thực hiện hành vi kinh doanh như là một nghề
nghiệp trong sự phân công lao động của xã hội với những nghề nghiệp khác. Về
mặt pháp lý, hành vi của chủ thể này được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Việc
thừa nhận này thể hiện trong việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền do pháp luật quy định.

1

Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1994 trang 846, trang 452

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

6


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
v
Nơi diễn ra hành vi kinh doanh là thị trường và nó chỉ diễn ra trên thị

trường. Thị trường được hiểu là nơi diễn ra việc mua bán và được xác định theo
không gian và thời gian, loại sản phẩm... nhất định. Thị trường này là một thị
trường hợp pháp (được pháp luật thừa nhận). Tính hợp pháp hoặc không hợp
pháp của thị trường do sự quy định của pháp luật tuỳ thuộc vào chế độ kinh tế và
khả năng điều chỉnh của từng hệ thống pháp luật.
v
Hành vi kinh doanh phải là hành vi nhằm mục đích sinh lợi. Dấu hiệu này
cho thấy hành vi kinh doanh đòi hỏi chủ thể phải tiến hành hạch toán để thu được
lợi nhuận trong hoạt động của mình. Đây cũng là dấu hiệu quan trọng để phân
biệt hành vi kinh doanh với các hành vi khác thuộc các hoạt động hỗ tương, hoạt
động từ thiện…
Cách hiểu từ kinh doanh trên vẫn còn hẹp so với ý nghĩa từ kinh doanh
trong quyền tự do kinh doanh vì quyền tự do kinh doanh bao hàm cả các quyền
khác liên quan đến hoạt động kinh doanh như thành lập doanh nghiệp, quản lý
doanh nghiệp … phục vụ cho việc kinh doanh. Như vậy, hành vi mua bán không
đồng nhất với kinh doanh vì nghĩa từ kinh doanh không những có nét nghĩa buôn
bán mà còn bao hàm cả nét nghĩa “tổ chức việc sản xuất”. Mặt khác, không phải
tất cả các hoạt động sản xuất, buôn bán đều là kinh doanh. Do đó, tự do kinh
doanh không chỉ có nghĩa mua bán một cách tự do.

Trung

Quyền tự do kinh doanh có cơ sở pháp lý là tất cả các quy định của Nhà
nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh thực hiện hoạt
động kinh doanh một cách hợp lý. Như vậy pháp luật sẽ đảm bảo cho quyền tự
kinh doanh
được Cần
thực thi
đồng@
thờiTài

choliệu
thấy học
tự do tập
kinh doanh
phải trong
tâmdoHọc
liệu ĐH
Thơ
và nghiên
cứu
khuôn khổ của pháp luật. Tự do được giới hạn trong khuôn khổ của pháp luật sẽ
đảm bảo cho quyền của chủ thể này không xâm phạm đến quyền của chủ thể
khác và đến lợi ích của cộng đồng xã hội.
Tóm lại quyền tự do kinh doanh là quyền của chủ thể kinh doanh trong
việc lựa chọn các lĩnh vực, ngành nghề để đầu tư vốn, sức lao động, máy móc
thiết bị, cách thức quản lý... nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh. Tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật nghĩa là:
v
Đạt được những điều kiện nhất định do pháp luật quy định khi chủ thể này
muốn thực hiện một hành vi nào đó. Ví dụ: Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh được quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật doanh nghiệp.
v
Không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Ví dụ: Những trường
hợp không được thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại Điều 9
Luật doanh nghiệp.
v
Thực hiện các hành vi do pháp luật quy định. Ví dụ: Điều 8 Luật doanh
nghiệp quy định về các nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Với cách thức thực thi quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật
như trên, quyền tự do kinh doanh được thể chế vào các quy phạm pháp luật theo

nguyên tắc cơ bản là: chủ thể kinh doanh được làm những gì mà pháp luật không
cấm.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

7


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …

1.2 CHỦ THỂ CỦA QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
Chủ thể của quyền tự do kinh doanh được quy định tại Điều 57 Hiến pháp
1992 là công dân. Công dân là sự xác định một thể nhân về mặt pháp lý thuộc về
một nhà nước nhất định. Nhờ sự xác định này con người được hưởng chủ quyền
của nhà nước và được nhà nước bảo hộ quyền lợi khi ở trong nước cũng như ở
nước ngoài; đồng thời cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với nhà
nước. Có một số vấn đề lý luận về khái niệm công dân trong việc thi hành quyền
tự do kinh doanh
Công dân là một cá nhân với quyền và nhiệm vụ cơ bản gắn liền với mình.
Đối với quyền tự do kinh doanh, công dân có quyền thành lập doanh nghiệp, đầu
tư vốn vào một công ty, hợp tác kinh doanh, tham gia quản lý... Khi đó, một công
dân có thể trở thành một chủ thể kinh doanh hoặc một chủ thể kinh doanh do
nhiều công dân hợp lại, do đó quyền tự do kinh doanh của công dân được thực
hiện thông qua chủ thể khác là chủ thể kinh doanh. Khái niệm công dân chỉ thể
hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với công dân trong việc quy định chung
về quyền và nghĩa vụ cơ bản, còn khái niệm chủ thể kinh doanh sẽ thể hiện cụ thể
quyền tự do kinh doanh của công dân. Tóm lại mọi công dân có đủ điều kiện do
pháp luật quy định đều có thể trở thành chủ thể kinh doanh và tự do tiến hành
hoạt động kinh doanh.
Trong một quốc gia, công dân là một cá nhân nhưng một cá nhân nào đó

Trung tâmchưa
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
hẳn là công dân của quốc gia đó vì cá nhân bao gồm những người là công
dân, người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch. Nếu là công dân của một
Nhà nước thì được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ luật pháp Nhà nước đó quy định. Còn đối với những người khác - không phải
là công dân của nhà nước đó - thì có một số quyền và nghĩa vụ mà họ không
được hưởng và không phải thực hiện. Chẳng hạn: quyền tham gia quản lý công
việc của Nhà nước, công việc xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, nghĩa vụ quân sự và
tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân... Tuy nhiên, áp dụng chế độ đối xử
quốc gia (Nhà nước sở tại cho phép người nước ngoài có quyền và nghĩa vụ
ngang với công dân của mình trong lĩnh vực dân sự, lao động và thương mại),
Nhà nước ta cũng cho người nước ngoài hưởng quyền tự do kinh doanh một cách
hạn chế. Như vậy, người nước ngoài có quyền liên doanh, thành lập doanh
nghiệp, đầu tư kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Nói cách khác, người nước ngoài là một chủ thể kinh doanh có quyền tự do
kinh doanh.
1.2.1 KHÁI NIỆM CHỦ THỂ KINH DOANH:
Chủ thể kinh doanh là chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh. Pháp luật
Việt Nam không đưa ra định nghĩa về chủ thể kinh doanh nhưng từ khái niệm về
hành vi kinh doanh có thể nói chủ thể kinh doanh rất đa dạng. Theo pháp luật
hiện hành ở nước ta chủ thể kinh doanh bao gồm những loại sau:
v Doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/4/1995.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

8



Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
v Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999
v Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam ngày 12/11/1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000.
v Hợp tác xã theo Luật hợp tác xã ngày 20/3/1996
v Hộ kinh doanh cá thể theo Nghị Định số 02/NĐ-CP ngày 3/2/2000.
v Tổ hợp tác theo Bộ luật dân sự ngày 1/7/1996
Hiện nay trong hệ thống pháp luật và đời sống pháp lý, khái niệm “doanh
nghiệp“ được sử dụng khá phổ biến, nhưng hai khái niệm chủ thể kinh doanh và
doanh nghiệp không đồng nhất với nhau. Điều 3 khoản 1 Luật doanh nghiệp định
nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy, khái niệm chủ thể kinh doanh
rộng hơn khái niệm doanh nghiệp vì hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác là chủ thể
kinh doanh nhưng không được xem là một trong các loại hình doanh nghiệp đang
tồn tại trong nền kinh tế nước ta.

Trung

Ngoài ra cũng cần phân biệt khái niệm thương nhân với chủ thể kinh
doanh. Thuật ngữ thương nhân có từ lâu đời trong lịch sử kinh tế thế giới. Riêng
ở nước ta, thương nhân là một khái niệm mới được dùng trong ngôn ngữ pháp lý
chính thức kể từ khi Luật thương mại được ban hành. Luật thương mại nước ta
khôngliệu
định ĐH
nghĩa Cần
một cách
trực@

tiếpTài
mà chỉ
những
đốivà
tượng
có thể trở
tâmlạiHọc
Thơ
liệunêuhọc
tập
nghiên
cứu
thành thương nhân kèm theo các điều kiện ở những điều khoản sau đó. Tại Điều
5 khoản 6 quy định: “Thương nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình có đăng ký kinh doanh, hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên. Hoạt động thương mại mà điều luật trên đề cập là việc thi hành một hay
nhiều hành vi thương mại của thương nhân bao gồm việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục
đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội (gồm có 14
hành vi thương mại quy định tại Điều 45 Luật thương mại). Như vậy, thương
nhân theo quy định của Luật thương mại Việt Nam là một khái niệm rất hẹp chỉ
giới hạn ở những chủ thể có đăng ký hoạt động thương mại, thực hiện các hành
vi thương mại một cách độc lập, thường xuyên nhằm mục đích chủ yếu là lợi
nhuận.
Bên cạnh đó, những chủ thể pháp luật khác như các cơ quan Nhà nước,
đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể... mặc dù có
thể tham gia vào một quan hệ pháp lý mang tính chất kinh doanh vẫn không được
thừa nhận là chủ thể kinh doanh. Điều này xuất phát từ một dấu hiệu đặc trưng
của chủ thể kinh doanh đó là: chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh
như một hoạt động nghề nghiệp thường xuyên và chủ yếu.

Tóm lại, chủ thể kinh doanh là một khái niệm rất rộng bao gồm tất cả các
cá nhân, pháp nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nước ta hiện
nay được pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền tự do kinh doanh.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

9


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
1.2.2 ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ THỂ KINH DOANH:
v Chủ thể kinh doanh phải được thành lập, đăng ký hợp pháp: Các chủ thể
kinh doanh nói chung phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận.
v Chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng: để có thể tham gia vào thực
hiện các hành vi kinh doanh, chủ thể kinh doanh phải có tài sản riêng của mình.
Không có tài sản riêng thì chủ thể kinh doanh không thể tham gia một cách độc
lập vào các quan hệ kinh doanh. Tài sản là cơ sở vật chất không thể thiếu được để
các chủ thể kinh doanh thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản đối với bên cùng
quan hệ.
v Chủ thể kinh doanh phải có chức năng kinh doanh: Chức năng kinh doanh
là phương diện hoạt động thường xuyên, cơ bản và chủ yếu nhằm mục tiêu lợi
nhuận của các chủ thể kinh doanh. Với tư cách là một thực thể tham gia thị
trường, nếu chủ thể kinh doanh không lấy kinh doanh làm hoạt động cơ bản để
tìm kiếm lợi nhuận thì tất yếu không có sự tồn tại và không có khả năng tồn tại.

Trung

v Chủ thể kinh doanh có tính liên quan và đối kháng với nhau: Trong điều
kiện kinh tế thị trường, mỗi một chủ thể kinh doanh không tồn tại như một tế bào

kinh tế đơn lẻ mà nằm trong một hệ thống lớn lực lượng sản xuất xã hội có tính
liên quan một cách hữu cơ với nhau. Các chủ thể kinh doanh phải hổ trợ lẫn nhau
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sự hổ trợ này thực chất là cung cấp sản phẩm
cho xã hội thể hiện nhu cầu đối với tiền vốn và sức lao động sản xuất. Có thể
tâmthấy
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
mỗi hoạt động của chủ thể kinh doanh này có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của chủ thể kinh doanh khác. Mặt khác, với tư cách là một chủ thể tham gia thị
trường, các chủ thể kinh doanh có tính đối kháng với những nhân tố tác động từ
bên ngoài như: khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai hỏa hoạn, các thay đổi về
chính sách quản lý kinh tế của nhà nước hoặc những lợi thế từ các đối thủ cạnh
tranh... để có thể tồn tại, phát triển.
1.2.3 CÁC LOẠI HÌNH CHỦ THỂ KINH DOANH:
1.2.3.1 Doanh nghiệp nhà nước:
Ở bất kỳ quốc gia nào cũng cần có loại hình Doanh nghiệp nhà nước vì:
- Có những ngành nghề, lĩnh vực mà chỉ nhà nước mới làm được, đòi hỏi
phải tập trung lớn về vốn, nhân lực.
- Có những ngành nghề mà các chủ thể khác không được làm như an ninh
quốc phòng vì nó liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Có những ngành nghề vì lợi nhuận thấp nên các chủ thể khác không
muốn làm như: Dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội
Đặc biệt trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, Doanh nghiệp nhà nước đóng một
vai trò rất quan trọng: định hướng nền kinh tế theo mục tiêu do nhà nước định ra.
Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước được khẳng định tại Điều 19 Hiến Pháp 1992
và được Nghị Quyết số 51/NQ-QH/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều Hiến Pháp 1992 sửa đổi như sau: “Kinh tế nhà nước được củng cố và
phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo,
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa


10


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân” (Doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phần kinh tế nhà nước).
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa tại Điều 1 Luật doanh
nghiệp nhà nước: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
ích, nhằm các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao”.
Qua định nghĩa trên cho thấy doanh nghiệp nhà nước có các đặc điểm sau:
v
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn và
thành lập: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế nên phải lấy các hoạt động
sản xuất, kinh doanh làm chủ yếu. Hoạt động này có tính chất liên tục trong suốt
quá trình tồn tại của doanh nghiệp theo đúng lĩnh vực, ngành nghề đã đăng ký.
Nhà nước là người đầu tư tất cả vốn điều lệ và không chia sẻ với bất cứ ai quyền
đầu tư vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp, cho nên nhà nước đương nhiên là
sáng lập viên duy nhất và giữ quyền quyết định thành lập Doanh nghiệp nhà
nước, khác với các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác là Nhà nước cho phép
thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức thông qua thủ tục do pháp luật quy
định.

Trung

v
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo
các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao: Doanh nghiệp nhà nước không chỉ
là đối tượng quản lý của Nhà nước như các loại hình doanh nghiệp khác mà còn
là công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế theo định hướng đã vạch

ra. Do đó, Nhà nước phải thiết lập được mối quan hệ chắc chắn, bền vững với các
tâmDoanh
Họcnghiệp
liệu nhà
ĐHnước
Cần
họcnghiệp.
tập và
nghiên
cứu
về Thơ
mặt tổ @
chứcTài
quảnliệu
lý doanh
Quyền
của Nhà
nước trong việc thực hiện tổ chức quản lý đối với các Doanh nghiệp nhà nước
bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Ø
Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý cho từng loại Doanh
nghiệp nhà nước phù hợp với quy mô của nó.
Ø
Nhà nước quy định chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn của các cơ cấu tổ
chức trong doanh nghiệp như Hội đồng quản trị, Chủ tịch hội đồng quản trị,
Giám đốc, Ban kiểm soát, Đại hội công nhân viên chức, các tổ chức Đảng và
đoàn thể xã hội và mối quan hệ giữa các cơ cấu tổ chức này trong nội bộ với Nhà
nước.
Ø
Xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc nhà nước bổ nhiệm, miễn

nhiệm các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp như Chủ tịch hội đồng quản trị,
Giám đốc, Tổng giám đốc, các thành viên hội đồng quản trị, Kế toán trưởng, các
thành viên ban kiểm soát
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chịu sự chi phối của nhà nước về
các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Nhà nước quản lý theo mục tiêu sẽ
thoáng hơn, cho phép doanh nghiệp có thể chủ động nghiên cứu chuyển đổi
hướng kinh doanh. Nhà nước cần phân rõ những lĩnh vực nào phải theo nhiệm vụ
ban đầu, những lĩnh vực có thể thay đổi nhưng phải phù hợp với phương hướng
của nhà nước và những lĩnh vực còn lại doanh nghiệp được hoàn toàn có quyền
thay đổi. Tuy nhiên doanh nghiệp nhà nước có thể thay đổi mục tiêu không thể tự
ý thay đổi mà không có sự cho phép của nhà nước. Nhà nước là chủ sở hữu
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

11


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhà nước, do đó quyền đặt ra mục tiêu và
thay đổi mục tiêu đó trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quyền của
nhà nước.
v
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền quản lý vốn và
tài sản do nhà nước giao:
Theo lý thuyết chung và cũng được thể hiện trong pháp luật hiện hành
(Điều 94 Bộ luật dân sự) thì pháp nhân phải có tài sản riêng, tồn tại độc lập và
tách bạch với phần tài sản còn lại của chủ sở hữu pháp nhân mà trong trường hợp
này là nhà nước. Nhưng theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước,
tài sản của doanh nghiệp là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh ngghiệp
nhà nuớc là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở hữu đối với tài sản mà
chỉ là người chủ quản lý và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của nhà nước. Như vậy,

tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước còn khá đặc thù: Doanh nghiệp
nhà nước có quyền quản lý vốn và tài sản do nhà nứoc giao đồng thời có nhiệm
vụ sử dụng sao cho có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vì Nhà nước vẫn là chủ sở
hữu vốn và tài sản đó.

Trung

Tuy nhiên, để doanh nghiệp nhà nước có đủ sức tồn tại, tự phát triển được
trong cơ chế thị trường trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước có khả
năng gánh chịu trách nhiệm dân sự, có quyền độc lập chi phối đối với tài sản của
nó, nhà nước đã trao cho doanh nghiệp quyền tự chủ về vốn và tài sản - một bộ
phận của quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Như vậy doanh nghiệp nhà nước
có quyền
tự doCần
kinh doanh,
là các
quyền
tại mục cứu
1
tâmcũng
Học
liệu ĐH
Thơ cụ
@thểTài
liệu
họcđược
tậpquyvàđịnh
nghiên
chương II của Luật doanh nghiệp nhà nước, nhưng quyền tự do kinh doanh của

doanh nghiệp nhà nước là một quyền bị hạn chế. Điều này là hợp lý vì nhà nước
vẫn là chủ sở hữu của doanh nghiệp, nếu trao cho doanh nghiệp quyền tự do hoàn
toàn thì dễ dẫn đến những tổn thất, thiệt hại cho nhà nước. Mặc khác, cũng cần
phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, các văn bản pháp luật cần
thống nhất theo nguyên tắc: Nhà nước ở vị trí là người đầu tư vốn, là chủ sở hữu
doanh nghiệp (xem Doanh nghiệp nhà nước giống như một công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên); đảm bảo Nhà nước và Doanh nghiệp nhà nước là hai
chủ thể pháp luật độc lập.
Với vị thế của mình và sự thay đổi về cơ cấu quản lý, hiệu quả kinh doanh
được nâng cao, Doanh nghiệp nhà nước ngày càng được củng cố và phát triển,
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
* Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích:
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước
hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà
nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (Khoản 4 Điều 3
Luật doanh nghiệp nhà nước).
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải theo chính
sách của nhà nước, do nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung
giá hoặc phí do nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi
nhuận. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích có thể chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của mình; đầu tư vốn ra ngoài
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

12


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
doanh nghiệp hoặc huy động vốn; tổ chức hoạt động kinh doanh thêm phù hợp
với khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu thị trường nhưng phải được cơ quan
quản lý trực tiếp đồng ý và thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định của pháp

luật. Từ những quy định này cho thấy Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích là một chủ thể không có quyền tự do kinh doanh.
1.2.3.2 Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời
sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước (Điều 1 Luật Hợp tác xã).
Đặc điểm của Hợp tác xã:

Trung

v
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế: Trước đây theo quan điểm ở nước ta
nói riêng và ở các nước XHCN nói chung thì Hợp tác xã có hai tính chất: vừa là
một tổ chức kinh tế vừa là một tổ chức xã hội. Là một tổ chức kinh tế, Hợp tác
xã được thành lập nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm lợi
ích của người lao động, của tập thể và của xã hội. Là một tổ chức xã hội, Hợp
tác xã là nơi người lao động nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau, thi hành các chính
sách xã hội của nhà nước. Hiện nay Luật Hợp tác xã đã xác định rỏ: Hợp tác xã
là một tổ chức kinh tế. Việc xác định này là phù hợp với thực trạng và khả năng
của các Hợp tác xã ở nước ta, phù hợp với quan điểm chung của các nước trên
thế giới, đồng thời cũng tạo điều kiện cho Hợp tác xã bình đẳng trước pháp luật
tâmvới
Học
liệuhình
ĐH
Cần
Thơkhác
@vàTài

học lợi
tậpvậtvà
cứu
các loại
doanh
nghiệp
đảmliệu
bảo quyền
chấtnghiên
chính đáng
cho các xã viên.
v
Hợp tác xã là tổ chức do những người có nhu cầu, lợi ích chung cùng tự
nguyện hợp tác. Sự hợp tác này theo nguyên tắc cùng có lợi: người có vốn góp
vốn người có sức góp sức để cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Ngoài ra,
các thành viên Hợp tác xã (xã viên) còn có thể tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng
sản xuất kinh doanh, vì Hợp tác xã hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực
mà xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh
tập thể.
1.2.3.3 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp
(Điều 99 Luật doanh nghiệp). Doanh nghiệp tư nhân là chủ thể quyền tự do kinh
doanh được thể hiện một cách đầy đủ với các đặc điểm sau:
v
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân làm chủ:
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh vì khi hoạt động kinh doanh,
chủ doanh nghiệp không nhân danh chính mình mà nhân danh doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không có sự chung vốn, liên kết của các thành viên mà tất
cả tài sản của doanh nghiệp thuộc về một chủ duy nhất - chủ doanh nghiệp. Chủ

Doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, có toàn quyền quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

13


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
v
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về
các khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp bằng tất cả tài sản của chủ
doanh nghiệp. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất của Doanh nghiệp tư nhân với
các loại hình doanh nghiệp khác. Chủ doanh nghiệp có thể tự mình trực tiếp điều
hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc thuê người khác thực hiện công việc
đó nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp với tư cách là chủ sở hữu. Khi doanh nghiệp tư nhân chấm dứt hoạt động
thì mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp phải được thanh toán đầy đủ, nếu tài
sản của doanh nghiệp không đủ để trả thì phải sử dụng cả tài sản riêng của chủ
doanh nghiệp ( vốn không được đưa vào kinh doanh ).
1.2.3.4 Công ty
Sự ra đời của công ty là quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường,
vì hình thức tổ chức công ty đáp ứng được hai điều kiện:
- Tập trung vốn cho kinh doanh: các thành viên công ty hợp sức liên minh với
nhau thông qua hình thức chung vốn để cùng kinh doanh
- Giảm bớt rủi ro cho đồng vốn bỏ ra kinh doanh: các thành viên công ty cùng
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh nên đã phân chia rủi ro cho nhau
Đồng thời công ty ra đời là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do
kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội. Theo Luật doanh nghiệp, nước ta có 3
loại hình công ty sau:


Trung

v
Công ty trách nhiệm hữu hạn: là loại hình công ty gồm không quá 50
gópĐH
vốn thành
công@
ty chỉ
trách
nhiệm
về các
nợ của
tâmthành
Họcviên
liệu
Cầnlập
Thơ
Tàichịu
liệu
học
tập
và khoản
nghiên
cứu
công ty bằng tài sản của mình. Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chỉ có một
thành viên – trường hợp này được gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh

nghiệp.
v
Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ
đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ
phần mà họ sở hữu. Công ty cổ phần được quyền phát hành chứng khoán theo
quy định của pháp luật.
v
Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên hợp
danh, mà thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn, uy tín
nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty. Công ty hợp danh có thể có thành viên góp vốn, thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty.
1.2.3.5 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Quốc tế hóa đang là một thực tế và xu hướng phát triển tất yếu của thế
giới ngày nay. Các quốc gia dù mạnh hay yếu đều phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
cũng như về các lĩnh vực khác. Khi trình độ khoa học kỹ thuật đang phát triển
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

14


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
nhanh với tốc độ chưa từng có và đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia, hợp
tác quốc tế trở thành một yêu cầu khách quan nằm trong chiến lược phát triển
kinh tế của nước ta và nhiều nước khác trên thế giới. Trong đó đầu tư nước ngoài
là một trong những hình thức hợp tác mang lại hiệu quả kinh tế cao vì nó mang
theo nguồn vốn và kỹ thuật mới. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định 3
hình thức đầu tư sau:

- Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Đầu tư thông qua việc thành lập Doanh nghiệp liên doanh
- Đầu tư thông qua việc thành lập Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Trong 3 hình thức đầu tư kể trên thì hợp đồng hợp tác kinh doanh không
hình thành pháp nhân mới, mà các bên trong hợp đồng chỉ phải tiến hành các
hoạt động kinh doanh theo sự phân công trong hợp đồng. Như vậy doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài thể hiện dưới 2 hình thức là Doanh nghiệp liên doanh
và Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Theo Khoản 7 và 8 Điều 2 Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam quy định:
v
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp
tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng ký giữa
chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài
hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với
doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư
nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
100% vốn
nước
doanh
nghiệp
nhànghiên
đầu tư nước
Trung tâmvHọcDoanh
liệunghiệp
ĐH Cần
Thơ
@ngoài:
Tài làliệu
học
tậpdovà

cứu
ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.

Tóm lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là hình thức
đầu tư mà ở đó các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn để
lập ra pháp nhân mới tại Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu chung của các nhà đầu tư. Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có 3 đặc điểm cơ bản sau:
- Các nhà đầu tư nước ngoài có quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần tài sản của
doanh nghiêp. Đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì nhà đầu tư nước
ngoài có quyền sở hữu tất cả tài sản, đối với doanh nghiệp liên doanh thì họ chỉ
có quyền sở hữu một phần tài sản, còn một phần tài sản thuộc sở hữu của bên
Việt Nam.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự quản lý của một cơ quan
chuyên trách đó là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngoài ra nếu doanh nghiệp hoạt động
ở từng lĩnh vực cụ thể sẽ chịu sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh
vực đó.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn; bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật hiện hành nếu
doanh nghiệp này hoạt động trong 3 năm mà có lãi thì được phép tham gia hoạt
động trong công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là các nhà đầu tư chỉ chịu trách
nhiệm trong phạm vi phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp đối với các khoản nợ của
doanh nghiệp.
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

15


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
1.2.3.6 Các chủ thể kinh doanh khác

v
Tổ hợp tác: là chủ thể trong quan hệ dân sự, nó chỉ trở thành chủ thể kinh
doanh khi có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật, có nhu cầu
hoạt động thương mại, có đăng ký kinh doanh và được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tổ hợp tác được hình thành trên
cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã của từ 3 cá
nhân trở lên cùng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định,
cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm trong các quan hệ kinh doanh. Tổ hợp
tác chịu trách nhiệm bằng tài sản chung của tổ, nếu tài sản chung không đủ để
thực nghĩa vụ chung của tổ thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên đới theo phần
tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình.
v
Hộ kinh doanh cá thể: là loại hình chủ thể kinh doanh không có tư cách
pháp nhân, do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa
điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách
nhiệm bằng tất cả tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Đối với trường
hợp kinh doanh tại 2 dịa điểm trở lên và thường xuyên thuê lao động thì phải lựa
chọn loại hình doanh nghiệp để đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật
doanh nghiệp (Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000).

Trung

Hoạt động của các hộ kinh doanh cá thể khó có thể chi phối mạnh đến
nền kinh tế và xã hội nhưng nó đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
nước ta và tạo ra việc làm cho hàng triệu người lao động. Đặc điểm chung của
loại hình chủ thể này là: tổ chức hoạt động với quy mô nhỏ, vốn ít, không có nhà
xí nghiệp,
khôngCần
có bộThơ
máy điều

chứcnghiên
chính thức,
tâmmáy,
Học
liệu ĐH
@ hành
Tàikinh
liệudoanh
họcđược
tậptổvà
cứu
có rất ít người làm công, thậm chí không có người làm công, người làm phụ việc
thường là người cùng trong gia đình.
Bên cạnh đó, còn một chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh nhưng
không cần phải tiến hành đăng ký kinh doanh, có thể xem là những chủ thể kinh
doanh nhỏ .Ví dụ: những người buôn bán rong và quà vặt
1.3 NỘI DUNG CỦA QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
1.3.1 QUYỀN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.3.1.1 Quyền lựa chọn ngành, nghề kinh doanh
v
Chủ thể kinh doanh có quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Họ
có thể căn cứ vào điều kiện, khả năng của mình hoặc nhu cầu của thị trường mà
chọn nghành nghề để kinh doanh; pháp luật không bắt buộc họ phải kinh doanh
một ngành nghề nào nhưng có những ngành nghề mà pháp luật cấm kinh doanh.
Đây là những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tư, an
toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt
Nam và sức khỏe của nhân dân. Việc quy định cấm kinh doanh những ngành
nghề này là nhằm bảo vệ các đối tượng trên. Khoản 1 Điều 3 Nghị định số
3/NĐ-CP/2000 của chính phủ quy định danh mục ngành nghề cấm kinh doanh
bao gồm:

- Kinh doanh vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật
quân sự chuyên dùng của các lực lượng vũ trang
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

16


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
- Kinh doanh chất nổ, chất độc, chất phóng xạ
- Kinh doanh chất ma túy
- Kinh doanh mại dâm, dịch vụ tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em
- Kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc
- Kinh doanh các hóa chất có tính độc hại mạnh
- Kinh doanh các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa, bảo tàng
- Kinh doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín, dị đoan hoặc có
hại đến giáo dục nhân cách
- Kinh doanh các loại pháo
- Kinh doanh thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định và các loại động vật, thực vật quý hiếm
khác cần được bảo vệ
- Kinh doanh đồ chơi có hại cho giáo dục nhân cách, sức khỏe của trẻ em hoặc
ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Ngoài các ngành nghề trên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng
không được hoạt động kinh doanh ở những ngành nghề thuộc danh mục lĩnh vực
không cấp giấy phép đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 24/2000/NĐ-CP
ngày 31/7/2000 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
cạnhĐH
đó, trong
động

đề kinh
ngành nghề
Trung tâm HọcBên
liệu
Cầnhoạt
Thơ
@thương
Tài mại,
liệuvấn
học
tậpdoanh
và nghiên
cứu
không thuộc đối tượng cấm kinh doanh được thể hiện trực tiếp ở quy định về
danh mục hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện (danh mục
1 ban hành kèm theo Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính
phủ và được bổ sung bằng Nghị định 73/2002/NĐ-CP ngày 20/8/2002). Tuy
nhiên, căn cứ yêu cầu đặc biệt về kinh tế, quốc phòng, an ninh và y tế, các Bộ
quản lý ngành kinh tế kỹ thuật đề xuất và trình Thủ tướng chính phủ quyết định
việc cho một số doanh nghiệp được phép kinh doanh mặt hàng thuộc danh mục
cấm trong phạm vi và quy mô nhất định, theo những quy định riêng.

Như vậy, với tinh thần “Doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm” trong Luật doanh nghiệp và quyền hoạt động thương mại được quy
định tại Điều 6 Luật thương mại 1997 2, các chủ thể kinh doanh có quyền tự do
lựa chọn ngành nghề để hoạt động kinh doanh mà không một cơ quan tổ chức
hay một cá nhân nào có quyền ngăn cấm. Các chủ thể này chỉ cần đăng ký kinh
doanh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và họ có quyền hoạt động kinh
doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cách thức quy
định này là phù hợp và tạo cơ sở thực thi quyền tự do kinh doanh của công dân,

vì trong nền kinh tế thị trường các ngành nghề kinh doanh vô cùng đa dạng và
phong phú, Nhà nước không thể liệt kê được tất cả các ngành nghề nào là được
phép kinh doanh đồng thời sẽ xuất hiện những ngành nghề mới mà Nhà nước khó
2

Điều 6 Luật thương mại quy định : Cá nhân, pháp nhân tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ đièu kiện theo quy
định của pháp luật được hoạt động thương mại trong các lĩnh vưc, tại các địa bàn mà pháp luật không
cấm.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

17


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
thể dự liệu được. Ngoài ra, cách thức quy định trên còn tạo điều kiện cho các chủ
thể linh hoạt, sáng tạo nắm bắt được cơ hội của thị trường mà đăng ký hoạt động
kinh doanh ở những ngành nghề mới.
v
Ngoài những ngành nghề cấm kinh doanh, pháp luật còn quy định về một
số ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các
ngành nghề đó khi có đủ các điều kiên theo quy định. Điều kiện kinh doanh
được thể hiện dưới hai hình thức sau đây:
- Giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
- Các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy
định về phòng cháy chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và quy định về
các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh.
Ngành nghề kinh doanh có điều kiện thường là những ngành nghề có ảnh
hưởng đến kinh tế, xã hội nhưng không hoàn toàn gây hại, do đó quy định trên
không hạn chế quyền tự do kinh doanh mà chỉ đảm bảo cho các lợi ích được hài

hòa. Nhờ việc tuân thủ điều kiện kinh doanh nhất là các điều kiện về vệ sinh, an
toàn sản phẩm, tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa, bảo vệ môi trường... chất lượng
hàng hóa - dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng có thể được cải thiện, thông qua
đó, lợi ích của người tiêu dùng được bảo vệ, đồng thời ngăn chặn, giảm thiểu các
tác động tiêu cực do hoạt động của doanh nghiệp gây ra cho môi trường, cộng
đồng xung quanh.

Trung

Doanh nghiệp vẫn có quyền tự do lựa chọn ngành nghề và có quyền kinh
doanh các ngành nghề đó kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp
tâmgiấy
Học
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định (khoản 2
Điều 17 Luật doanh nghiệp). Như vậy, các điều kiện này chỉ đòi hỏi khi doanh
nghiệp bắt đầu hoạt đôïng mà chưa đòi hỏi khi tiến hành đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh lại chính là biện pháp hành chính tạo rào
cản sự vận động tự do của các nguồn vốn trong nền kinh tế, tạo ra tình trạng độc
quyền của một số doanh nghiệp. Việc lạm dụng điều kiện kinh doanh có tác hại
không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy các nhà làm luật cần phải
xác định những ngành nghề nào cần quy định điều kiện kinh doanh? Nội dung cụ
thể của điều kiện kinh doanh ấy là gì? Làm sao có thể quy định rõ ràng (lượng
hóa) điều kiện kinh doanh? Trong thực tế, việc giải quyết các vấn đề trên còn gặp
nhiều khó khăn nên việc ban hành các điều kiện kinh doanh có nhiều vướng mắc.
Một số Bộ, ngành vẫn chưa ban hành đầy đủ những quy định về điều kiện kinh
doanh đối với những ngành nghề thuộc quyền quản lý của mình, kéo theo việc
đăng ký kinh doanh trong các ngành nghề này bị đình lại.
Tóm lại, việc tồn tại các điều kiện kinh doanh đối với một số ngành nghề
là cần thiết, song các quy định của pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo

quyền tự do kinh doanh của công dân.
v
Ngoài ra, khi các chủ thể kinh doanh chọn ngành nghề mà pháp luật đòi
hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề thì họ phải đáp ứng đầy đủ
những quy định đối với ngành nghề đó.
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
để thành lập doanh nghiệp (Khoản 7 Điều 3 Luật doanh nghiệp). Mức vốn pháp
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

18


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
định cụ thể tùy thuộc đặc điểm riêng của từng ngành nghề (Ví dụ: mức vốn pháp
định của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được quy định tại Điều 4 Nghị định
số 43/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/08/2001). Nguyên nhân nhà
làm luật đưa ra những quy định này là nhằm bảo đảm khả năng hoạt động của
doanh nghiệp và bảo vệ những chủ thể có quan hệ với doanh nghiệp.
Đối với những ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn nhất định mới có
thể thực hiện hoạt động kinh doanh, pháp luật quy định doanh nghiệp muốn chọn
ngành nghề đó để hoạt động thì phải có chứng chỉ hành nghề. Chứng chỉ hành
nghề là văn bản mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp chỉ
cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một
ngành nghề nhất định (trước đây chứng chỉ hành nghề còn được cấp cho tổ chức
nhưng quy định hiện nay chỉ cấp cho cá nhân). Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 03
ngày 3/2/2000 quy định danh mục ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ
hành nghề bao gồm:
- Kinh doanh dịch vụ pháp lý
- Kinh doanh dịch vụ khám, chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm
- Kinh doanh dịch vụ thú y và kinh doanh thuốc thú y

- Kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình
- Kinh doanh dịch vụ kiểm toán
- Kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán
theoĐH
loại hình
mà yêu
cầuhọc
chứngtập
chỉ hành
nghề đối với
Trung tâm HọcTùy
liệu
Cầndoanh
Thơnghiệp
@ Tài
liệu
và nghiên
cứu
người quản lý doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp hay thành viên công ty.

- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: một trong số những
người quản lý doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề
- Đối với công ty hợp danh: tất cả thành viên hợp danh phải có chứng chỉ hành
nghề
- Đối với doanh nghiệp tư nhân: chủ doanh nghiệp hoặc giám đốc quản lý doanh
nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề
v
Ngoài những nhóm ngành nghề kể trên, pháp luật còn quy định nhóm
ngành nghề mà Nhà nước khuyến khích hoạt động, phát triển đối với từng loại
doanh nghiệp (thường quy định đối với Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác xã,

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Chẳng hạn, để đảm bảo lợi ích quốc
gia, Nhà nước độc quyền kinh doanh thương mại trong một số lĩnh vực, tại một
số địa bàn đối với một số mặt hàng, dịch vụ theo danh mục do chính phủ công
bố (Điều 6 Luật thương mại). Theo nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 quy định
có 19 ngành, lĩnh vực được ưu tiên xem xét khi thành lập mới Doanh nghiệp nhà
nước bao gồm: Sản xuất, sữa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng trực tiếp
phục vụ quốc phòng, an ninh; cung cấp dịch vụ giao thông công chính ở đô thị
và vùng công nghiệp; sản xuất, cung ứng điện trong hệ thống mạng lưới điện
quốc gia...
Như vậy, mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn ngành nghề để hoạt
động kinh doanh sao cho phù hợp khả năng, ý thích của mình và nhu cầu thị
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

19


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
trường... Nhà nước ở vị trí là người quản lý để đảm bảo cho sự ổn định và trật tự
của nền kinh tế, có chính sách khuyến khích hay hạn chế một số ngành nghề,
định hướng cho nền kinh tế theo đường lối, chủ trương đã đề ra. Tóm lại, thực
hiện tự do lựa chọn ngành nghề là bước đầu quan trọng tạo cơ sở thực hiện quyền
tự do kinh doanh.
1.3.1.2.

Quyền lựa chọn địa bàn kinh doanh:

Địa bàn kinh doanh là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh chính của
doanh nghiệp. Địa bàn kinh doanh của doanh nghiệp gồm nơi sản xuất, trụ sở
chính, thị trường tiêu thụ... Các địa điểm này đều do chủ doanh nghiệp tự do
quyết định khi thành lập doanh nghiệp.


Trung

Doanh nghiệp có quyền tự do lựa chọn địa bàn và không phụ thuộc vào
các yếu tố khác như nơi cư trú, nơi có tài sản..., nghĩa là chủ doanh nghiệp có thể
ở tỉnh này nhưng cũng có quyền đăng ký thành lập doanh nghiệp để hoạt động
kinh doanh ở một tỉnh khác. Tuy nhiên nếu đã đăng ký hoạt động ở địa phương
nào thì phải hoạt động đúng ở địa phương đó. Nếu thay đổi sang địa bàn kinh
doanh mới thì phải đăng ký lại với cơ quan đăng ký kinh doanh ở địa phương
mới đó. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có quyền mở rộng địa bàn
kinh doanh sang các tỉnh khác bằng cách đặt văn phòng đại diện, mở chi nhánh.
Theo Điều 27 Luật thương mại quy định: thương nhân được đặt chi nhánh, văn
phòng đại diện ở trong nước, ở nước ngoài nhưng nội dung và phạm vi hoạt động
của chi nhánh, văn phòng đại diện phải phù hợp với nội dung hoạt động của
thương nhân. Về trụ sở chính của doanh nghiệp, khoản 2 Điều 24 Luật doanh
quy định:
sở chính
trên lãnh
Việt nam
tâmnghiệp
Họccóliệu
ĐH trụ
Cần
Thơcủa@doanh
Tàinghiệp
liệu phải
họcở tập
và thổ
nghiên
cứu

và có địa chỉ được xác định.
Có những địa điểm mà doanh nghiệp không được phép đặt cơ sở sản xuất
sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, doanh nghiệp không thể xây dựng một nhà máy
sản xuất xi măng với nhiều chất thải bụi ngay trong khu dân cư hoặc một cơ sở
sản xuất kinh doanh có nhiều tiếng ồn bên cạnh trường học, bệnh viên..., và để
đảm bảo quy hoạch đô thị cơ quan nhà nước có thể cấm kinh doanh một số sản
phẩm, dịch vụ ở một số khu vực nhất định. Như vậy, địa bàn kinh doanh của
doanh nghiệp còn phải đảm bảo yếu tố môi trường, phù hợp với quy hoạch đô
thị, nông thôn, đồng thời không được gây ảnh hưởng đến vẻ mỹ quan, tính chất
văn hóa, lịch sử của các di tích... Tuy nhiên điều này không làm hạn chế quyền tự
do kinh doanh vì pháp luật không cấm doanh nghiệp kinh doanh tại một khu vực
nào mà chỉ không cho phép khu vực đó trở thành địa bàn hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với
những doanh nghiệp hoạt động ở một số khu vực nhất định như miền núi, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào những địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và địa bàn có điều
kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt nam). Đối với doanh nghiệp khi chọn địa bàn hoạt động kinh doanh ở
miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc sẽ được ưu tiên giao đất, cho thuê đất
ở những địa điểm thuận lợi; miễn, giảm tiền thuê đất, thuế lợi tức, lãi suất tín
dụng; miễn học phí về đào tạo và đào tạo lại cán bộ công chức (Nghị định 20

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

20


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và
vùng đồng bào dân tộc).

Tóm lại, doanh nghiệp được tự do lựa chọn địa bàn kinh doanh, còn nhà
nước với chức năng quản lý đất nước sẽ có những chính sách khuyến khích để
phân bổ sự đầu tư của các doanh nghiệp tại một số khu vực nhằm tạo sự phát
triển cân đối trong cả nước.
1.3.1.3. Quyền quyết định về vốn:
Trong kinh doanh, vốn là yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của các doanh nghiệp. Vốn được góp bởi các thành viên công ty. Tài sản góp vốn
có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng
đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi
trong Điều lệ công ty (Khoản 4 Điều 3 Luật doanh nghiệp). Các tổ chức, cá nhân
được quyền góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh trừ những trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật doanh
nghiệp:
- Cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản
của Nhà nước và công quỹ góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình
- Các đối tượng không được quyền góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức

Trung

Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt nam,
namĐH
định Cần
cư ở nước
quyền
vốn tập
vào các
hình công
tâmngười

HọcViệt
liệu
Thơngoài
@ có
Tài
liệugóphọc
vàloại
nghiên
cứu
ty theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Qua quy định trên có thể nhận thấy rằng Luật doanh nghiệp đã cụ thể hóa
Hiến pháp 1992 về quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định pháp luật
theo nguyên tắc loại trừ và từng bước tiến tới thực thi phương châm: trong kinh
doanh, các chủ thể được làm tất cả những gì mà luật không cấm. Quyền góp vốn
cũng thể hiện cho quyền tự do kinh doanh vì chủ thể góp vốn có thể do không có
điều kiện trực tiếp kinh doanh nhưng vẫn có thể bỏ vốn của mình ra tham gia vào
hoạt động kinh doanh. Mặc khác, điều này tận dụng được mọi tiềm lực của nền
kinh tế đưa hoạt động kinh doanh càng phát triển.
Do tính chất ngành nghề kinh doanh và hình thức tổ chức hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp khác nhau mà yếu tố vốn đòi hỏi ít nhiều khác nhau.
Theo quy định pháp luật, điều kiện về vốn đối với từng loại hình doanh nghiệp
như sau:
- Hộ kinh doanh cá thể: điều kiện về vốn không đặt ta trừ trường hợp kinh doanh
ở quy mô lớn phải lựa chọn loại hình doanh nghiệp
- Doanh nghiệp tư nhân hoặc các công ty: nếu kinh doanh những ngành nghề mà
pháp luật đòi hỏi phải có vốn pháp định thì vốn đầu tư ban đầu hay vốn điều lệ
không được thấp hơn mức vốn pháp định. Như vậy, điều kiện về vốn đối với các
chủ thể này chỉ yêu cầu trong một số trường hợp khi kinh doanh ngành nghề mà
pháp luật đòi hỏi phải có vốn pháp định, các trường hợp còn lại họ được quyền tự
do quyết định mức vốn.

SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

21


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
- Doanh nghiệp nhà nước: điều kiện về vốn là phải có vốn điều lệ tại thời điểm
thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định của ngành nghề được phép kinh
doanh theo quy định tại phụ lục số 2 kèm theo nghị định số 50-CP ngày
28/8/1996
- Hợp tác xã: điều kiện về vốn chỉ đòi hỏi khi Hợp tác xã kinh doanh các ngành
nghề quy định tại Điều 13 Nghị định số 16-CP ngày 21/2/1997 như: khai thác
vàng và đá quý, sản xuất thuốc nổ, thuốc độc, hoá chất độc, chất phóng xạ …
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Vốn pháp định của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Trong trường hợp đặc biệt, tỉ lệ này có thể thấp hơn 30%, nhưng phải được cơ
quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận. Trong quá trình hoạt
động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định
(Điều 16 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam). Riêng trường hợp doanh nghiệp
liên doanh còn phải tuân thủ quy định tại Điều 8 của luật này: phần vốn góp của
bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của Doanh nghiệp
liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thỏa thuận của các bên,
nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy
định.
Tóm lại, chủ thể kinh doanh được quyền quyết định mức vốn đầu tư kinh
doanh trừ những điều kiện về vốn được đặt ra cho từng trường hợp doanh nghiệp
cụ thể, căn cứ vào ngành nghề kinh doanh, hình thức tổ chức của các doanh
nghiệp.

Trung tâm Học* Quyền

liệu ĐH
Cần
Thơloại
@ hình
Tài doanh
liệu học
tậpPháp
và luật
nghiên
cứu
tự do
lựa chọn
nghiệp:
quy định
mỗi loại hình kinh doanh có những lợi thế đặc thù và những hạn chế riêng biệt.
Khi thành lập, tùy vào điều kiện, khả năng, nhu cầu.. . các tổ chức, cá nhân có
quyền tự do lựa chọn cho mình một loại hình hoạt động phù hợp theo quy định
của pháp luật. Chủ trương, chính sách chung của Đảng và pháp luật của nhà nước
ta là không phân biệt đối xử giữa các loại hình kinh doanh.
* Những vấn đề chung trong việc thành lập doanh nghiệp:
v

Đăng ký kinh doanh:

Đăng ký kinh doanh là một thủ tục bắt buộc đối với bất kỳ chủ thể nào
(khi đủ điều kiện) muốn được pháp luật thừa nhận là chủ thể kinh doanh (được
hưởng quy chế pháp lý dành cho một chủ thể kinh doanh). Theo quy định tại
Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp muốn đi vào hoạt
động phải làm thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sau
khi có quyết định thành lập doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải làm thủ tục

đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư là nơi ra quyết định thành lập.
Chỉ khi nào doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thì lúc đó
mới đủ tư cách pháp lý để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân trong thực tế
cho thấy những quy định về thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh đối với các
doanh nghiệp đã bộc lộ nhiều vấn đề không hợp lý, tạo ra những thủ tục hành
chính rườm rà, gây nhiều phiền hà cho những người thành lập doanh nghiệp, tạo
kẽ hở cho những cán bộ nhà nước tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Người kinh
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

22


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
doanh muốn thành lập doanh nghiệp phải tiếp xúc, gặp gỡ, xin chứng thực
khoảng 10 cơ quan Nhà nước. Trong khi có nhiều cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp, nhưng mỗi cơ quan lại
độc lập với nhau, chỉ xem xét phần việc của mình, vì vậy dẫn đến thời gian hoàn
thành thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh mất khoảng 4 đến 6 tháng với
những khoản lệ phí không nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc thành lập, đăng ký kinh doanh
đối với các doanh nghiệp là vấn đề hoàn toàn thuộc quyền tự quyết của cá nhân
và tổ chức kinh tế. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này là rất cần thiết, nhưng
trước hết không được hạn chế quyền tự do kinh doanh của những người kinh
doanh, Nhà nước chỉ nên đặt ra những quy định để các doanh nghiệp hoạt động
theo định hướng của nhà nước. Với ý nghĩa như vậy, Luật doanh nghiệp đã bỏ
thủ tục thành lập doanh nghiệp mà chỉ còn thủ tục đăng ký kinh doanh với
những quy định về hồ sơ giấy tờ đơn giản hơn nhiều và thời gian được quy định
trong vòng 15 ngày. Việc lập và xét duyệt hồ sơ đăng ký kinh doanh cũng được
thay đổi căn bản xuất phát từ nguyên tắc Nhà nước chỉ làm thủ tục công nhận

cho sự ra đời của một doanh nghiệp, còn bản thân các doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ trước pháp luật.

Trung

Khi đăng ký kinh doanh doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề,
quy mô kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật cũng như với khả năng,
điều kiện của mình. Tuy nhiên, khi đã lựa chọn và đăng ký tại cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền thì doanh nghiệp chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi ngành
nghề đã đăng ký. Mọi hoạt động kinh doanh vượt quá ngành nghề đã đăng ký
tâmđều
Học
liệu
ĐHdoanh
CầntráiThơ
@ Tài
học
tập
và nghiên
cứu
bị coi
là kinh
pháp luật.
Mục liệu
đích của
đăng
ký kinh
doanh là xác
định một phạm vi hoạt động nhất định cho doanh nghiệp và thông qua đó giúp
cho Nhà nước quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh doanh thương mại. Vì

vậy, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội cũng như sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước, pháp luật bắt buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh đúng ngành nghề đã
đăng ký. Trong trường hợp doanh nghiệp muốn thay đổi, bổ sung ngành nghề
kinh doanh thì phải tiến hành đăng ký nôïi dung thay đổi với cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền.
v

Tên doanh nghiệp và biển hiệu của doanh nghiệp:

Tên doanh nghiệp là tên gọi được xác định cụ thể do doanh nghiệp đăng
ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và dưới tên đó, doanh nghiệp thực hiêïn
các hoạt động kinh doanh của mình.
Biển hiệu là sự thể hiện bằng chữ viết của tên doanh nghiệp và đôi khi
còn bao gồm cả biểu tượng của doanh nghiệp. Biểu tượng của doanh nghiệp có
thể hiểu là ký hiệu riêng của mỗi doanh nghiệp (bằng hình ảnh, màu sắc hoặc kết
hợp giữa các yếu tố) phản ánh đặc trưng riêng biệt của doanh nghiệp đó nhằm
phân biệt với các doanh nghiệp khác cũng kinh doanh mặt hàng, dịch vụ cùng
loại.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp có quyền tự do lựa chọn và sử dụng tên
doanh nghiệp, biểu hiện riêng. Tuy nhiên, để giữ gìn truyền thống lịch sử, văn
hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc cũng như yêu cầu của công tác
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

23


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
quản lý, khi lựa chọn và sử dụng tên doanh nghiệp, biển hiệu cần phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
- Không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp, biển hiệu của doanh

nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công chúng cũng như của các doanh
nghiệp khác.
- Không vi phạm truyền thống lịch sử văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc.
- Phải viết bằng tiếng Việt và có thể viết thêm bằng môït hoặc một số tiếng nước
ngoài với khổ chữ nhỏ hơn
- Ngoài các quy định trên, tên doanh nghiệp còn phải viết rõ loại hình doanh
nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn, cụm từ trách nhiệm hữu hạn viết tắt là
TNHH; công ty cổ phần, từ cổ phần viết tắt là Cp; công ty hợp danh, từ hợp danh
viết tắt là HD; doanh nghiệp tư nhân, từ tư nhân viết tắt là TN. Yêu cầu này đối
với tên doanh nghiệp nhằm giúp cho công chúng, những người có quan hệ giao
dịch với doanh nghiệp khi nhìn vào tên bảng hiệu của doanh nghiệp biết được
ngay loại hình kinh doanh cũng như chế độ chịu trách nhiệm của doanh nghiệp
để định liệu những ứng xử cần thiết, nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích của mình
trong mối quan hệ.

Trung

Tên doanh nghiệp là một trong những yếu tố kết tinh, cấu thành nên sản
nghiệp thương mại của doanh nghiêp. Bởi vậy, khi tên doanh nghiệp, biển hiệu
đã được chọn và sử dụng một cách hợp pháp thì được pháp luật bảo vệ một cách
tâmđặcHọc
liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
biệt. Mỗi doanh nghiệp đều có quyền đối với tên của mình và đó là quyền
tuyệt đối được pháp luật bảo hộ.
Tên doanh nghiệp có thể được lựa chọn theo tên của chủ sở hữu, tên của
bất kỳ một thành viên nào đó, hoặc theo tính chất hoạt động kinh doanh, hay theo
tên địa danh... Tóm lại, dù đặt tên doanh nghiệp theo cách thức nào thì cũng đòi
hỏi tên doanh nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc trung thực, cụ thể, rõ ràng, và xác

định rõ bản chất pháp lý của doanh nghiệp (chủ sở hữu, chế độ trách nhiệm, hình
thức tổ chức... )
v
Vốn pháp định: Trước đây, Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân
quy định về vốn pháp định với 2 ý nghĩa: một là, vốn pháp định thể hiện khả
năng kinh tế của doanh nghiệp; hai là, vốn pháp định bảo dảm cho khả năng
thanh toán của chủ nợ. Thực tế cho thấy cả hai ý nghĩa trên đều không được đảm
bảo vì có trường hợp khi xem xét hồ sơ thành lập, doanh nghiệp đã vay mượn
toàn bộ số vốn pháp định để đủ điều kiện khi thành lập, nhưng sau khi được
thành lập đã rút toàn bộ số vốn pháp định đó để trả nợ, thực tế là doanh nghiệp
được thành lập mà không có vốn. Đây chính là sơ hở để các doanh nghiệp lừa
đảo, chiếm đoạt tài sản của nhau.
Vì vậy Luật doanh nghiệp quy định việc đăng ký kinh doanh thành lập
doanh nghiệp ở hầu hết các nghành nghề đều không cần quy định về vốn pháp
định mà chỉ một số ngành nghề đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán,
hàng hải, hàng không.. . thì phải có điều kiện về vốn pháp định. Quy định như
vậy là hoàn toàn phù hợp, vừa giảm bớt thủ tục hành chính, vừa nâng cao trách
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

24


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do kinh doanh …
nhiệm của các doanh nghiệp trước khi giao kết hợp đồng với nhau, mà Nhà nước
không phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ. Ngoài ra, việc bỏ quy
định về vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề cho thấy quyền tự do kinh
doanh được mở rộng vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho những người ít vốn nhưng
có mong muốn kinh doanh trong cơ chế thị trường.
1.3.2 QUYỀN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH:
1.3.2.1 Quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành giao
dịch với khách hàng thông qua những hợp đồng kinh tế. Quyền tự do ký kết hợp
đồng là một nội dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Điều 4 Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế đã khẳng định: ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị
kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình
cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng. Quyền tự do giao kết hợp đồng thể hiện
qua ba nội dung: quyền tự do lựa chọn khách hàng, quyền tự thỏa thuận nội dung
hợp đồng và quyền thực hiện hợp đồng.
v
Quyền tự do lựa chọn khách hàng: trên cơ sở doanh nghiệp có quyền chọn
địa bàn hoạt động kinh doanh và chọn thị trường tiêu thụ, cụ thể hơn, doanh
nghiệp cũng có quyền lựa chọn khách hàng. Doanh nghiệp có quyền tự do lựa
chọn khách hàng để ký kết hợp đồng kinh tế theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không
trái pháp luật.
bên trong hợp đồng là những chủ thể xác định theo Điều 51 Luật
Trung tâmthương
HọcCác
liệu
ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
mại quy định: đề nghị giao kết hợp đồng được chuyển cho một hay nhiều
người đã xác định. Bên cạnh đó, đối tác tham gia hợp đồng kinh tế phải là chủ
thể có thẩm quyền theo quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế:
- có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã
thỏa thuận trong hợp đồng (điểm b Khoản 1 Điều 8),
- người ký hợp đồng kinh tế phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc
người đứng tên đăng ký kinh doanh (Điều 9).
- Đặc biệt, các bên trong hợp đồng kinh tế phải đều là pháp nhân hoặc ít nhất có
một bên là pháp nhân và bên còn lại là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Tuy
nhiên đây là một đặc điểm hạn chế của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 vì nó

đã làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của các cá nhân có đăng ký kinh doanh,
hộ gia đình, tổ hợp tác: cá nhân có đăng ký kinh doanh không thể ký kết hợp
đồng kinh tế với nhau; còn hộ gia đình, tổ hợp tác chỉ có thể ký kết hợp đồng
thương mại và khi có tranh chấp xảy ra thì tranh chấp đó được giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự (trong khi đương sự đều là những chủ thể kinh doanh và
quan hệ tranh chấp là quan hệ kinh tế).
Một vấn đề khác có thể xem là điểm tiến bộ của pháp luật kinh tế Việt
nam là với sự ra đời của Luật doanh nghiệp đã tạo được thế chủ động của doanh
nghiệp khi tiến hành giao dịch với nhau. Đó là khi ký kết hợp đồng kinh tế các
doanh nghiệp phải tự giám sát, tìm hiểu kỹ về nhau. Nhà nước có nghĩa vụ cung
cấp thông tin cần thiết về các doanh nghiệp để họ tự quyết định (trước đây với
quy định về vốn pháp định phải có khi thành lập doanh nghiệp, các doanh nghiệp
SVTH : Liêng Thị Hồng Hoa

25


×