Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại PHÁP LUẬT về một số BIỆN PHÁP bảo đảm THỰC HIỆN hợp ĐỒNG tín DỤNG BẰNG tài sản ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.14 KB, 89 trang )

Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA: 34 (2008-2012)
Đề tài:

PHÁP LUẬT VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG TÀI
SẢN Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. NGUYỄN MINH TÂM

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN VĂN QUỲNH
Lớp: Thương mại 1-K34
MSSV: 5086071

Trang : 1

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
---------

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 2

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 3

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 4

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢP BIỆN
---------

MỤC LỤC
-----***----LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 5

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
3
1.1. Khái niệm chung về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt
Nam
3
1.1.1. Khái niệm
3
1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
bằng tài sản ở Việt Nam
6
1.1.2.1. Thời kỳ phong kiến
6
1.1.2.2. Thời kỳ cận đại

7
1.1.2.3. Thời kỳ hiện đại
8
1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt nam
10
1.2.1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng tồn tại song song với
nghĩa vụ mà nó bảo lãnh với tính chất là nghĩa vụ phụ
10
1.2.2. Mục đích của các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng nhằm
nâng cao trách nhiệm của các bên
11
1.2.3. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng mang tính chất dự phòng 11

1.2.4. Phạm vi của các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng nằm trong
giới hạn nghĩa vụ đã được xác định.
11
1.2.5. Các biện pháp đảm bảo chỉ bị đưa ra xử lý thực hiện nghĩa vụ chính khi
nghĩa vụ chính bị vi phạm.
11
1.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam phân loại và vai
trò.
12
1.3.1. Phân loại các biện pháp bảo đảm.
13
1.3.1.1. Đảm bảo đối vật và đảm bảo đối nhân.
13
1.3.1.2: Bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản.
14
1.3.2. Vai trò của các biện pháp bảo đảm.
16

1.3.2.1. Đối với các bên.
16
1.3.2.1.1.Bên đi vay
16
1.3.2.1.2. Tổ chức tín dụng.
16
1.3.2..2. Đối với nền kinh tế.
18
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
19
2.1. Điều kiện chung
19
2.1.1. Tài sản bảo đảm
19

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 6

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

2.1.2. Chủ thể của giao dịch bảo đảm
26
2.1.3. Phạm vi bảo đảm
29
2.1.4. Hợp đồng bảo đảm

30
2.1.4.1. Hình thức của hợp đồng bảo đảm
30
2.1.4.2. Nội dung của hợp đồng bảo đảm
30
2.1.5. Định giá tài sản bảo đảm
31
2.1.6. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm
31
2.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm
32
2.2.1. Ý nghĩa của việc đăng ký
32
2.2.2. Nguyên tắc chung
35
2.2.3. Các trường hợp bắt buộc đăng ký
35
2.2.4. Cơ quan đăng ký
36
2.2.5. Trình tự thủ tục
36
2.2.5.1. Trình tự thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm thông qua phương thức trực tiếp tại cơ
2.2.5.2. Trình tự thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến
38
2.2.6. Các mức lệ phí giao dịch bảo đảm
42
2.3. Xử lý tài sản bảo đảm.
43
2.3.1. Nguyên tắc chung
43

2.3.1.1. Xử lý theo thỏa thuận
45
2.3.1.2. Xử lý trong trường hợp không thỏa thuận được
47
2.3.2. Khai thác và sử dụng tài sản bảo đảm trong thời hạn chờ xử lý
47
2.3.3. Thanh toán nợ sau khi xử lý tài sản bảo đảm
48
2.3.4. Chấm dứt biện pháp bảo đảm
49
2.4. Bảo đảm bằng biện pháp cầm cố
50
2.4.1. Khái niệm
50
2.4.2. Hợp đồng cầm cố
51
2.4.2.1. Hình thức của hợp đồng cầm cố
51
2.4.2.2. Nội dung của hợp đồng cầm cố
52
2.4.2.3. Đăng ký hợp đồng cầm cố
53
2.4.2.4. Hiệu lực của hợp đồng cầm cố
53
2.4.2.5. Chấm dứt hợp đồng cầm cố
54
2.5. Bảo đảm bằng biện pháp thế chấp
54
2.5.1. Khái niệm
54


GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 7

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

2.5.2. Hợp đồng thế chấp
54
2.5.2.1. Hình thức của hợp đồng thế chấp
54
2.5.2.2. Nội dung của hợp đồng thế chấp
55
2.5.2.3. Đăng ký hợp đồng thế chấp
56
2.5.2.4. Hiệu lực của hợp đồng thế chấp
57
2.5.2.5. Chấm dứt hợp đồng thế chấp
57
2.5.3. Tìm hiểu về biện pháp thế chấp bằng quyền sử dụng đất
58
2.5.3.1. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
59
2.5.3.2. Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất khi bên thế chấp không thể hoàn nợ. 61
Mẫu hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất tại ngân hàng thương mại cổ phần
xuất nhập khẩu Việt Nam ( EXIMBANK)
62

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG
TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
62
3.1. Đối với tài sản bảo đảm
64
3.2. Trong hoạt động công chứng chứng thực hợp đồng bảo đảm
66
3.3. Trong hoạt động đăng ký
69
3.4. Trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm
75
KẾT LUẬN
79

LỜI NÓI ĐẦU
-----

-----

Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam là thành viên
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngành ngân hàng nước ta đã và đang đổi mới

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 8

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh



Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

toàn diện, trong đó hoạt động tín dụng, cho vay cũng được đẩy mạnh. Tín dụng ngân hàng
là công cụ thúc đẩy các tổ chức tín dụng thu vốn tạm thời, nhàn rỗi và cho các chủ thể
kinh doanh cần thiết vay vốn. Nguồn vốn cho vay chủ yếu của các tổ chức tín dụng là vốn
huy động chủ yếu là tiền gửi của khách hàng vì vậy nhiệm vụ của các tổ chức tín dụng là
bảo vệ khoản tiền này, nếu khoản vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì làm
cho tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng có khả năng không thể thanh toán cho người gửi
tiền. Do đó, tổ chức tín dụng cần phải luôn thận trọng trong việc cho vay nhằm giảm thiểu
những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Việc mất khả năng thanh toán trong hoạt động tín
dụng ở một mức nào đó không chỉ ảnh hưởng tới tổ chức tín dụng đó mà có thể đe dọa
tới toàn hệ thống ngân hàng quốc gia. Vì những lẽ trên, mọi tổ chức tín dụng phải tuân
thủ quá trình phân tích rủi ro trước khi cho vay mà công cụ hạn chế rủi ro mang tính chất
quan trọng nhất của các ngân hàng trong hoạt động cho vay là các biện pháp bảo đảm tiền
vay.
Nhìn lại lịch sử phát triển của các chế định bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng ta sẽ thấy rất rõ việc Đảng và Nhà nước đã dành một sự quan tâm đúng mức để
đổi mới và hoàn thiện chế định. Tuy nhiên đến nay việc đổi mới chế định này vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện. Vì vậy, thực tiễn xã hội đang đòi hỏi phải có những công trình
nghiên cứu toàn diện mang tính quy mô cấp nhà nước về chế định này là cơ sở cho Quốc
hội, Chính phủ và các nhà quản lý ban hành văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lanh
pháp lý an toàn cho các giao dịch bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng nói riêng và
các giao dịch dân sự khác nói chung đi vào nề nếp vì sự phát triển chung của kinh tế đất
nước.
Để góp phần vào việc tìm hiểu một chế định mang tầm quan trọng như đã phân
tích trên, trong khuôn khổ luận văn này người viết sẽ tìm hiểu về “Pháp luật về một số
biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam”.

Phạm vi nghiên cứu:

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là một khái niệm rất rộng bao gồm tất cả các biện
pháp được tổ chức tín dụng áp dụng để bảo toàn vốn vay như cầm cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay tuy nhiên
trọng phạm vi luận văn này tác giả chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về biện pháp bảo đảm là
cầm cố, thế chấp tài sản.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 9

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh các quy định liên
quan cùng điều chỉnh lĩnh vực nghiêm cứu đồng thời luận văn cũng sử dụng kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn để thấy được tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống.
Trong luận văn này người viết trình bày theo bố cục như sau:
Mục lục.
Lời nói đầu.
Chương 1: Khái quát chung về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín
dụng ở Việt Nam.
Trong chương này, tác giả trình bày lý luận chung về bảo đảm nghĩa vụ dân sự,
khái quát chung về khái niệm bảo đảm tiền vay,vai trò và đặc điểm của các biện pháp này.
Chương 2: Quy định pháp luật về một số biện pháp đảm bảo thực hiện hợp
đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.
Ở chương này, tác giả đi tìm hiểu các vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến quan
hệ bảo đảm tiền vay như cá điều kiện về tài sản, chủ thể, phạm vi bảo đảm, hợp đồng bảo

đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm….
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện một số biện pháp đảm bảo
thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.
Chương này tác giả trình bày thực trạng áp dụng các biện pháp bảo đảm còn gặp
nhiều khó khăn và một số kiến nghị .
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Trong quá trình nghiên cứu, các quy định của pháp luật về lĩnh vực bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng không nhiều và hoạt động thực tế của các biện pháp này còn
nhiều phức tạp nên trong qua trình tìm hiểu không thể tránh khỏi những thiết sót nhất
định. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến, phê bình từ quý thầy cô và các bạn.

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chung về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
ở Việt Nam

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 10

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

1.1.1. Khái niệm
Thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển
giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện một công việc hoặc không được phép

thực hiện một công việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền. Nghĩa vụ phải được thực
hiện bởi những ràng buộc trách nhiệm pháp lý là những điều kiện do pháp luật quy định,
nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm với
bên có quyền, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Nghĩa vụ dân sự phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định như đối
tượng của nghĩa vụ phải xác định, tài sản phải giao dịch được, công việc được thực hiện
phải không trái quy định của pháp luật, không trái đạo đức, thuần phong mỹ tục. Khi một
nghĩa vụ hình thành thì thì bước tiếp theo là nghĩa vụ đó phải được thực hiện trên thực tế
một cách nghiêm túc đúng với những gì mà người có nghĩa vụ cam kết hoặc do pháp luật
quy định.
Về nguyên tắc khi một quan hệ nghĩa vụ dân sự được thiết lập thì việc thực hiện
nghĩa vụ phát sinh trước hết là dựa vào sự tự giác của các bên. Nhưng trong thực tế không
phải bất cứ ai khi tham gia quan hệ nghĩa vụ dân sự đều có thiện chí trong việc thực hiện
các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể
là trường hợp một chủ nợ không có đảm bảo, về mặt lý thuyết thì quyền lợi của chủ nợ
này được pháp luật bảo vệ và được đảm bảo thi hành bởi việc thi hành của bên có nghĩa
vụ và trên toàn bộ tài sản của người đó. Nhưng trên thực tế ta thấy chủ nợ này hoàn toàn
không có một quyền hạn nào đặc biệt đối với một hoặc nhiều tài sản của người mắc nợ và
do đó chủ nợ này luôn đứng trước nguy cơ không thu hồi được nợ do từ thời điểm mắc nợ
đến thời điểm nợ đến hạn khối tài sản của người mắc nợ có khả năng thay đổi theo chiều
hướng giảm xuống nếu như không có các thỏa thuận khác giữa các bên tham gia quan
hệ pháp luật dân sự. Và nếu khối tài sản đó có thể không thay đổi nhưng cũng không đủ
trả hết số nợ cho các chủ nợ có đảm bảo thì nguy cơ không đòi được nợ của các chủ nợ
không có đảm bảo này vẫn rất cao.
Nghĩa vụ trả nợ được đảm bảo bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người
có nghĩa vụ. Với biện pháp này khi người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ
của mình thì người có quyền có thể yêu cầu kê biên bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu
của người có nghĩa vụ và yêu cầu bán đấu giá tài sản đó để thu hồi nợ, nhưng vì bất kỳ
chủ nợ nào cũng có quyền này nên khi tất cả các món nợ đều đến hạn thì người mắc nợ
sẽ trả cho chủ nợ nào đến trước, nếu các chủ nợ đều đến cùng lúc thì người mắc nợ sẽ trả


GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 11

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

theo tỉ lệ. Ngoài ra người mắc nợ còn có thể chủ động chuyển nhượng tài sản của mình
cho người khác trước khi các món nợ đến hạn việc này gây rất khó khăn cho các chủ nợ.
Từ thực tiễn này ta có thể thấy rất rõ là mặc dù được pháp luật quy định cụ thể về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nhưng không phải lúc
nào quyền của chủ thể có quyền trong quan hệ đảm bảo cũng được đảm bảo thi hành một
cách nghiêm túc và trong trường hợp này chủ thể có quyền sẽ bị thiệt thòi nếu như các
bên không thỏa thuận xác lập một biện pháp ngăn chặn nào. Như vậy ta thấy có tới hai
bất lợi cho chủ thể có quyền ở đây đó là quyền chủ động thuộc về người có nghĩa vụ, khả
năng sẽ không thực hiện được quyền của mình vì người có nghĩa vụ không còn tài sản
hoặc tài sản không đủ thực hiện nghĩa vụ.
Để khắc phục tình trạng trên, tạo cho người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ có
được vị thế chủ động trong việc thực hiện quyền của mình, pháp luật cho phép các bên
thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm giao kết quan hệ nghĩa vụ dân sự cũng như đảm
bảo cho việc thực hiện quan hệ nghĩa vụ dân sự đó. Tuy nhiên, các biện pháp mà các bên
thỏa thuận phải được pháp luật cho phép và không trái đạo đức. Thông qua các biện pháp
được thỏa thuận này, người có quyền có thể chủ động thực hiện quyền của mình khi đến
hạn mà bên có nghĩa vụ không tự giác thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Vì vậy, các biện pháp đảm bảo này có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố kỷ luật hợp
đồng, đề cao trách nhiệm của người có nghĩa vụ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên khi tham gia quan hệ nghĩa vụ dân sự.

Như vậy, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là các biện pháp do pháp luật quy
định và do các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ thỏa thuận xác lập, nhằm thúc đẩy người
có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của bên có quyền đồng thời tạo điều
kiện cho người có quyền trực tiếp thực hiện các quyền của mình trong trường hợp người
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, bằng cách
dựa vào luật hoặc dựa vào sự thỏa thuận của các bên để xác nhập thêm vào nghĩa vụ
chính một nghĩa vụ bổ sung.1
Hợp đồng tín dụng cũng là một hợp đồng dân sự mà ở loại quan hệ này việc bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ là rất quan trọng đối với các tổ chức tín dụng, để bảo đảm
cho nghĩa vụ này các bên có thể lựa chọn các hình thức khác nhau có thể bảo đảm bằng sự
thiết lập quyền đối với tài sản của chủ thể có quyền đối với một hoặc một vài tài sản của
chủ thể có nghĩa vụ hoặc người thứ ba hoặc bảo đảm sẽ được xác lập trên cơ sở niềm tin
1

Đoàn Thị Phương Diệp, Giáo trình bảo đảm nghĩa vụ, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, năm 2009 trang 2.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 12

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

vào một bên thứ ba (tín chấp) khi niềm tin đối với người có nghĩa vụ không đủ để bên có
quyền xác lập nghĩa vụ dân sự .Tuy nhiên đối với biện pháp bảo đảm xác lập bằng niềm
tin đối với bên thứ ba (các tổ chức chính trị - xã hội) sẽ làm chủ thể có quyền có thêm
một người có nghĩa đối với mình bên cạnh người có nghĩa vụ chính nhưng nguy cơ rủi
ro trong trường hợp này là rất lớn, việc bảo đảm trong trường hợp này được áp dụng hạn

chế và phải tuân thủ quy định nghiêm ngặt của pháp luật. Thay vì củng cố lòng tin đối với
việc chủ thể có nghĩa vụ sẽ thực hiện nghĩa vụ đối với mình ở một chủ thể khác, chủ thể
có quyền có thể thỏa thuận với chủ thể có nghĩa vụ hoặc chủ thể thứ ba về biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ một cách chủ động bằng việc thiết lập quyền của mình đối
với một hoặc một số tài sản cụ thể của các chủ thể trên. Đối với trường hợp này chủ thể
có quyền vừa được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ vừa có thế chủ động trong việc thực hiện
quyền của mình, tránh được các tranh giành của các chủ thể có quyền khác có cùng con
nợ.
Từ những phân tích trên ta có thể rút ra khái niệm về các biện pháp bảo đảm thực
hiện hợp đồng tín dụng như sau:
Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là các biện pháp do pháp luật quy định phát
sinh khi các bên tham gia quan hệ vay tiền thỏa thuận xác lập, nhằm thúc đẩy người có
nghĩa vụ trả tiền (bên đi vay) thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của bên có quyền
(bên cho vay) đồng thời tạo điều kiện cho bên cho vay trực tiếp thực hiện các quyền của
mình trong trường hợp bên đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình trên cở sở quy định của pháp luật hoặc sự thỏa thuận của các bên đã giao kết.2

1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng tín
dụng ở Việt Nam
Các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ được hình thành từ rất sớm bên cạnh sự ra đời
của các quan hệ nghĩa vụ dân sự đó. Tùy theo từng đất nước, dân tộc, từng thời kỳ khác
nhau mà các quy định về đảm bảo cũng có sự khác nhau, do vậy muốn tìm hiểu về các
biện pháp đảm bảo cần bắt đầu từ sự phát triển của chúng qua các thời kỳ.
1.1.2.1. Thời kì phong kiến
Đất nước ta là một nước nông nghiệp, cuộc sống người dân gắn liền với ruộng đất,
các thành viên trong gia đình gắn kết cùng lao động hưởng thụ và có trách nhiệm chung
2

Lê Huỳnh Phương Chinh, Tập bài giảng luật ngân hàng, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, năm 2010, trang 58.


GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 13

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

với những món nợ của gia đình. Thời kỳ này tài sản có giá trị nhất là ruộng đất và sức lao
động nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn người ta thường có xu hướng đem cố đất hoặc ở đợ
để vay tiền. Cũng tại thời kỳ phong kiến nên ruộng đất thường rơi vào tay các địa chủ, nó
diễn ra rất thường xuyên, đi sau việc cố đất luôn là ở đợ, bởi nếu người nông dân không
có đất thì cuộc sống sẽ không được đảm bảo nữa, người nhận ở đợ ở đây cũng là các địa
chủ, tầng lớp nắm quyền nên việc pháp luật xuất hiện để điều chỉnh mối quan hệ này là
đương nhiên.
Dưới triều Lý pháp luật được xem là tiến bộ và phù hợp nhu cầu xã hội, biện pháp
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ được xác lập về cầm cố ruộng đất là 2 phương pháp “ điển
mại” và “đoạn mại”. “Điển mại” tức là việc bán có kèm theo điều kiện có thể chuộc lại
trong một thời gian, “đoạn mại” là việc bán đứt chuyển luôn quyền sở hữu. Còn có quy
định việc đem cầm cố ruộng đất sẽ được chuộc lại trong vòng 20 năm, việc cầm cố giai
đoạn này sẽ chuyển luôn quyền sở hữu nên bản chất hình thức này giống như hình
thức “điển mại”. Đây là hình thức đảm bảo được ghi nhận với đầy đủ của một biện pháp
bảo đảm. Tài sản được đem ra bảo đảm là ruộng đất, người bán sẽ chuyển nhượng quyền
sở hữu ruộng đất của mình cho người nhận cầm cố khai thác để đổi lấy một số tiền. Sau
khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ người cho vay sẽ trả lại ruộng đất cho người vay. Nếu
trong trường hợp người vay không trả nợ hoặc trả không hết nợ thì sẽ phải bán đứt ruộng
đất của mình cho người cho vay. Các điều khoản này được quy định trong hợp đồng cầm
cố như một biện pháp thanh toán nợ của người mắc nợ.
Dưới triều Lê với bộ luật Quốc Triều Hình Luật với chế định bảo lãnh được quy

định tại điều 590 “người mắc nợ trốn mất thì người bảo lãnh phải hoàn toàn trả tiền gốc
mà thôi, nếu trong văn tự có ghi rõ người bảo lãnh sẽ trả thay thì người bảo lãnh phải trả
toàn bộ gốc, lãi như người mắc nợ, trái luật sẽ bị xử 80 trượng, nếu người mắc nợ có con
thì được phép đòi con.”
Ngoài ra cũng còn những biện pháp khác như người đi vay không dùng đất để đảm
bảo tại thời điểm giao kết mà sẽ cam kết giao đất khi tới một thời điểm mà họ vẫn chưa
trả được nợ. Với biện pháp này người vay vẫn được sử dụng và khai thác mảnh đất tới khi
nợ đến hạn.
Không phải ai cũng có đất để cầm cố hay bán nên xuất hiện một hình thức bảo
đảm bằng sức lao động, sức lao động ở đây có thể là của người đứng ra giao dịch hoặc là
của những người thân thuộc của mình, đây là một hình thức ở đợ, hình thức này khá phổ
biến thời kỳ phong kiến, người ở đợ thường dưới danh nghĩa là nô tì hay nô bộc. Trong

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 14

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

trường hợp này người vay tiền sẽ đem bản thân hoặc sức lao động ra làm vật đảm bảo,
phải đến nhà chủ sinh sống chịu sự sai bảo của chủ nợ. Sức lao động đó có thể được tính
để trả món nợ dần dần hoặc chỉ đủ trả tiền lãi. Nếu được dùng để trả nợ thì tức là sức lao
động chính là vật đảm bảo, còn để trả lãi thì chính sự tự do của người đó dùng để đảm
bảo, họ chỉ được trả tự do khi thanh toán hết nợ.
1.1.2.2. Thời kỳ cận đại
Nếu thời kỳ phong kiến chỉ có hai loại tài sản được đem ra đảm bảo là ruộng đất
và sức lao động của con người thì thời kỳ này tài sản là động sản đã được cho phép áp

dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Với sự xuất hiện hai bộ luật dân sự Bắc và Trung,
nói chung hai bộ luật này chịu ảnh hưởng sâu sắc của bộ luật dân sự Napoleon của Pháp
áp dụng vào hoàn cảnh Việt Nam. Bên cạnh các biện pháp bảo đảm được thiết lập trên cơ
sở sự thỏa thuận thì xuất hiện thêm hình thức “để đương”3 được pháp luật quy định tại
điều 1363 bộ luật dân sự Bắc, điều 1588 bộ luật dân sự Trung, hình thức này giống như
cầm cố động sản và bất động sản thông thường, được thiết lập trên nguyên tắc hợp đồng,
tuy nhiên trong đó người nhận bảo đảm không có quyền sử dụng cũng như không được
giữ tài sản đó, nó chỉ có tác dụng trong việc ưu tiên thanh toán thu hồi nợ bằng cách bán
tài sản và có quyền theo đuổi tài sản qua các cuộc chuyển nhượng. Việc xử lý tài sản đảm
bảo mang dấu hiệu giống như luật Việt Nam thời kỳ hiện đại, đó là tài sản đảm bảo được
đem ra bán chứ người cho vay không có quyền chiếm giữ tài sản đó thành tài sản riêng
của mình.
Ngoài ra bộ luật dân sự Trung còn thừa nhận để đương bằng con đường tư pháp
của kiến trúc sư và nhà thầu xây dựng đối với bất động sản được xây dựng (điều 2588) và
của hội đồng gia đình của người giám hộ đối với bất động sản của người giám hộ (điều
1587), hoặc quy định đăng ký để đương vào sổ điền địa, việc đăng ký giúp ấn định thứ tự
ưu tiên trả nợ. Trong quan hệ bảo lãnh, nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh là nghĩa
vụ liên đới chịu trách nhiệm. Như vậy đã bước đầu thừa nhận hai hình thức bảo đảm bằng
tài sản và không bằng tài sản.
Tại Nam Kỳ, chế định bảo đảm vẫn duy trì quy định của luật cổ đã quen thuộc
trong cuộc sống của người dân, tức là bảo đảm vẫn trên nguyên tắc tài sản cầm cố được
giao cho bên nhận cầm cố, vật cầm cố là động sản thì hợp đồng miệng, là bất động sản
phải lập thành văn bản, bất động sản có thể giao cho người vay sử dụng khai thác như
một người thuê... chứ không chịu ảnh hưởng từ bộ luật dân sự của Pháp. Tuy không có sự
3

Đoàn Thị Phương Diệp, Giáo trình bảo đảm nghĩa vụ, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, năm 2009, trang 73.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm


Trang : 15

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

phát triển đáng kể so với luật cổ nhưng các chế định này vẫn đáp ứng được nhu cầu cơ
bản liên quan đến các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ.
1.1.2.3. Thời kỳ hiện đại
Sau khi thống nhất đất nước, xã hội phát triển theo cơ chế tập trung bao cấp, quyền
sở hữu cá nhân không được đề cao mà thay vào đó là sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân, vì
vậy các giao dịch đảm bảo không phổ biến cho nên cũng không có luật điều chỉnh. Từ
cuối những năm 80 đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thừa
nhận sự tư hữu, với các chính sách kinh tế mới được mở rộng, thúc đẩy các giao dịch dân
sự phát triển quyền tự do giao dịch được mở ra, và nhu cầu đảm bảo các giao dịch đó là
cần thiết nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đòng thời góp phần ổn
định và phát triển nền kinh tế - xã hội mới. Khi các quan hệ xã hội mới phát sinh nó cần
có những quy định pháp luật mới điều chỉnh và lĩnh vực này cũng không ngoại lệ.
Văn bản đầu tiên điều chỉnh mối quan hệ này là quy định về việc thế chấp tài sản
để vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 156/NH-QĐ ngày 18/11/1989
của Tổng giám đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam. Tiếp đó là sự ra đời của Bộ luật
Hàng Hải 30/6/1990 ra đời trong đó ghi nhận quyền cầm cố, thế chấp tàu biển quy định
tại điều 29 “chủ tàu có quyền cầm cố, thế chấp tàu biển cho người khác theo quy định của
pháp luật”, hiện nay Bộ luật Hàng Hải năm 1990 đã hết hiệu lực thay vào đó là Bộ luật
Hàng Hải 14/6/2005 có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 ở văn bản này chỉ còn thừa nhận việc
thế chấp tàu biển quy định tài điều 33, 34. Sau đó là Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và
Nghị định 17-HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế 1989, tại điều 2 quy định về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế
bao gồm cầm cố, thế chấp và bảo lãnh.

Tiếp đó là pháp lệnh hợp đồng dân sự ra đời 29/4/1991 tại chương 3 có bổ sung
thêm một biện pháp đảm bảo nữa là đặt cọc tuy nhiên biện pháp này về bản chất không
phải là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bốn biện pháp bảo đảm cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh, đặt cọc nêu trên đã được Bộ luật Dân Sự 1995 kế thừa và bổ sung thêm ba
hình thức đảm bảo nữa là ký cược, ký quỹ và phạt vi phạm quy định tại mục 5 chương 1
phần thứ 3. Bên cạnh đó là những văn bản hướng dẫn kèm theo như Quyết định số 971/
TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/12/1996 về ban hành quy chế đăng ký tàu bay,
đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu tàu bay và đăng ký thế chấp tàu bay dân dụng,
Nghị định 178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín
dụng sau đó được sửa đổi bởi nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002, Nghị định 08/

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 16

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

CP của Chính phủ ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo, Nghị định 165/1999/
NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm, Thông tư liên tịch số 03/
2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-TCĐC ngày 23/4/2001 về hướng dẫn việc xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng…
Bộ luật Dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực kể từ
ngày 01/01/2006 quy định có 7 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự gồm có: cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp. Sự phát triển của nền kinh tế, xã hội
ngày càng đi lên kéo theo nhiều quy định cũ không còn phù hợp cần được sửa đổi bổ sung
do đó một số nội dung cơ bản của các biện pháp đảm bảo được thay đổi để việc áp dụng
trở lên thuận tiện hơn, phù hợp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ví dụ như việc phân

biệt cầm cố và thế chấp dựa trên việc có hay không việc chuyển giao tài sản, cho phép các
bên được thỏa thuận phương pháp xử lý tài sản bảo đảm, xác định thứ tự ưu tiên thanh
toán khi xử lý tài sản đảm bảo. Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/12/
2006 về giao dịch bảo đảm hướng dẫn chi tiếp các quy định của bộ luật dân sự về giao
dịch bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật cho các giao dịch này, và
Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều nghị định 163/2006/NĐ-CP.
Tóm lại, các biện pháp bảo đảm xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển
trong các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng, qua từng thời kỳ
những quy định của luật điều chỉnh vấn đề này ngày càng được hoàn thiện hơn, có tác
dụng bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia nghĩa vụ một cách tích cực hơn góp phần
thúc đẩy nền kinh tế.
1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt
Nam
1.2.1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng tồn tại song song với
nghĩa vụ mà nó bảo lãnh với tính chất là nghĩa vụ phụ
Các biện pháp bảo đảm không thể tồn tại một cách độc lập mà nó có mối liên hệ
lệ thuộc vào quan hệ nghĩa vụ chính (nghĩa vụ trả tiền vay), theo Bộ luật dân sự 2005 tại
các điều 327, 343, 362, 373 quy định hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, tín chấp phải
được lập thành văn bản, có thể lập riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Vì vậy nội dung
và hiệu lực của nó cũng phải phù hợp và phụ thuộc vào nghĩa vụ chính, hiệu lực của việc
giao kết hợp đồng đảm bảo luôn phụ thuộc vào hợp đồng chính vì đối tượng của hợp đồng
đảm bảo chính là nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong hợp đồng chính.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 17

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh



Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

Các biện pháp bảo đảm phát sinh và tồn tại song song với sự tồn tại của nghĩa vụ
chính. Khi nghĩa vụ chính được thực hiện đúng và đầy đủ tức là bên có nghĩa vụ đã hoàn
lại số tiền vay tại các tổ chức tín dụng kể cả gốc và lãi như thỏa thuận thì các biện pháp
bảo đảm này cũng đương nhiên hết hiệu lực. Nếu trong trường hợp các biện pháp bảo
đảm bị vô hiệu vì lí do nào đó thì nghĩa vụ chính vẫn có hiệu lực bình thường.
1.2.2. Mục đích của các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nhằm
nâng cao trách nhiệm của các bên
Mục đích của các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng đặt ra trong mỗi trường
hợp phụ thuộc vào nội dung thỏa thuận của các bên cũng như chức năng của biện pháp
đảm bảo đó. Suy cho cùng việc các bên tham gia đều hướng tới mục tiêu chung là nâng
cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ hoặc ràng buộc, nâng cao trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với nhau của các bên tham gia quan hệ (ví dụ như bảo đảm
bằng phương pháp đặt cọc trong mua bán). Thông thường thì các biện pháp bảo đảm để
nâng cao trách nhiện của bên có nghĩa vụ (bên đi vay), tạo quyền ưu tiên cho bên tổ chức
tín dụng (bên cho vay) khi bên có nghĩa vụ có thể là con nợ của nhiều chủ nợ không có
bảo đảm.
Việc có bảo đảm làm cho người có nghĩa vụ phải tự giác chấp hành nghĩa vụ một
cách nghiêm chỉnh. Nó không chỉ có lợi cho phía các tổ chức tín dụng mà còn có lợi cho
cả phía khách hàng vay bởi nhờ có đảm bảo mà họ dễ dàng có được các khoản tín dụng
lớn, có thể có thêm các quyền yêu cầu đối với bên chủ thể có quyền, trong khi nếu không
có bảo đảm thì dễ bị từ chối.
1.2.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng mang tính chất dự
phòng
Việc xác lập các biện pháp bảo đảm thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ một cách
đúng và đầy đủ, nó cũng là một biện pháp dự phòng khi nghĩa vụ bị vi phạm.Tính dự
phòng thể hiện khi khách hàng vay không thực hiện đúng, hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ thì bên có quyền bằng các biện pháp do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa
thuận với nhau đem tài sản đảm bảo ra xử lý thanh toán khấu trừ cho nghĩa vụ khi đến

hạn. Điều này cho thấy, các tổ chức tín dụng có được thế chủ động trong việc bảo toàn số
tiền mà mình đã cho vay hạn chế rủi ro không thể thu hồi vốn.
1.2.4. Phạm vi của các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng nằm
trong giới hạn nghĩa vụ đã được xác định
Theo điều 319 bộ luật dân sự 2005 thì nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 18

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa
thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm
toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.
Bởi các biện pháp bảo đảm được xác lập trên sự thỏa thuận của các bên nên phạm
vi bảo đảm cũng nằm trong giới hạn đó, trong trường hợp mà các bên không có thỏa
thuận cụ thể về phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ sẽ được coi là được bảo đảm toàn bộ. Điều
này có nghĩa là quyền của bên có quyền được đảm bảo thực hiện và không vượt quá phạm
vi nghĩa vụ được xác định trong quan hệ nghĩa vụ chính. Thông thường các tài sản được
đưa ra để bảo đảm có giá trị cao hơn giá trị của nghĩa vụ đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ
nhưng bên có quyền cũng chỉ có thể lấy đi phần quyền của mình ngang với nghĩa vụ được
bảo đảm đã xác định.
1.2.5. Các biện pháp bảo đảm chỉ bị đưa ra xử lý thực hiện nghĩa vụ chính khi
nghĩa vụ chính bị vi phạm
Các biện pháp đảm bảo được đặt ra nhằm mục đích dự phòng, kích thích thực hiện
nghĩa vụ chính nên khi bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì quyền

yêu cầu hay hành vi thực hiện quyền yêu cầu đối với tài sản bảo đảm của bên có quyền sẽ
không có căn cứ phát sinh. Vì thế nghĩa vụ chính được thực hiện đúng và đầy đủ thì nghĩa
vụ bảo đảm đương nhiên chấm dứt và không còn giá trị pháp lý. Chỉ khi nghĩa vụ chính
đến hạn mà không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng mới làm phát sinh cơ sở để
bên có quyền xử lý đảm bảo quyền lợi của họ tức là đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy
ra, và hành vi đó là do bên có nghĩa vụ thực hiện.
Do vậy các biện pháp này có tác dụng ngăn chặn sự vi phạm và thúc đẩy người đi
vay thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự nguyện, trung thực, các tổ chức tín dụng có
thể yên tâm trong việc bảo vệ quyền lợi của mình.
1.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam phân
loại và vai trò
Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể định nghĩa thế nào là bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ví dụ như trong Bộ luật dân sự 2005 và nghị định 163/
2006/NĐ-CP mà chỉ đưa ra các phương pháp đảm bảo, các văn bản trước đó như nghị
định 178/1999/NĐ-CP tại điều 2 khoản 1 có nêu: “Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín
dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu
hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.” Hoặc như theo điều 2 khoản 1 nghị định
165/1999/NĐ-CP quy định: “Giao dịch bảo đảm là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 19

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.”

Xét từ quy định về bảo đảm nêu trên ta có thể hiểu đảm bảo thực hiện hợp đồng tín
dụng bản chất là đảm bảo tiền vay, đây là các biện pháp do pháp luật quy định, phát sinh
khi các bên tham gia quan hệ vay tiền thỏa thuận xác lập, nhằm mục đích thúc đẩy người
có nghĩa vụ (bên vay) trả tiền, thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của bên có quyền
(bên cho vay), đồng thời tạo điều kiện cho bên cho vay thực hiện các quyền của mình
trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
trên cơ sở pháp luật quy định hoặc sự thỏa thuận mà các bên đã giao kết.
Bảo đảm tiền vay dựa trên ý chí chủ quan của các bên, các chủ thể có thể tự do lựa
chọn, thỏa thuận thiết lập lên trên cơ sở luật pháp quy định để tạo sự yên tâm cho nhau
trong mối quan hệ nghĩa vụ này, nó dự phòng khắc phục tình trạng vi phạm cho bên bị
thiệt hại. Tuy nhiên những thỏa thuận này không được trái với quy định của pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ đó. Nếu các chủ thể thiết lập mối quan hệ nghĩa vụ chỉ thỏa thuận
về việc chọn phương thức đảm bảo mà không thỏa thuận những nội dung trong đó thì
mặc nhiên sẽ được áp dụng theo pháp luật về biện pháp đảm bảo đó, việc thỏa thuận chi
tiết về loại hình đảm bảo của các bên có tác dụng phát huy hiệu lực của phương thức đó
một cách toàn diện nhất.
Xét về bản chất tài sản đem ra dùng để đảm bảo không phải là mục tiêu mà các
bên hướng tới, bên cho vay quyết định cho vay hay không phụ thuộc vào tính khả thi của
dự án sử dụng đồng vốn đó, khả năng tài chính của khách hàng để có thể thu hồi vốn một
cách tốt nhất. Nếu tổ chức tín dụng cấp một khoản tiền ứng trước dựa vào đảm bảo tiền
vay và lại biết chắc là sẽ bán tài sản bảo đảm đó để có thể thu hồi vốn thì sẽ không bao
giờ cho vay. Chính vì vậy bảo đảm tiền vay không phải là yếu tố quyết định cho việc vay
tiền nhưng việc thu hồi vốn sẽ được giảm bớt phần nào rủi ro.
Bảo đảm tiền vay được xác lập trên nhiều yếu tố khác nhau xác định khả năng trả
nợ đúng thời hạn, bảo vệ nguồn vốn của các tổ chức tín dụng như nguồn thu nhập thường
xuyên hàng tháng của khách hàng, tài sản thuộc sở hữu của khách hàng được đem ra đảm
bảo cho số tiền vay, tài sản, uy tín của chủ thể đứng ra bảo lãnh, đối với các doanh nghiệp
kinh doanh thì còn có căn cứ vào số tiền có từ việc bán sản phẩm, hàng hóa mà doanh
nghiệp đó đang sản xuất kinh doanh. Như vậy đảm bảo tiền vay không đơn giản là việc
cho vay phải có tài sản dùng để đảm bảo: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh… hiện nay ngoài

việc đảm bảo bằng tài sản cụ thể pháp luật còn quy định các hình thức đảm bảo không

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 20

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

bằng biện pháp tài sản các tổ chức tín dụng tự tìm kiếm lựa chọn khách hàng, những
khách hàng được sự ưu đãi này thường rất có uy tín, có mối quan hệ đối tác lâu dài,
thường xuyên, tình hình tài chính ổn định, việc vay trả luôn thực hiện đúng hạn.
1.3.1. Phân loại
Theo pháp luật Dân sự Việt Nam, các văn bản pháp luật liên quan hiện hành quy
định, căn cứ vào tính chất, đối tượng tài sản, phương thức thực hiện ta có các nhóm biện
pháp bảo đảm như sau:
1.3.1.1. Bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân
1.3.1.1.1. Bảo đảm đối vật.
Đây là hình thức bảo đảm mà trong đó tài sản được dùng để bảo đảm là động sản,
bất động sản, của bên vay thông qua các biện pháp bảo đảm,hình thức này có thể xem như
là một loại bảo đảm đối vật pháp định được quy định trong Luật Dân sự Việt Nam đó là
đặc quyền của một số chủ thể có quyền ưu tiên thanh toán trước cả các chủ nợ có bảo đảm
khác. Quyền ưu tiên này do pháp luật quy định và bảo đảm thi hành. Một hình thức bảo
đảm đối vật nữa cũng được quy định khá cụ thể đó là quyền cầm giữ hàng hải được quy
định trong Bộ luật Hàng hải 2005.
Quyền cầm giữ hàng hải được quy định tại các điều 36, 37, 38, 39 Bộ luật Hàng
hải 2005. Như vậy quyền cầm giữ hàng hải là quyền của người có khiếu nại hàng hải,
được ưu tiên trong việc đòi bồi thường đối với chủ tàu, người thuê tàu, người khai thác

tàu mà tàu biển đó đã làm phát sinh khiếu nại hàng hải. Khiếu nại hàng hải là việc một
bên yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ phát sinh liên quan đến hoạt động hàng hải.
Quyền cầm giữ hàng hải có thứ tự ưu tiên cao hơn các khiếu nại hàng hải được bảo đảm
bằng thế chấp tàu biển và các giao dịch bảo đảm khác. Quyền cầm giữ hàng hải được thực
hiện thông qua Toà án có thẩm quyền bằng quyết định bắt giữ tàu biển mà tàu biển đó
liên quan đến khiếu nại hàng hải làm phát sinh quyền cầm giữ hàng hải. Người có khiếu
nại hàng hải có quyền cầm giữ hàng hải đối với tàu biển để bảo đảm cho các khiếu nại
hàng hải mặc dù tàu biển đó đã được thế chấp hoặc chủ tàu đã thực hiện các giao dịch bảo
đảm khác để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác trên cơ sở hợp đồng. Quyền cầm giữ hàng
hải đối với tàu biển không bị ảnh hưởng khi có sự thay đổi chủ tàu, người thuê tàu, người
khai thác tàu, dù người mua tàu biết hay không biết về việc tàu biển đã liên quan đến
khiếu nại hàng hải làm phát sinh quyền cầm giữ hàng hải.4
1.3.1.1.2. Bảo đảm đối nhân
4

Điều 36, 37, 38, 39 Bộ luật Hàng hải 2005.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 21

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

Đây là hình thức bảo đảm mà theo đó người thứ ba đứng ra bảo lãnh cho việc thực
hiện nghĩa vụ trả tiền vay, đây là điểm đặc biệt khác của giữa bảo lãnh và các hình thức
bảo đảm khác. Người thứ ba ở đây có thể là một cá nhân, hoặc một vài cá nhân nào đó
cùng đứng ra cam kết sẽ chịu trách nhiệm trước bên có quyền về toàn bộ số tiền vay hoặc

chỉ một phần trong đó khi đến hạn mà người có nghĩa vụ không trả nợ hoặc không có khả
năng trả. Tùy thuộc vào sự thỏa thuận thì bảo lãnh có thể có đảm bảo hoặc không có đảm
bảo, có đảm bảo tức là người bảo lãnh sẽ chỉ ra một tài sản cụ thể thuộc quyền sở hữu của
mình dùng để bảo đảm, bảo lãnh không có bảo đảm là người bảo lãnh không chỉ ra tài
sản cụ thể dùng để bảo đảm, nếu rủi ro xảy ra người được bảo lãnh không thể trả tiền vay
hoặc không trả thì bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh sẽ thỏa thuận chỉ ra một tài sản cụ
thể để thực hiện nghĩa vụ này.5
1.3.1.2. Bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản
1.3.1.2.1. Bảo đảm không bằng tài sản
Đây là biện pháp bảo đảm có sự góp mặt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tham gia, thông thường là Chính phủ, mục đích của các biện pháp này nhằm tạo điều kiện
cho khách hàng vay tiếp cận được nguồn vốn kích thích sản xuất kinh doanh hay hỗ trợ
đối tượng nghèo làm kinh tế. Hoặc các tổ chức tín dụng tự tìm kiếm lựa chọn khách hàng
điều kiện ở đây thường là dựa vào mối quan hệ làm ăn của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng, việc khách hàng thường xuyên giao dịch, trung thực trong hoạt động kinh doanh có
tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay, hoàn trả nợ vay…. Vấn đề uy tín
trong phương pháp này chính là một “tài sản” đảm bảo đối với khoản vay.
Các hình thức bảo đảm không bằng tài sản bao gồm:
● Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản.
● Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của
Chính phủ.
● Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội.6
1.3.1.2.2 Bảo đảm bằng tài sản.
Để củng cố lòng tin của các tố chức tín dụng đối với khả năng trả nợ của mình bên
đi vay có thể thỏa thuận với các tổ chức tín dụng về phương pháp đảm bảothực hiện nghĩa
5
6


Điều 369 Bộ luật Dân sự 2005, điều 47 nghị định 163/2006/NĐ-CP.
Lê Huỳnh Phương Chinh, Tập bài giảng luật ngân hàng, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, năm 2010, trang 59.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 22

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

vụ, để bên có quyền thực hiện quyền của mình một cách chủ động bằng việc nắm giữ tài
sản hoặc quyền sở hữu tài sản. Như vậy bên có quyền vừa có được sự đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ vừa dành thế chủ động trong việc thực hiện quyền, tránh được các tranh dành
của các chủ nợ khác có cùng con nợ.
Theo quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và nghị định 163/2006/NĐ-CP thì có các
biện pháp sau:
● Cầm cố.
● Thế chấp.
● Bảo lãnh (bằng tài sản).
● Bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai.
Trên thực tế đây là biện pháp bảo đảm rất hữu hiệu, thường được các chủ thể sử
dụng trong giao dịch vay tiền tại các tổ chức tín dụng. So với các biện bảo đảm không
bằng tài sản thì các biện pháp này giúp khách hàng dễ tiếp cận nguồn vốn của các tổ chức
tín dụng hơn, tạo cơ hội thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh của họ khi chưa đủ vốn
hoặc trường hợp không có tài sản ở hiện tại để đảm bảo vay vốn. Các tổ chức tín dụng
cũng có biện pháp dự phòng thu hồi vốn vay mở ra nhiều cơ hội phát triển.
Ngoài ra bảo đảm bằng tài sản có thể chia ra hai loại:
Bảo đảm bằng tài sản hữu hình

Là bảo đảm bằng những tài sản hiện hữu như động sản, bất động sản,..
Bảo đảm bằng tài sản vô hình.
Là bảo đảm bằng các tài sản mang tính chất quyền như quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sở hữu công nghiệp…
1.3.2. Vai trò của các biện pháp bảo đảm
1.3.2.1. Đối với các bên
Hạn chế tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia.
Trong hoạt động kinh doanh, các bên luôn hướng tới mục tiêu lợi nhuận nếu không
có được tiếng nói chung của các bên khi tham gia thì các tranh chấp xảy ra là điều khó
tránh khỏi. Trong hợp đồng tín dụng các bên tham gia có quyền thỏa thuận với nhau áp
dụng biện pháp bảo đảm cũng như thỏa thuận các điều khoản chi tiết trong đó hướng tới
đôi bên cùng có lợi. Thông thường các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay có
mục tiêu bảo vệ một cách khách quan nhất quyền lợi cho cả bên có nghĩa vụ và bên có
quyền, tuy nhiên thực tiễn áp dụng có nhiều sự việc xảy ra có thể ảnh hưởng tới quyền lợi
bên vay hoặc bên cho vay. Vì thế các bên tùy hoàn cảnh, tùy ý chí có thể thỏa thuận một

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 23

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

phương thức có lợi nhất để áp dụng tránh các tranh chấp không cần thiết.
1.3.2.1.1. Bên đi vay
Tạo điều kiện cho bên vay dễ dàng tiếp cận nguồn vốn.
Khi có được biện pháp bảo đảm an toàn thì các tổ chức tín dụng sẽ dễ dàng hơn
trong việc cho vay vốn cũng như việc thỏa thuận quyền và nghĩa vụ giữa các bên thoáng

hơn. Ví dụ như khách hàng vay tín dụng nhằm mục đích kinh doanh và khi hạn trả nợ đã
đến nhưng mục đích kinh doanh đó chưa hoàn tất và vốn bỏ ra chưa thu về đầy đủ, cần
thêm một khoảng thời gian ngắn nữa để có thể hoàn tất thì có thể thỏa thuận gia hạn thêm
với ngân hàng trên cơ sở được đảm bảo bằng tài sản trước đó. Hoặc trường hợp tuy chưa
thanh toán nợ cũ nhưng cần thêm vốn để hỗ trợ sản xuất kinh doanh thì các giao dịch có
đảm bảo cung vẫn dễ được xem xét cho vay hơn.
1.3.2.1.2. Tổ chức tín dụng
Đảm bảo an toàn cho nguồn vốn của các tổ chức tín dụng trong hoạt động cho vay.
Trong nền kinh tế hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức tín dụng mới hình
thành, mặc dù đây là một hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro xảy ra mà
khả năng ngăn ngừa, chống đỡ của các tổ chức tín dụng thì không thực sự mạnh. Gặp
phải nhiều yếu tố rủi ro nhưng yếu tố đáng lưu ý nhất, dễ xảy ra nhất là hoạt động tín
dụng, bởi thông thường khách hàng vay luôn có xu hướng mang khoản tín dụng đó đem
kinh doanh mà trong hoạt động kinh doanh thì luôn có sự rủi ro trong đó vì vậy người đi
vay có khả năng không thể hoàn trả lãi hoặc cả lãi lẫn gốc khoản tín dụng đó một cách
đầy đủ đúng hạn. Tình trạng này có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan nhưng
kết quả vẫn làngười đi vay không còn khả năng tài chính để trang trải món nợ. Tuy nhiên
bên cạnh đó trên thực tế cũng có những trường hợp người đi vay có khả năng tài chính
nhưng lại dây dưa không chịu thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình hoặc tìm cách lừa đảo
chiếm đoạt luôn khoản vay đó. Mặc dù trên thực tế việc xác lập quan hệ tín dụng này giữa
các tổ chức tín dụng và khách hàng luôn được xác lập bằng các điều khoản cụ thể trong
hợp đồng tín dụng nhưng tình trạng vi phạm cam kết vẫn xảy ra khá phổ biến.
Để khắc phục tình trạng trên, đảm bảo an toàn nguồn vốn cho các tổ chức tín dụng
pháp luật có những quy định cụ thể về an toàn trong hoạt động tín dụng và theo đó khi
xác lập mối quan hệ này các bên cần phải tuân theo. Thông thường để tránh khỏi các rủi
ro phát sinh từ phía người đi vay các tổ chức tín dụng quy định ra các điều kiện vay vốn,
trong đó điều kiện về tài sản đảm bảo tiền vay là quan trọng nhất và tài sản này phải có
giá trị đủ để trang trải cho khoản nợ nếu rủi ro xảy ra.

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm


Trang : 24

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


Pháp luật về một số biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng tài sản ở Việt Nam.

Bảo đảm tiền vay còn có tác dụng kích thích hoạt động tín dụng tại các ngân hàng.
Hoạt động tín dụng ở đây gồm có hoạt động huy động vốn và cấp vốn. Nguồn vốn
mà các tổ chức tín dụng có được bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ, và các tài sản của tổ
chức tín dụng đó, để phục vụ nhu cầu vay vốn của khách hàng thì không thể dựa vào vốn
tự có của mình, các tổ chức tín dụng cần huy động thêm từ bên ngoài thông qua các
khoản tiền gửi của khách hàng, các hoạt động huy động vốn, vay từ ngân hàng nhà
nước… như vậy có thể hiểu các tổ chức tín dụng cũng chính là một bên đi vay lớn. Hoạt
động của các tổ chức tín dụng chủ yếu là đi vay để cho vay, thông qua hoạt động của
mình các tổ chức tín dụng luân chuyển liên tục nguồn tiền huy động được sang các khách
hàng đang cần vốn kinh doanh và ngược lại, đây là một hoạt động xuyên suốt nó không
được phép gián đoạn, nếu chỉ một giai đoạn hoàn lại vốn vay của khách hàng vay bị
ngưng trệ vì lí do chủ quan hay khách quan cũng sẽ khiến cho hoạt động tín dụng lâm vào
cảnh khó khăn. Vì vậy, các biện pháp đảm bảo tiền vay có tác dụng to lớn trong việc kích
thích hoạt động tín dụng tại các ngân hàng bởi nếu các bên tuân thủ các điều kiện về vay
vốn, bảo đảm tiền vay thì sẽ hạn chế được các rủi ro tín dụng.

1.3.2.2. Đối với nền kinh tế
Đảm bảo tiền vay kích thích hoạt động tín dụng, tạo điều kiện cho người thiếu vốn
có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng cho thấy từ hoạt động tín dụng một lượng tiền lớn
được luân chuyển qua lại một cách liên tục vào nền kinh tế. Tiền từ các cá nhân, tổ chức
gửi vào các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu sinh lời, số tiền này lại chuyển qua cá nhân tổ
chức khác đang cần vốn kinh doanh, số tiền đó được giao dịch ra ngoài thúc đẩy hoạt

động sản xuất, kinh doanh thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp kích thích sự tăng
trưởng kinh tế theo sự định hướng phát triển kinh tế xã hội.
Nói tóm lại, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung và các biện pháp
đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng nói riêng dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức
nào thì đều nhằm mục tiêu đảm bảo sự ổn định và phát triển bình thường của các quan hệ
tài sản, bảo đảm sự an toàn cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, kinh tế. Sự tồn tại của
hệ thống bảo đảm tiền vay bằng tài sản thông qua quy tắc đảm bảo tiền vay là điều kiện
quan trọng cho thị trường tín dụng phát triển. Do vậy, các biện pháp đảm bảo tiền vay
đóng vai trò to lớn trong việc cấp tín dụng, làm giảm nguy cơ thiệt hại cho chủ nợ, đảm
bảo an toàn cho các khoản vay, là cơ sở đế các tổ chức tín dụng bảo toàn và phát triển

GVHD: Ths. Nguyễn Minh Tâm

Trang : 25

SVTH: Nguyễn Văn Quỳnh


×