Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA tư DOANH và QUỐC DOANH TRONG CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ: 2009 – 2013
ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA TƯ DOANH VÀ
QUỐC DOANH TRONG CẠNH TRANH

Giảng viên hướng dẫn:
Thạc sĩ. Nguyễn Mai Hân
Bộ môn: Luật thương mại

Cần Thơ, Tháng 11/2012

Sinh viên thực hiện:
Ngô Thị Thắm
MSSV: 5095562
Lớp: Thương mại 1-K35


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


…………………………………………………………………………………………...…
…………………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 1

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG


…………………………………………………………………………………………...…
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 2

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người
thân trong gia đình đã luôn quan tâm, lo lắng cho em cả về tinh thần lẫn vật chất để em
có điều kiện phấn đấu học tập đến ngày hôm nay. Thứ hai, em xin gửi lời cảm ơn đến
tất cả các thầy cô đã từng giảng dạy em trong suốt thời gian em còn ngồi trên ghế nhà
trường và trên ghế giảng đường đại học. Chính các thầy cô đã truyền đạt cho em nhiều
kiến thức quý báu, trang bị cho em hành trang để em có thể lập thân, lập nghiệp, trở
thành người có ích cho xã hội. Thứ ba, em xin gửi lời cảm ơn tới các anh, chị, các bạn
đã nhiệt tình trao đổi cùng em những vấn đề mà em còn vướng mắc. Và cuối cùng em
xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến cô Nguyễn Mai Hân – người đã tận tình chỉ bảo, đồng
hành cùng em trong suốt quá trình làm luận văn để em có thể hoàn thành tốt đề tài
nghiên cứu của mình đúng tiến độ.

Xin cảm ơn tất cả mọi người, chúc mọi người sức khoẻ và thành đạt!
Sinh viên thực hiện
Ngô Thị Thắm

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 3

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................ 6
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................. 6
2. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................... 7
3. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8
5. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TƯ DOANH VÀ QUỐC DOANH10
1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tư doanh và quốc doanh ...... 10
1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tư doanh................................ 10
1.1.2. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của quốc doanh ........................... 14
1.2. Khái niệm, đặc điểm tư doanh và quốc doanh......................................... 17
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tư doanh............................................................... 17
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm quốc doanh .......................................................... 19
1.3. Các loại hình tư doanh và quốc doanh ..................................................... 20

1.3.1. Các loại hình tư doanh hiện nay ............................................................ 20
1.3.2. Các loại hình quốc doanh hiện nay........................................................ 21
1.4. Vai trò của tư doanh và quốc doanh trong nền kinh tế ........................... 23
1.4.1. Vai trò của tư doanh trong nền kinh tế .................................................. 23
1.4.1.1. Tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước ............................. 23
1.4.1.2. Giải quyết việc làm cho nhiều lao động .......................................... 24
1.4.1.3. Thúc đẩy môi trường cạnh tranh thêm năng động ........................... 25
1.4.2. Vai trò của quốc doanh trong nền kinh tế .............................................. 25
1.4.2.1. Là công cụ hữu hiệu để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.......... 25
1.4.2.2. Giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.............................................. 26
1.4.2.3. Đảm bảo nhu cầu chung của nền kinh tế và lợi ích công cộng. ....... 26
1.5. Quyền bình đẳng và vai trò của quyền bình đẳng trong môi trường cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ........................................................................... 26
1.5.1. Khái niệm về quyền bình đẳng.............................................................. 26
1.5.2. Vai trò của quyền bình đẳng trong cạnh tranh ....................................... 27
1.5.3. Cơ sở pháp lý về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp..................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ NHỮNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA TƯ DOANH
VÀ QUỐC DOANH TRONG CẠNH TRANH .................................................. 29

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 4

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
2.1. Những bất bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh thể hiện trong quy định
của pháp luật .................................................................................................... 29

2.1.1. Pháp luật đất đai.................................................................................... 29
2.1.2. Pháp luật đầu tư .................................................................................... 33
2.1.3. Pháp luật về tài chính............................................................................ 39
2.1.3.1. Về vốn đầu tư................................................................................. 39
2.1.3.2. Về huy động vốn ............................................................................ 40
2.2. Thể hiện qua chính sách Nhà nước........................................................... 42
2.3. Thể hiện ở một số khía cạnh khác ............................................................ 44
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO QUYỀN BÌNH ĐẲNG
GIỮA TƯ DOANH VÀ QUỐC DOANH ........................................................... 48
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ................................................................. 48
3.1.1. Pháp luật đất đai.................................................................................... 48
3.1.2. Pháp luật đầu tư .................................................................................... 49
3.1.3. Pháp luật tài chính................................................................................. 50
3.2. Xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp nhà nước trong những ngành nghề không
cần thiết ........................................................................................................... .52
3.3. Đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi công ty nhà nước đồng thời áp dụng cơ
chế điều chỉnh chung là Luật doanh nghiệp năm 2005 .................................. 54
3.4. Loại bỏ những chính sách tạo nên sự phân biệt đối xử giữa tư doanh và
quốc doanh. ...................................................................................................... 55
3.5. Đặt quốc doanh vào môi trường cạnh tranh công bằng với tư doanh và các
doanh nghiệp khác. .......................................................................................... 56
3.6. Tư doanh tự tạo nên thế cạnh tranh cho mình ........................................ 57
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 5

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, Việt Nam từng là nước lạc hậu và kém
phát triển. Cộng với việc áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, kinh tế nước
ta đã bị kìm hãm trong thời gian dài. Trong thời gian này, chỉ có công ty quốc doanh
và kinh tế tập thể (hợp tác xã) mới được khuyến khích phát triển. Song hai thành phần
kinh tế này tỏ ra không phù hợp khi phân chia kết quả theo kiểu cào bằng, hệ lụy đó
làm cho sản phẩm tạo ra trong nước không nhiều, kinh tế đất nước không được cải
thiện. Mãi đến khi nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ra đời, chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN mới được áp dụng. Đây là một chuyển biến hết sức
quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, đổi mới lần này đã tạo cơ hội cho nhiều thành
phần kinh tế ra đời và phát triển, thúc đẩy môi trường cạnh tranh thêm năng động, sức
sản xuất ngày càng tăng và xã hội không ngừng tiến bộ.
Trong các thành phần kinh tế, bên cạnh doanh nghiệp quốc doanh thì tư doanh
cũng góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế trong nước. Từ khi ra đời đến
nay, tư doanh luôn thể hiện là thành phần kinh tế năng động, đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế trong nước không kém gì các doanh nghiệp quốc doanh, đồng thời
chung tay cùng nhà nước giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề việc làm
và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Tuy nhiên có một thực trạng đang
tồn tại đáng suy ngẫm hiện nay, mặc dù là thành phần kinh tế làm ăn khá hiệu quả,
đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng dần qua các năm, song số doanh nghiệp tư
doanh bị phá sản hoặc giải thể ngày một nhiều, từ đó nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như:
thất nghiệp, tệ nạn xã hội …. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề là đứng trước thời hội
nhập, bên cạnh những cơ hội, doanh nghiệp tư doanh phải đối mặt với rất nhiều khó

khăn, thử thách, trong đó vấn đề cạnh tranh là yếu tố quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp.
Dù các văn kiện của Đảng và chính sách của nhà nước luôn khẳng định các
thành phần kinh tế đều được đối xử bình đẳng, được tạo điều kiện phát triển như nhau
nhưng trên thực tế, giữa tư doanh và quốc doanh còn tồn tại nhiều vấn đề cho thấy
chưa có sự bình đẳng thật sự. Cụ thể là các doanh nghiệp quốc doanh được xem là giữ
vai trò chủ đạo, là đầu tàu kinh tế nên được hưởng rất nhiều đặc quyền, đặc lợi, được
ưu tiên phát triển hơn so với các thành phần kinh tế khác trong khi những con số thống

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 6

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
kê gần đây cho thấy các doanh nghiệp quốc doanh dù có nhiều lợi thế phát triển là vậy
song lại đóng góp rất khiêm tốn cho ngân sách nhà nước, cho tăng trưởng tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), và trong việc tạo việc làm mới, phát triển công nghiệp, và xuất
khẩu. Trong khi đó, khu vực tư doanh kinh doanh có hiệu quả hơn, đang ngày một
trưởng thành và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế lại bị chèn lấn, thiếu nguồn lực,
và phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh không bình đẳng.
Ở một nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, luôn luôn khát vốn và
có áp lực tạo ra nhiều việc làm mới như Việt Nam thì năng lực sử dụng vốn một cách
hiệu quả, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp và xuất khẩu là những tiền đề thiết yếu để giúp đất nước phát triển.
Để góp phần xây dựng hoàn thiện pháp luật, dần xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa tư
doanh và quốc doanh trong cạnh tranh, người viết đã chọn “Thực trạng và giải pháp

nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh trong cạnh tranh” là đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình
đẳng giữa tư doanh và quốc doanh trong cạnh tranh”, nhằm làm sáng tỏ khái niệm, đặc
điểm cũng như vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh và tư doanh. Đồng thời làm
rõ những mặt hạn chế của pháp luật cũng như chính sách nhà nước khiến cho các doanh
nghiệp tư doanh không được bình đẳng với quốc doanh. Từ đó nêu ra được một số giải
pháp nhằm khắc phục những tình trạng bất bình đẳng ấy.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư
doanh và quốc doanh” người viết tập trung nghiên cứu vấn đề trên ba phương diện: Lý
luận, pháp lý và thực tiễn.
Trên phương diện lý luận, người viết chủ yếu nghiên cứu chung nhất các vấn đề
về lịch sử ra đời, quá trình phát triển, đặc điểm cũng như vai trò của tư doanh và quốc
doanh trong nền kinh tế để từ đó hiểu rõ hơn tầm quan trọng của hai thành phần kinh tế
trên. Bên cạnh đó người viết làm rõ vấn đề về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
tư doanh và quốc doanh trong cạnh tranh.
Trên phương diện pháp lý, người viết chỉ ra những quy định còn thể hiện sự bất
cập của pháp luật trong vấn đề bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh trong vấn đề
tiếp cận nguồn vốn, chính sách tài chính, đất đai và pháp luật cạnh tranh. Trên cơ sở
GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 7

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh

đó, người viết nêu lên những vướng mắc trên thực tế và phân tích sự cần thiết phải sửa
đổi để pháp luật được hoàn thiện hơn.
Trên phương diện thực tiễn, người viết liên hệ so sánh giữa pháp lý và thực tế,
bên cạnh đó còn phân tích những trường hợp bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa tư
doanh và quốc doanh để chỉ ra những mặt hạn chế của pháp lý và những chính sách
của nhà nước đối với doanh nghiệp quốc doanh và tư doanh. Từ những phân tích về
mặt hạn chế của pháp lý trong thực tiễn và nhu cầu cần hoàn thiện pháp luật cũng như
đưa ra cơ chế để đảm bảo tư doanh và quốc doanh đều được đối xử bình đẳng như
nhau, người viết đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích góp phần xóa dần sự bất
bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh trong cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng một số phương pháp như:
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, liệt kê,
đánh giá, so sánh, tổng hợp để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Cụ thể là phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng được người viết sử dụng để làm rõ các quan
điểm về quyền bình đẳng, về kinh tế quốc doanh và kinh tế tư doanh, bên cạnh đó, các
phương pháp phân tích, liệt kê, đánh giá, so sánh, tổng hợp được người viết sử dụng
xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để làm rõ hơn đặc điểm, vai trò của tư doanh và
quốc doanh đối với nền kinh tế, đồng thời cũng chỉ ra những điểm còn bất cập của pháp
luật gây nên tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa hai thành phần kinh tế trên
để từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh và quốc
doanh trong cạnh tranh.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn bao gồm ba chương, cụ thể là:
-

Chương 1: Những vấn đề chung về tư doanh và quốc doanh.

- Chương 2: Thực trạng về những bất bình đẳng giữa tư doanh và quốc doanh

trong cạnh tranh.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 8

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
Mặc dù đã rất nỗ lực và cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tuy nhiên, vì thời
gian cũng như kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế nên luận văn còn những thiếu sót
là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của quý Thầy, Cô và của các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 9

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TƯ DOANH VÀ QUỐC DOANH
Kinh tế Việt Nam đã và đang trãi qua quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước
luôn xác định kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, là đầu tàu kinh tế, tư doanh
được xem là động lực cho nền kinh tế vực dậy. Suốt hơn 20 năm qua, trong khi quốc
doanh có nhiều biểu hiện tiêu cực thì thành phần tư doanh đã hoàn thành sứ mệnh của
mình, đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
1.1.

Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tư doanh và quốc doanh

1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tư doanh
Về mặt lịch sử, kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, dưới
thời Pháp thuộc- khi mà hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội
gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên một số lượng đáng kể thương nhân đã ra đời và ươm
mầm cho sự phát triển của đội ngũ doanh nghiệp tư doanh ngày nay ở Việt Nam.
Trong số những thương nhân ban đầu thời Pháp thuộc, có tiếng vang lớn trong lịch sử
kinh tế Việt Nam phải kể đến như ông Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Trương Văn
Bền… Trong thời kỳ Pháp thuộc, cơ sở pháp lí cho hoạt động của doanh nghiệp dựa
trên nền tảng thực dân Pháp cho áp dụng Luật Dân sự và Thương sự giản yếu Nam Kỳ
(1883), Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ (1931), Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1926 - 1929, Luật
Thương mại (1942) của Bảo Đại trên các vũng lãnh thổ Pháp chiếm đóng tại Việt
Nam. Thực chất nội dung của các đạo luật này chịu ảnh hưởng lớn từ Bộ luật Dân sự
(1804) và Luật Thương mại (1807) của nước Pháp. Nhìn chung, số lượng doanh
nghiệp trong thời kỳ trước 1945 ở Việt Nam không nhiều, cho tới tận những năm đầu
thập kỷ 40 của thế kỷ XX, lực lượng kinh doanh người Việt vẫn còn rất nhỏ bé. Các
doanh nghiệp tư doanh Việt Nam chỉ có quy mô vốn tương đương 1% tổng vốn đầu tư
của nền kinh tế và sử dụng 9% tổng số lao động làm thuê trong công nghiệp.1 Kể từ
khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà
đã ban hành chính sách xoá bỏ mọi sự hạn chế của chế độ thực dân Pháp đối với các
thủ tục đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cho phép các

công ty ngoại quốc được tiến hành các hoạt động kinh doanh như trước tháng 08/1945.
Ở giai đoạn từ năm 1945 – 1954, các doanh nghiệp dân doanh trong nước cũng được
phép kinh doanh trong một số ngành nghề mà Nhà nước Việt Nam quy định, nhưng
1

Trần Huỳnh Thanh Nghị, Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới, có thể truy cập tại website:
/>
GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 10

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
phải theo trình tự, thủ tục chặt chẽ luật định. Ví dụ, việc buôn bán vàng trong nước,
không cứ là vàng gì, phải do những nhà buôn có giấy phép của Uỷ ban hành chính
tỉnh, thị xã hay thành phố. Mặc dù giai đoạn này đất nước gặp vô vàn khó khăn về cả
về kinh tế lẫn chính trị, số lượng nhà buôn (tiền thân của doanh nghiệp tư doanh ngày
nay) nếu so sánh với DN quốc gia (doanh nghiệp nhà nước) thì vẫn còn ít ỏi nhưng
cũng đã đóng đáng kể công sức và tài sản cho công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau này, khi đất nước bước vào giai đoạn chia cắt 1954 – 1975, tình hình kinh
tế, chính trị - xã hội ở Việt Nam có những biến động lớn. Ở Miền Bắc, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai thành phần
kinh tế và hai hình thức sở hữu là kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu Nhà nước (toàn
dân) và kinh tế tập thể dựa trên hình thức sở hữu tập thể. Chúng ta cho rằng: chỉ có
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể mới là những thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
còn các thành phần kinh tế khác đều là phi xã hội chủ nghĩa, mà phi xã hội chủ nghĩa
thì không thể tồn tại trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, cần phải xóa bỏ một cách triệt

để. Từ tư tưởng đó, hàng loạt chính sách đã được đề ra và được thực hiện như: quốc
hữu hóa, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa…Với mục đích xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai thành phần
kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể đồng thời xóa bỏ kinh tế tư doanh. Dù
hoàn cảnh không thuận lợi nhưng kinh tế tư doanh vẫn đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, nhất là giai đoạn khôi phục kinh tế ở Miền Bắc từ năm 1955- 1957.
Năm 1955, công nghiệp tư nhân và tiểu thủ công nghiệp ở Miền Bắc có tới 51.688 cơ
sở, với 128.622 công nhân, đến năm 1956 tăng lên thành 54.985 cơ sở, với 161.241
công nhân. Trong giai đoạn này, thương nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao, 71,8%
tổng mức bán buôn và 79,7% tổng mức bán lẻ. Đến năm 1957 thì kinh tế tư bản tư
nhân, tiểu chủ, cá thể chiếm đến 81,9% trong cơ cấu giá trị sản xuất toàn xã hội, nếu so
với kinh tế quốc doanh và công ty hợp danh mới chỉ chiếm 17,9%, kinh tế tập thể và
hợp tác xã chiếm 0,2%.2
Trong lúc đó, ở Miền Nam, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì những loại hình
doanh nghiệp đa dạng, bao gồm cả sở hữu tư nhân và đầu tư nước ngoài. Họ đã cho
ban hành chính sách bảo hộ cho doanh nghiệp trong nước, đánh thuế cao vào hàng hoá
nhập khẩu, ưu đãi thuế cho nhập khẩu nguyên liệu của doanh nghiệp. Trong thời kỳ
này, Chính quyền Sài Gòn cũng đã cho ban hành Bộ luật Thương mại 1972 điều chỉnh
2

GS.TS Vũ Đình Bách, Phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam – Lí luận và thực
tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004, tr.428.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 11

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
những vấn đề có liên quan đến công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh. Họ công nhận và phát triển các hình thức kinh doanh thuộc sở hữu tư nhân,
đề cao tự do kinh doanh. Có lẽ vì thế mà các doanh nghiệp ở Miền Nam phát triển khá
mạnh dù chiến tranh diễn ra với một mức độ ngày càng khốc liệt hơn, rủi ro cho hoạt
động kinh doanh lớn hơn. Thời kỳ này chứng kiến sự trưởng thành của một thế hệ
thương nhân khác trong thời đánh Mỹ như Trần Thành – được biệt danh Vua lúa gạo
Chợ Lớn, Ông Trương Văn Khôi – vua bột giặt Viso, Ông Nguyễn Tấn Đòi – vua ngân
hàng đã ít nhiều làm rạng danh đội ngũ thương nhân Việt Nam và phần nào khẳng định
vị trí của tư doanh đối với kinh tế và xã hội Việt Nam.
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước ta lại áp dụng chính sách kinh
tế xã hội chủ nghĩa ở cả hai miền Nam-Bắc, điều đó làm cho các nhà kinh doanh, các
công ty, các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chỉ giữ một vai trò hạn chế dưới tác
động của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các hình thức sở hữu tư nhân dưới dạng
doanh nghiệp bị hạn chế tồn tại ở Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã tiến hành quốc
hữu hoá 32.000 cơ sở sản xuất kinh doanh của cả người Việt Nam lẫn người nước
ngoài.3 Trong thời gian từ năm 1979 – 1986, trên toàn lãnh thổ Việt Nam, các loại hình
doanh nghiệp có nguồn gốc sở hữu ngoài nhà nước và ngoài tập thể không được phép
tồn tại, chỉ có doanh nghiệp quốc doanh, cơ sở sản xuất thuộc sở hữu tập thể và hợp tác
xã mới được khuyến khích tồn tại. Hệ quả gây ra là một nền kinh tế kém phát triển, trì
trệ không mang lại hiệu quả kinh tế, không khai thác được tiềm năng đầu tư cho sản
xuất kinh doanh. Trong xã hội phát sinh các hoạt động kinh tế tư nhân ngầm. Nền kinh
tế lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trước áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thông qua đường lối, chủ
trương đổi mới kinh tế với cơ cấu một nền kinh tế mới năng động hơn có sự hiện diện
của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân được tồn tại, phát triển. Trên
cơ sở đó, ngày 09/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) đã ban hành Nghị định số

27/1988/NĐ-HĐBT cho phép công dân được thuê mướn công nhân và mở mang xí
nghiệp nhưng phải có đăng ký kinh doanh tại UBND cấp tỉnh. Tiếp nối quy định này,
hàng loạt các xí nghiệp tư doanh đã được thành lập, thể hiện khát vọng kinh doanh làm

3

Lê Bảo Long, Nguyễn Thị Phương Trang, Tiếng nói doanh nghiệp, Nxb Tư Pháp, năm 2005, .tr18.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 12

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
giàu của một bộ phận dân chúng Việt Nam sau thời gian dài sức sản xuất bị trói chặt
bởi chính sách kinh tế bao cấp của Nhà nước.
Ngày 21 tháng 12 năm 1990, Quốc hội Việt Nam ban hành hai đạo luật quan
trọng với mục đích khôi phục và chấn hưng kinh tế tư nhân đó là Luật doanh nghiệp tư
nhân và Luật công ty. Đây được xem là nấc thang quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế tư doanh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, luật doanh nghiệp tư
nhân đã đem lại kết quả không thành công như mong đợi cho sự phục hưng của kinh tế
tư nhân. Điều này đòi hỏi phải thay thế luật Doanh nghiệp tư nhân và luật công ty bằng
một văn bản mới tiến bộ và phù hợp hơn.
Trước nhu cầu đó, ngày 12-6-1999 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông
qua với những quy định thông thoáng hơn từ việc thành lập doanh nghiệp đến những
quy định về hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Chính những ưu điểm đó nên sau khi
có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2000 đã có hàng nghìn doanh nghiệp được

thành lập trong cả nước. Đây là con số chưa từng có và là một dấu hiệu cho thấy sự
phát triển nhanh chóng của kinh tế tư nhân. Chỉ tính riêng trong năm 2000, số doanh
nghiệp mới thành lập thuộc kinh tế tư nhân là 14.400 doanh nghiệp, nhiều gấp 4 lần
năm 1999. Tổng số vốn huy động vào sản xuất kinh doanh đạt khoản 24.000 tỉ đồng,
tăng gấp 5 lần so với năm 1999. Tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2001, có 4000
doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký khoảng 4.400 tỉ đồng, gấp 1,5 lần
về số lượng doanh nghiệp và gấp 2 lần về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 20004.
Từ những con số trên có thể thấy hiệu quả tích cực mà luật doanh nghiệp năm
1999 mang lại. Tuy nhiên, sau 5 năm áp dụng vào thực tế, Luật Doanh nghiệp 1999 đã
bộc lộ nhiều “yếu điểm” mà lớn nhất là vấn đề quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp bị chi phối bởi rất nhiều luật lệ liên quan với rất nhiều loại thủ tục, giấy phép
“to” giấy phép “con” chồng chéo. Hệ lụy là các doanh nghiệp phải hoàn tất rất nhiều
thủ tục để có thể gia nhập thị trường, kéo theo những tốn kém về chi phí tiền bạc và
thời gian. Theo nhiều chuyên gia, Luật Doanh nghiệp 1999 mới chỉ tập trung nhiều vào
việc tạo điều kiện thông thoáng để doanh nghiệp gia nhập thì trường chứ chưa chú
trọng nhiều đến vấn đề “hậu gia nhập thị trường” và hậu kiểm. Kết quả là sự ra đời của
nhiều “doanh nghiệp ma” và nhiều hạn chế trong việc nâng cao sức cạnh tranh, đặc
biệt là năng lực quản trị để doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Một khiểm khuyết nữa của
Luật Doanh nghiệp 1999 là chưa tạo ra một “sân chơi” chung bình đẳng cho các thành
phần kinh tế. Để khắc phục những hạn chế nói trên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 (có
4

Phạm Tuấn Anh, Cẩm nang thành lập và phát triển doanh nghiệp, Nxb Thanh Niên, năm 2009, tr9-10.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 13

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
hiệu lực từ ngày 01/07/2006) đã được ban hành với nhiều điểm mới hết sức quan trọng.
Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống
nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm
2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện để hoạt động bình đẳng trong điều
kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp
năm 2005 cũng phần nào đáp ứng được yêu cầu đối xử bình đẳng giữa các doanh
nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Song vấn đề bình đẳng giữa các doanh
nghiệp nói chung, thành phần kinh tế tư doanh và quốc doanh nói riêng vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập cần phải được giải quyết để môi trường kinh tế Việt Nam thật sự lành
mạnh.
1.1.2. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của quốc doanh
Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể, do đó nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Ở Việt Nam ngay khi bắt đầu xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa, Đảng và nhà nước đã rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển kinh tế quốc
doanh. Vì vậy mà kinh tế quốc doanh được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân. Để đạt được mục tiêu đó, rất nhiều doanh nghiệp nhà nước đã
được thành lập. Vấn đề địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước được Đảng và Nhà
nước quan tâm thích đáng. Cụ thể là ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
chúng ta đã có các văn bản pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, là cơ sở pháp lý vững
chắc cho kinh tế quốc doanh ra đời và phát triển. Cụ thể hơn là:
Ngày 01/01/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh 104-SL. Sắc
lệnh này đã khẳng định doanh nghiệp quốc gia thuộc sở hữu quốc gia do Nhà nước
quản lý. Nhiệm vụ của doanh nghiệp quốc gia là sản xuất ra nhiều sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế, điều phối các hoạt động kinh doanh trong nước; bảo vệ
kinh tế và tăng thêm tài chính cho quốc gia.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (Tháng 5/1954), Nhà nước ta bắt
đầu chính thức triển khai thực hiện những nguyên tắc và phương pháp quản lý kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngày 04/4/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 130/TTg nhằm từng bước thi hành chế độ hạch toán kinh tế để phát triển sản
xuất. Quyết định đã đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý xí nghiệp
như kế hoạch toàn diện, thi hành chế độ hạch toán kinh tế áp dụng chế độ hợp đồng
kinh doanh, thưởng tiền trong xí nghiệp quốc doanh.
GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 14

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
Trong những năm 60, vì hoàn cảnh chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta không có
điều kiện để cụ thể hóa những nguyên tắc trên nên mãi đến những năm 70, nước ta mới
có dịp quan tâm cải tiến công tác quản lý kinh tế ở doanh nghiệp quốc doanh. Cụ thể là
ngày 09/01/1971, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 11/TTg về ổn định sản xuất và cải
tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên hệ thống chỉ tiêu kế hoạch cũng chỉ được
áp dụng thử ở ba xí nghiệp mà thôi. Đến ngày 10/12/1976, Chính phủ ban hành nghị
định số 244/CP về việc áp dụng thống nhất hệ thống 9 chỉ tiêu pháp lệnh cho tất cả các
doanh nghiệp quốc doanh. Tiếp đến ngày 08/4/1977, Chính phủ ban hành điều lệ xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh kèm theo Nghị định số 93/CP và Điều lệ liên hiệp các
xí nghiệp kèm theo Nghị định số 302/CP ngày 10/12/1977. Đây là những văn bản pháp
lý quan trọng quy định tương đối đầy đủ các quyền và nghĩa vụ chủ yếu của xí nghiệp
quốc doanh trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Như vậy, thông qua việc ban hành
hàng loạt các văn bản dưới luật còn rất sơ sài, thiếu đồng bộ và chỉ có giá trị tức thời
đã phản ánh việc Nhà nước quản lý các xí nghiệp quốc doanh chủ yếu bằng mệnh lệnh

hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Từ
phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy
nhân sự đến tiền lương… đều do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Dường như cơ
quan hành chính đã can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền tự chủ cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến cho
“Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động
lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo
các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu
quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội”5. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết
và cấp bách.
Trước vấn đề đặt ra, sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng
sản Việt Nam (tháng 12/1986) và Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ III
(khóa VI), quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý kinh tế quốc doanh đã có
nhiều thay đổi quan trọng. Theo đó, các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa được coi là
những đơn vị sản xuất xã hội chủ nghĩa, có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự chủ
về tài chính, các tập thể lao động thực sự có vai trò của người làm chủ trong việc tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh. Sự đổi mới này không phải tự nhiên được xác lập
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.62.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 15

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
mà đòi hỏi phải có những thay đổi thích hợp trong chế định pháp lý, từ đó tạo cơ sở
pháp lý cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả trong môi trường mới, đó là
môi trường của các quan hệ hàng hóa trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Có thể kể tên một số văn bản pháp lý tiêu biểu của giai đoạn này được thể chế
hóa từ quan điểm mới của Đảng như:
Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng về việc ban
hành chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối
với các xí nghiệp quốc doanh; Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (ban hành
kèm theo Nghị định 50/HĐBT ngày 22/3/1988); Thông tư 32/TC ngày 31/7/1990 của
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý sử dụng vốn trong các xí nghiệp quốc doanh;
Thông tư 31/TC-CN ngày 27/5/1991 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ bảo toàn và
phát triển vốn sản xuất kinh doanh trong các đơn vị kinh tế quốc doanh; Nghị định
388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng về việc ban hành quy chế thành
lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước… Những văn bản trên là một trong số những
văn bản pháp lý tiêu biểu xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước trong
bước quá độ chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ
tư duy đổi mới ấy, ngày 08/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định
202/CT về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước sang
công ty cổ phần. Song song đó, Nhà nước cũng tổ chức thí điểm trao quyền sử dụng và
trách nhiệm bảo tồn vốn sản xuất kinh doanh cho một số doanh nghiệp bằng việc ban
hành chỉ thị 316/CT ngày 01/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Như vậy, với
việc cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò
của chủ sở hữu là cổ đông trong công ty. Đây chính là động lực thúc đẩy Doanh nghiệp
Nhà nước phát triển, tránh tình trạng ỷ lại bao sự bao cấp của nhà nước và hoạt động
một cách thụ động của Doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù ngay từ đầu Đảng và Nhà
nước ta xác định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chú trọng
phát triển, thế nhưng từ khi được ra đời rồi cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước đều được Nhà nước thực hiện thông qua mệnh lệnh hành chính chứ không hề có

một đạo luật nào điều chỉnh chung cả. Xuất phát từ thực tế đó, ngày 20/4/1995, Quốc
hội đã thông qua Luật doanh nghiệp Nhà nước. Trong suốt 8 năm tồn tại, Luật Doanh
nghiệp Nhà nước là công cụ pháp lý quan trọng trong tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, nó cũng bộc lộ những hạn chế nhất định.6 Chính vì vậy
mà theo tinh thần nghị quyết III của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về việc
6

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật kinh tế, Nxb Tư pháp, 2004, tr. 57.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 16

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển Doanh nghiệp Nhà nước, Ngày 26/11/2003, Luật
Doanh nghiệp nhà nước mới đã ra đời thay thế cho Luật doanh nghiệp nhà nước năm
1995.
1.2. Khái niệm, đặc điểm tư doanh và quốc doanh
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tư doanh
Tư doanh là một thuật ngữ để chỉ chung các doanh nghiệp hoạt động theo loại
hình kinh tế phát triển dựa trên sở hữu tư nhân về toàn bộ các yếu tố sản xuất (cả hữu
hình và vô hình) được đưa vào sản xuất kinh doanh. Nó hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cụ thể là: Tự chủ về vốn, tự
chủ về quản lý, tự chủ về phân phối sản phẩm, tự chủ lựa chọn hình thức tổ chức, quy
mô, phương hướng sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trước pháp luật.7

Khái niệm kinh tế tư nhân cũng được thảo luận đến nhiều thông qua các văn
kiện của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ V (khóa
IX) đã xác định: Kinh tế tư nhân gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân. Bên cạnh đó, tại Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định bốn
thành phần kinh tế là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, đó là: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó thành
phần kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế.
Trên thế giới, trước khi hình thành khu vực kinh tế nhà nước, Kinh tế tư nhân
giữ vị trí độc tôn trên thị trường và thường đồng nhất với kinh tế thị trường. Chính vì
vậy, nói đến kinh tế thị trường bao giờ cũng nói đến kinh tế tư nhân và trong các tài
liệu, sách báo thường chỉ đề cập tới bản chất của kinh tế tư nhân đó là sở hữu tư nhân.
Khu vực kinh tế nhà nước do nhà nước sở hữu hoặc có cổ phần khống chế nên nhà
nước có thể chi phối và kiểm soát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khu vực kinh tế tư nhân là phần còn lại, ngoài khu vực nhà nước. Sự phân chia
như vậy chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu tư liệu sản xuất hoặc vốn. Trong nền kinh tế
hỗn hợp hiện nay, sự đan xen sở hữu giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế
tư nhân làm cho sự phân loại thêm phức tạp. Trong các công ty sở hữu hỗn hợp, khu
7

PGS Mai Tết-Nguyễn Văn Tuất, TS Đặng Danh Lợi, “Sự vận động và phát triển của KTTN trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta“, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr8.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 17

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
vực kinh tế tư nhân được xác định dựa vào tỷ lệ vốn khống chế thuộc về tư nhân. Tỷ lệ
vốn khống chế này tùy vào điều kiện mỗi nước và có thể dao động từ 18% – 40%,
không nhất thiết phải trên 50%. Ví dụ, ở Trung Quốc, trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước và theo luật công ty của nhà nước, nhà nước chỉ nắm 35% cổ
phiếu của các công ty là có thể khống chế được hoạt động của công ty.8
Từ những ý kiến trên cho thấy rằng, có nhiều quan điểm về thành phần kinh tế
tư nhân, tuy nhiên với phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, người viết chỉ tập trung
nghiên cứu phạm vi kinh tế tư doanh bao gồm những loại hình: Kinh tế cá thể, tiểu chủ
và tư bản tư nhân.
Để phân biệt thành phần kinh tế tư doanh với các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế thị trường có thể dựa vào một số đặc điểm sau:
- Kinh tế tư doanh là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục đích hàng đầu
là lợi nhuận: Mặc dù lợi nhuận thì bất cứ doanh nghiệp nào tham gia vào thị trường
cũng đều muốn hướng tới, chỉ là ở mức độ thế nào thôi. Ví dụ như đối với quốc doanh
thì lợi nhuận chỉ là yếu tố phụ theo sau mục tiêu xã hội. Hay như kinh tế tập thể (hợp
tác xã), ngoài việc tìm kiếm lợi nhuận thì mục đích hàng đầu vẫn là trợ giúp giữa các
xã viên với nhau, là nơi các xã viên có thể chia sẻ và cùng nhau trao dồi kinh nghiệm.
Còn đối với các doanh nghiệp tư doanh, lợi nhuận chính là mục đích hàng đầu. Mọi
hoạt động thương mại của doanh nghiệp, từ việc mua, bán hàng, cung ứng dịch vụ đến
việc xúc tiến thương mại… đều nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Có
thể nhận thấy điều đó dễ dàng qua việc đầu tư, không một doanh nghiệp tư doanh nào
lại chịu bỏ vốn ra đầu tư ở những lĩnh vực mang lại ít hoặc không có lợi nhuận.
- Kinh tế tư doanh có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hóa hoạt động sản
xuất. Pháp luật hiện nay đã quy định cho tư doanh rất nhiều loại hình doanh nghiệp
như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty
cổ phần… tùy vào điều kiện cụ thể như: Vốn, thành viên góp vốn, kiến thức chuyên
môn… Mỗi loại hình có những đặc điểm và quy mô khác nhau, chính điều đó đã tạo

nên sự đa dạng về quy mô của tư doanh. Bên cạnh đó thì xuất phát từ đặc trưng cơ bản
là hoạt động vì mục đích lợi nhuận, nên thông thường doanh nghiệp nào cũng tìm cách
tối ưu hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh để có được nhiều lợi nhuận. Điều đó đã lý
giải vì sao “Quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hóa hoạt động sản xuất” là một trong
những đặc trưng của tư doanh.
8

PGS.TS. Trịnh Thị Hoa Mai, Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005,
tr.36.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 18

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
- Các doanh nghiệp tư doanh có tính năng động và linh hoạt cao trong hoạt
động sản xuất – kinh doanh. Vì tham gia vào nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
chịu nhiều áp lực cạnh tranh nên phải năng động và linh hoạt để phù hợp với thị trường
luôn biến động từng ngày. Tính năng động và linh hoạt của tư doanh còn thể hiện qua
việc tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường nguyên liệu và tiêu thụ… Bên cạnh đó thì so
với quốc doanh, tư doanh lại có nhiều loại hình doanh nghiệp để có thể lựa chọn
chuyển từ loại hình này sang loại hình khác.
- Kinh tế tư doanh hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng tài sản. Đây cũng là đặc trưng cơ bản để phân biệt tư doanh với quốc
doanh. Nếu như quốc doanh chỉ được quyền sử dụng tài sản của Nhà nước để kinh
doanh chứ không được quyền sở hữu thì tư doanh lại có đầy đủ hai quyền năng này. Vì

tài sản là của chủ doanh nghiệp bỏ ra nên họ được toàn quyền sử dụng và quyết định,
không ai được hạn chế quyền này của họ.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm quốc doanh
Từ Đại hội VIII (1996) trở đi, khái niệm kinh tế Nhà nước đã được sử dụng phổ
biến và hoàn toàn thay thế cho khái niệm kinh tế quốc doanh. Kinh tế Nhà nước bao
gồm không chỉ các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước mà còn cả một số lĩnh vực
khác như tài nguyên quốc doanh (do doanh nghiệp nhà nước sử dụng) ngân sách Nhà
nước và dự trữ quốc gia…
- Quốc doanh là những tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập. Đây là một
trong những đặc trưng dễ nhận thấy sự khác biệt giữa quốc doanh với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp nhà nước
đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập khi thấy sự
cần thiết phải thành lập.
- Tài sản trong doanh nghiệp là một bộ phận tài sản của nhà nước. Bởi vì
nguồn vốn trong doanh nghiệp là do Nhà nước đầu tư, sau khi chuyển giao thì doanh
nghiệp chỉ được quản lý và kinh doanh chứ không được sở hữu. Bên cạnh đó thì doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn
đó.
- Doanh nghiệp quốc doanh là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước.
Như đã trình bày trước đó, doanh nghiệp quốc doanh là do Nhà nước trực tiếp thành
lập khi thấy cần thiết, đây cũng là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thông qua đó điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Chính vì lẽ đó mà doanh nghiệp quốc doanh trở thành đối tượng

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 19

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước.
- Doanh nghiệp quốc doanh là tổ chức có tư cách pháp nhân. Bởi vì quốc
doanh là doanh nghiệp được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập một cách hợp
pháp; quốc doanh cũng có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo hình thức có hội đồng quản trị
hoặc không có hội đồng quản trị; đồng thời doanh nghiệp cũng có tài sản độc lập, là tài
sản vốn góp của Nhà nước hoặc vốn do doanh nghiệp tự huy động (nếu có). Tài sản do
Nhà nước góp trong doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và không bị lệ
thuộc tổ chức khác về tài sản trong doanh nghiệp. Với tài sản đó, doanh nghiệp chỉ
được quyền sử dụng để kinh doanh độc lập và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật,
doanh nghiệp Nhà nước nhân danh chính mình một cách độc lập và chịu trách nhiệm
trong phạm vi vốn đã xác định.
- Doanh nghiệp quốc doanh thực hiện mục tiêu mà Nhà nước giao. Đó cũng
là mục đích Nhà nước thành lập các doanh nghiệp quốc doanh. Theo lẽ thường, các
doanh nghiệp ra đời và hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp chỉ đầu tư trong
lĩnh vực nào có lãi. Thế nhưng trên thực tế không phải lĩnh vực nào cũng mang lại lợi
nhuận. Chính vì vậy doanh nghiệp quốc doanh ra đời để thực hiện mục tiêu xã hội đó.
1.3. Các loại hình tư doanh và quốc doanh
1.3.1. Các loại hình tư doanh hiện nay
Hiện nay thành phần kinh tế tư doanh bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ
và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là hình thức tồn tại của thành phần kinh tế dựa trên
sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao
động và người sở hữu, tồn tại chủ yếu dưới hình thức hộ sản xuất kinh doanh.
- Kinh tế tư bản tư nhân: là tổ chức kinh tế có hình thức sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần
giải quyết các vấn đề xã hội. kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các loại hình doanh
nghiệp sau:

+ Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
+ Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó có ít nhất là hai thành viên là
chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, thành viên

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 20

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
này được gọi là thành viên hợp danh, ngoài ra công ty hợp danh còn có thể có thành
viên góp vốn.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ
chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công
ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong
đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân có số lượng thành viên không vượt quá năm
mươi, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
+ Công ty cổ phần: là loại hình doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên
hợp nhiều tư bản cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, lợi nhuận của công ty
được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phần.
+ Nhóm công ty: là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ tư nhân khác. Nhóm công
ty bao gồm các hình thức: công ty mẹ- công ty con, tập đoàn kinh tế, các hình thức

khác mà pháp luật quy định.9
1.3.2. Các loại hình quốc doanh hiện nay
Có rất nhiều tiêu chỉ để phân loại doanh nghiệp quốc doanh, mỗi cách phân loại
khác nhau lại cho ra tên gọi khác nhau. Theo quan điểm của các tác giả quyển giáo
trình Luật kinh tế, trường Đại học luật Hà Nội thì quốc doanh có thể được phân loại
như sau:
Nếu dựa vào mục đích hoạt động thì doanh nghiệp nhà nước được phân thành:
doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc
9

Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc một trong các trường hợp:
- Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành của công ty đó
- Có quyền trực tiếp hoặc giám tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả các thành viên Hội đồng quản trị, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó.
- Có quyền quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ của công ty đó.
Công ty mẹ được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đáp ứng điều kiện
trên.
Công ty con được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của
Luật Doanh nghiệp.
Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp có mối quan hệ với nhau theo nhiều hình
thức, trên nhiều lĩnh vực với liên kết chủ yếu là công ty mẹ - công ty con.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 21

SVTH: Ngô Thị Thắm



Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích lấy mục tiêu hoạt động là hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu nhà nước đề ra,
không quan tâm đến lợi nhuận vì nếu có lỗ cũng được nhà nước bù vào. Trong khi đó
những doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh phải hạch toán kinh doanh lấy thu
bù chi và đảm bảo có lãi.
Nếu dựa vào quy mô và hình thức của doanh nghiệp thì doanh nghiệp nhà nước
được phân thành doanh nghiệp độc lập, doanh nghiệp thành viên và tổng công ty nhà
nước. doanh nghiệp nhà nước độc lập là doanh nghiệp không có trong cơ cấu tổ chức
của doanh nghiệp khác. Ngược lại, doanh nghiệp thành viên là doanh nghiệp nằm trong
cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp lớn hơn. Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp
nhà nước có quy mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về
lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật do nhà nước thành lập nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất để thực hiện
nhiệm vụ nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị
thành viên và của toàn tổng công ty, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Nếu dựa vào cơ chế quản lý nội bộ doanh nghiệp thì doanh nghiệp nhà nước
được phân thành hai loại: doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp
nhà nước không có hội đồng quản trị. Doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị là
doanh nghiệp mà ở đó hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý hoạt động của
doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước chính phủ hoặc cơ quan quản lý nhà nước được
chính phủ ủy quyền về sự phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không
có hội đồng quản trị là doanh nghiệp mà ở đó chỉ có giám đốc doanh nghiệp nhà nước
quản lý hoạt động của doanh nghiệp theo chế độ thủ trưởng.10
Hiện nay những loại hình doanh nghiệp của quốc doanh có sự thay đổi về tên
gọi cũng như tổ chức sau khi tiến hành cổ phần hóa. Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 2003, doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa “là tổ chức kinh

tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ
chức dưới hình thức công ty nhà nước, Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Còn trong luật doanh nghiệp 2005 thì định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Như vậy, trước khi việc
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hoàn thành thì doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới
các mô hình theo cả hai luật (Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 và Luật doanh nghiệp
10

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật kinh tế, Nxb Tư Pháp, năm 2004, tr.62-68.

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 22

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
2005), gồm: công ty nhà nước (công ty nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước);
công ty cổ phần nhà nước; công ty trách nhiệm hơux hạn nhà nước một thành viên;
công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên; doanh nghiệp có cổ phần,
vốn góp chi phối của Nhà nước – là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà
nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, trong thời hạn bốn năm, kể từ ngày
01/7/2006, tất cả các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi sang mô hình công ty.
Như vậy, ngày 30/6/2010 là hạn cuối cùng để các doanh nghiệp nhà nước – gồm các
tổng công ty và Công ty nhà nước độc lập – phải chuyển đổi thành Công ty cổ phần
hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn. Hiện nay, doanh nghiệp được định nghĩa là doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ và hiện được tồn tại dưới các

hình thức pháp lý sau:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu,
là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do Nhà nước làm chủ
sở hữu, là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là Nhà nước,
do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ vốn cổ đông đều là
cổ đông nhà nước, do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ.
1.4. Vai trò của tư doanh và quốc doanh trong nền kinh tế
1.4.1. Vai trò của tư doanh trong nền kinh tế
Không phải chỉ mới được nhìn nhận đây, mà ngay từ khi Đảng đưa ra quan
điểm cần xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thì vai trò của kinh tế tư nhân đã được xem trọng. Trong suốt thời gian qua, tư
doanh đã thể hiện rất tốt về sự đóng góp tích cực của mình cho kinh tế và xã hội.
1.4.1.1. Tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước
Các doanh nghiệp tư doanh đã và đang ngày càng khẳng định vị trí của mình
trong nền kinh tế đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước thông qua thuế, từ 18% năm

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 23

SVTH: Ngô Thị Thắm


Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng giữa tư doanh
và quốc doanh trong cạnh tranh
2006 nay con số này đến thời điểm năm 2010 đã lên đến 29%.11 Nếu so với sự đóng

góp của doanh nghiệp nhà nước thì con số đó vẫn còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, nếu
như các doanh nghiệp nhà nước sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước rất lớn và tính
hiệu quả trong việc sử dụng vốn vẫn còn là một dấu hỏi lớn cho nên việc nộp ngân
sách nhà nước của thành phần kinh tế nhà nước dù chiếm tỷ trọng lớn hơn 50% ngân
sách nhà nước nhưng vẫn chưa thực sự làm “hài lòng” ông chủ nhà nước trong hiệu
quả sử dụng vốn (tình trạng thất thoát, kém hiệu quả ở hàng loạt các tập đoàn kinh tế
lớn như EVN, TKV, Vinashin12,…. đã được các phương tiện truyền thông chuyển tải
rất nhiều thời gian qua). Ngược lại, doanh nghiệp tư doanh dù chỉ đóng góp 29% cho
ngân sách nhà nước nhưng đó được xem là nguồn tài chính “lãi ròng” dành cho nhà
nước.
1.4.1.2. Giải quyết việc làm cho nhiều lao động
Trong các thành phần kinh tế ở nước ta, có thể nói tư doanh là thành phần kinh
tế giải quyết nhiều việc làm cho lao động nhất với tốc độ tăng trưởng khá cao qua các
năm. Tốc độ tăng trưởng số lao động sử dụng của doanh nghiệp dân doanh hàng năm
là 22,67%, cao nhất trong các thành phần kinh tế. Đây là con số được công bố tại kết
quả Tổng điều tra doanh nghiệp các năm từ 2001 đến 2009 do Tổng cục Thống kê thực
hiện vào năm 2010. Theo đó, năm 2000, hơn 31 nghìn doanh nghiệp tư nhân tạo ra
được hơn 850 nghìn việc làm, chiếm 24,28% tổng số việc làm tạo ra trong khu vực
doanh nghiệp chính thức và chỉ bằng 65% số lượng việc làm mà riêng các doanh
nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra.13 Nhưng tính đến cuối năm 2008, các doanh
nghiệp dân doanh chính thức đã tạo ra được 4,3 triệu việc làm, chiếm hơn 54% tổng số
việc làm của các doanh nghiệp chính thức tạo ra và gấp gần 4 lần tổng số việc làm mà
các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra. Con số này đã góp phần đáng kể cho
quá trình tạo việc làm cho hơn 1,2 triệu người tham gia thị trường lao động mỗi năm
và duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp ở Việt Nam trong thập kỷ qua (ở mức 4-5% trong giai
đoạn 2000-2009).
Mức thu nhập cho người lao động khu vực này cũng được cải thiện đáng kể.
Tính trung bình, mức thu nhập bình quân hàng năm của người lao động trong năm
11


Minh Giang, Khu vực kinh tế tư nhân tăng cường vị thế, />12
Đây là những tập đoàn kinh tế nhà nước được kỳ vọng là đầu tàu của nền kinh tế đất nước. Trong đó, EVN:
Tập đoàn điện lực Việt Nam; TKV: Tập đoàn than, khoáng sản Việt Nam; Vinashin: Tập đoàn công nghiệp tàu
thủy Việt Nam.
13
Thúy Hải – Vân Khánh, Doanh nghiệp tư nhân ngày càng khẳng định thế mạnh, có thể truy cập tại website:
[truy cập ngày 20/08/2012]

GVHD: Ths.Nguyễn Mai Hân

Trang 24

SVTH: Ngô Thị Thắm


×