Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại VIỆT NAM và vấn đề PHÁP lý về PHÂN ĐỊNH BIỂN, THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.12 KB, 72 trang )

z

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(Niên khóa:2009-2013)
Đề tài:
VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện

Th.s Thạch Huôn

Tên: Thạch Thị Đanh

Bộ môn:Luật thƣơng mại

MSSV: 5095506

Cần Thơ 5/ 2013


LỜI CẢM ƠN


Đầu tiên người viết xin chân thành cảm ơn chân thành đến Ths. Thạch Huôn, người đã


nhận hướng dẫn và giúp người viết hoàn thành luận văn này. Cảm ơn vì sự tận tình của
thầy dù bản thân bận trăm cơng nghìn việc nhưng vẫn hết mình hướng dẫn, góp ý giúp
người viết hồn thành luận văn này.
Chân thành cảm ơn
Thạch Thị Đanh


NHẬN XÉT CỦA G IẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
………………………

Cần Thơ, ngày

tháng

năm


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN ............................................... 3
1.1. Các khái niệm cơ bản về vùng biển và luật biển ......................................................... 3
1.1.1.Khái niệm về biển và luật biển ...................................................................................... 3
1.1.2. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.................................................................... 3
1.1.2.1. Đường cơ sở ............................................................................................................. 3
1.1.2.2 Nội thủy...................................................................................................................... 4
1.1.2.3 Lãnh hải...................................................................................................................... 4
1.1.3. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia ......................................................... 4
1.1.3.1 Vùng tiếp giáp lãnh hải .............................................................................................. 5
1.1.3.2 Vùng đặc quyền kinh tế.............................................................................................. 5
1.1.3.3 Thềm lục địa ................................................................................................................ 5
1.2. Phân định biển và cơ sở pháp lý về phân định biển ................................................... 5
1.2.1. Khái niệm về phân định biển ........................................................................................ 5
1.2.2. Các nguyên tắc phân định biển..................................................................................... 5

1.2.2.1. Nguyên tắc thỏa thuận............................................................................................. 5
1.2.2.2. Nguyên tắc đường trung tuyến hay cách đều ....................................................... 7
1.2..2.3. Nguyên tắc phân định công bằng.......................................................................... 7
1.2.2.4. Nguyên tắc áp dụng các dàn xếp tạm thời ............................................................ 8
1.2.2.5. Nguyên tắc quốc gia tự tuyên bố ........................................................................... 8
1.2.3. Các phương pháp phân định biển ............................................................................... 10
1.2.4. Khung pháp lý về phân định biển .............................................................................. 11
1.2.4.1. Phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải ................................................... 12


1.2.4.2. Phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế ...................................... 13
CHƢƠNG 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN.................................. 17
2.1. Các quy định về phân định biển .................................................................................... 17
2.1.1. Đường cơ sở .................................................................................................................. 17
2.1.2. Phân định nội thủy ....................................................................................................... 19
2.1.2.1. Những bộ phận có các đặc điểm riêng ................................................................ 19
2.1.2.2. Chế độ pháp lý của nội thủy ................................................................................. 21
2.1.3. Phân định lãnh hải ........................................................................................................ 24
2.1.3.1. Cơ sở pháp lý về phân định lãnh hải ................................................................... 24
2.1.3.2. Quy chế pháp lý của vùng lãnh hải ..................................................................... 25
2.1.4. Phân định vùng tiếp giáp lãnh hải .............................................................................. 29
2.1.5. Phân định vùng đặc quyền kinh tế ............................................................................. 30
2.1.5.1. Quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế ............................... 30
2.1.5.2. Các quyền và nghĩa vụ của quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế.............. 30
2.1.6. Phân định thềm lục địa ................................................................................................ 31
2.2. Thực tiễn phân định tại các vùng biển Việt Nam ...................................................... 32
2. 2.1. Phân định biển giữa Việt Nam và Thái Lan ............................................................ 33
2.2.2. Phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Thái Lan ............................ 39
2.2.3. Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam và Campuchia...................................... 44
2.2.4. Thỏa thuận hợp tác chung Việt Nam và Malayxia .................................................. 51

2.2.5. Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam và Inđônêxia..................................... 53
2.3. Những hạn chế và giải pháp khắc phục ....................................................................... 57
2.3.1 Hạn chế ........................................................................................................................... 57
2.3.2 Giải pháp khắc phục ...................................................................................................... 58


Kết Luận..................................................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, lãnh thổ Việt Nam đã dần được
hồn thiện. Tuy nhiên, đối với đường biên giới nói chung và biên giới biển nói riêng thì
mãi đến khi thống nhất đất nước mới bắt đầu được xác định rõ ràng.Việc xác định biên
giới là vấn đề rất quan trọng và cần phải sớm hoàn thành, đặc biệt đối với việc xác định
biên giới biển.
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài 3260 km, trải dài trên 13 vĩ độ trên
biển Đông. Hiện nay, Việt Nam đã tiến hành phân định biển với Trung Quốc, Thái Lan,
Inđônêxia, đã thỏa thuận về khai thác chung vùng chồng lấn với Malaysia và kí kết hiệp
định về vùng nước lịch sử với Campuchia. Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và
các nước láng giềng đã đạt được những thỏa thuận công bằng đối với các bên và được
quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên trong phân định biển ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
vùng biển chưa được phân định cụ thể, rõ ràng.
Vấn đề phân định biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng là vấn đề nóng bỏn g, và
cần thiết sớm được giải quyết. Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam với các nước láng
giềng để có thể thấy rõ hơn những thỏa thuận mà Việt Nam đã đạt được và những thỏa
thuận Việt Nam cần tiến hành trong thời gian tới.

2. Đối tƣợng nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề pháp lý của Việt Nam về phân định biên giới trên biển nhằm bảo vệ
lợi ích của Việt Nam trên biển. Vấn đề phân định biển đặt ra cho các quốc gia ven biển
phải xác định rõ đường biên giới biển, phân chia vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia và
xác định rõ đường ranh giới phân chia vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do đề tài mang tính đặc thù nên chỉ xoay quanh những vấn đề cơ bản các văn bản pháp
luật Việt Nam và quốc tế về phân định biển
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp đề tài sử dụng là phương pháp lý luận dựa trên tài liệu, sách vở sau đó
phân tích, so sánh, tổng hợp. Đồng thời dựa trên những quy định của pháp luật của pháp
GVHD: Thạch Huôn

-1-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
luật hiện hành về vấn đề phân định biển của quốc gia và quốc tế để làm sáng tỏ đ ề tài
nghiên cứu.

5. Bố cục đề tài:
Mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về phân định biển
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về phân định biển
Kết luận.

GVHD: Thạch Huôn


-2-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN
1.1. Các khái niệm cơ bản về vùng biển và luật biển
1.1.1.Khái niệm về biển và luật biển
Biển và đại dương chiếm 71% diện tích Trái đất. Biển được cấu tạo từ ba thành phần 1:
- Khối lượng nước có nhiều tài nguyên sinh vật quý giá cũng như các tài ngun
khơng sinh vật hịa tan trong nước biển ( trên 40 thành phần hóa chất trong nước biển);
- Thềm lục địa chứa 90% trữ lượng dầu khí ngoài khơi; đáy đại dương và các dãi núi
đại dương nơi chứa đựng các quặng đa kim.
Sản lượng đánh bắt cá biển của thế giới từ những năm 1990 là vào khoảng 90 triệu
tấn năm.
Sản lượng sản xuất thực vật biển khoảng 300 tỷ tấn năm (chủ yếu là thực vật nổi
Phytoplankton), trong đó các động vật “ăn cỏ” tiêu thụ 70 tỷ tấn, con người tiêu thụ trực
tiếp 250-300 triệu tấn.
Luật biển quốc tế là một ngành độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế đã được hình
thành từ rất sớm. Ngay từ thời cổ đại các tập quán về biển đã xuất hiện ở các vùng Hy
lạp, Ai-cập-La Mã. Đến thế kỷ XIII một số nguyên tắc về luật biển đã hình thành, sau đó
phổ biến sang khu vực Địa Trung hải.
Luật biển là một ngành độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế, bao gồm tổng hợp
các nguyên tắc và các quy phạm được hình thành bằng sự thỏa thuận giữa các chủ thể
luật quốc (trước tiên và chủ yếu là giữa các quốc gia) nhằm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể trong hoạt động và sử dụng biển và đại dương vì mục đích hồ
bình 2.
1.1.2. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia

1.1.2.1. Đƣờng cơ sở
Đường cơ sở là đường cơ bản quốc gia ven biển có thể đơn phương xác định dùng
làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác.

1
2

TS Nguyễn Hoàng Thao, Những điều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr. 5.
Ths. Kim Oanh Na, Giáo trình luật quốc tế, Trường Đại học Cần Thơ, 2006, Tr. 48.

GVHD: Thạch Huôn

-3-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Có hai loại đường cơ sở:
- Đường cơ sở thông thường: Sử dụng ngấn nước triều thấp nhất ven bờ biển hoặc
đảo.
- Đường cơ sở thẳng: Nối các điểm hoặc đảo nhô ra của bờ biển lục địa hoặc đảo.
Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo
gắn liền và chạy dọc theo bờ biển. Việt Nam có chuỗi đảo dọc theo bờ biển được vận
dụng để xác định đường cơ sở thẳng.
Năm 1982, Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố xác
định đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa Việt Nam, gồm 10 đoạn nối 11 điểm (trừ phần
trong Vịnh Bắc bộ và Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia do Chính phủ ta
cịn đàm phán phân định biển với Trung Quốc lúc đó và chưa tiến hành đàm phán phân
định biển với Campuchia).

Việt Nam cũng không vạch đường cơ sở cho hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa, vì
hai quần đảo này không được hưởng quy chế quốc gia quần đảo theo Điều 46 của Công
ước này.
1.1.2.2. Nội thủy
Nội thủy là vùng nước nằm phía trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó
quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như trên lãnh thổ đất liền.
Đường cơ sở này do quốc gia ven biển quy định vạch ra. Từ đó trở vào gọi là nội thủy,từ
đó trở ra gọi là lãnh hải. Điều 33 Công ước về Luật biển năm 1982 quy định: “Vùng tiếp
giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý 3 kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của
lãnh hải”. Nội thủy được coi như lãnh thổ đất liền, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ
quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Nội thủy bao gồm hồ, cửa sông, các vịnh, cảng
biển, vũng đậu tàu.
1.1.2.3. Lãnh hải
Lãnh hải là lãnh thổ biển, nằm ở phía ngồi nội thủy. Ranh giới ngồi của lãnh hải
được coi là đường biên giới quốc gia trên biển. Công ước quốc tế về Luật biển 1982
(Công ước luật biển năm 1982) quy định chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia ven biển
là 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều 3 Công ước nêu rõ: “Mỗi quốc gia có quyền định
chiều rộng của lãnh hải đến một giới hạn không quá 12 hải lý từ đường cơ sở được xác
định phù hợp với công ước này”.
3

Một hải lý = 1.852 m

GVHD: Thạch Huôn

-4-

SVTH: Thạch Thị Đanh



Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
1.1.3. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia
Đây là ba vùng biển nằm ngoài lãnh hải, bao gồm vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa.

1.1.3.1. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải.
Phạm vi của vùng tiếp giáp lãnh hải không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều
33 Cơng ước về Luật biển năm 1982 quy định: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá
24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”.
1.1.3.2. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải,
có phạm vi rộng khơng vượt q 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Như vậy phạm vi lãnh
hải rộng 12 hải lý bên trong vùng đặc quyền kinh tế nên chiều rộng riêng của vùng đặc
quyền kinh tế là 188 hải lý. Vùng đặc quyền kinh tế bao gộp trong nó cả vùng tiếp giáp
lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng đặc thù trong đó quốc gia ven biển thực
hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế được Công ước về Luật biển
1982 quy định.
1.1.3.3. Thềm lục địa
Thềm lục địa nói nơm na là cái nền của lục địa. Thềm lục địa bao gồm đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của một quốc gia, trên toàn bộ phần kéo dài tự
nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó mở rộng tới khoảng cách 200 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc nếu bờ ngồi của rìa lục địa mở rộng ra ngồi giới hạn đó thì có thể
kéo tới bờ ngồi của rìa lục địa được xác định theo các quy định của Công ước.
1.2. Phân định biển và cơ sở pháp lý về phân định biển
1.2.1. Khái niệm về phân định biển

GVHD: Thạch Huôn

-5-


SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Phân định biển là quá trình hoạch định đường ranh giới nhằm phân chia các vùng biển
giữa các quốc gia hữu quan, hoặc giữa quốc gia ven biển với vùng biển nằm ngoài chủ
quyền 4.
Trên thực tế và theo pháp luật quốc tế, tất cả các quốc gia ven biển đều được quyền
hoạch định các vùng biển của mình như nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải…Trong trường hợp vùng biển của các quốc gia tồn tại độc lập, khơng có liên quan
đến lợi ích của các quốc gia khác thì ranh giới của các vùng biển này do quốc gia ven
biển tự xác định phù hợp với các nguyên tắc chung và thực tiễn pháp luật quốc tế . Còn
trong trường hợp khi vùng biển của các quốc gia ven biển nằm tiếp liền và đối diện với
vùng biển của các quốc gia khác, thì việc hoạc h định ranh giới biển khơng thể chỉ phụ
thuộc vào ý chí duy nhất của một quốc gia, mà nó cịn phải có được sự thỏa thuận của các
quốc gia hữu quan.
Vấn đề phân định biển được đặt ra cho các quốc gia có các vùng biển tiếp liền hoặc
đối diện nhau và việc phân định nhằm mục đích xác định rõ đường biên giới biển phân
chia vùng biển thuộc chủ quyền, và quyền chủ quyền quốc gia. Do đó, nếu q trình phân
định khơng được tiến hành một cách hợp pháp thì sẽ rất dễ dẫn đến sự xung đột giữa các
bên. Chính vì vậy, để thực hiện chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển
trong việc bảo vệ, quản lý và khai thác tài nguyên thiên nhiên trên các vùng biển tiếp liền
hoặc đối diện nhau, đòi hỏi các quốc gia hữu quan phải có sự thỏa thuận cụ thể, chi tiết
nhằm phân định các vùng biển này một cách rõ ràng, nhanh chóng.
1.2.2. Các nguyên tắc phân định biển
1.2.2.1. Nguyên tắc thỏa thuận
Phân định biển là một quá trình phức tạp, nó có thể do địa hình bờ biển, lập trường,
thái độ của các bên hữu quan,…Vì vậy, các quốc gia hữu quan khi tiến hành phân định
biển , dù là nội thủy hay lãnh hải…cũng phải dựa trên nguyên tắc thỏa thuận.

Thỏa thuận là một nguyên tắc cơ bản, có tính tập qn của Luật quốc tế trong giải
quyết tranh chấp quốc tế. Sự thỏa thuận này không chỉ quyết định các phương pháp phân
định mà còn quyết định cả thẩm quyền phân định, nghĩa là các quốc gia liên quan thỏa
thuận lựa chọn áp dụng các nguyên tắc phân định cụ thể, phù hợp và cũng thỏa thuận về
việc cùng tiến hành phân định hoặc đề nghị bên Tòa án thứ ba như tòa án Quốc tế, Trọng
tài quốc tế đứng ra phân định.

4

Ts.Kim Oanh Na,Giáo t rình Luật quốc tế, Trường Đại học Cần Thơ, 2006, Tr. 67.

GVHD: Thạch Huôn

-6-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Khi hai quốc gia có bờ biển đối diện hay tiếp giáp nhau và có các danh nghĩa pháp lý
chồng nhau thì họ có nghĩa vụ đàm phán một cách thiện chí và có ý đị nh thực sự để tới
một kết quả thực định. Nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các dạng phân định nội
thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, thềm lục địa hay vùng đặc quyền kinh tế.
Điều 15 Cơng ước Luật biển 1982 có quy định, việc hoạch định ranh giới lãnh hải
giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau “khi hai quốc gia có bờ biển kề
nhau hoặc đối diện nhau, khơng quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường
trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đ ường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại.
Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử
hoặc có các hồn cảnh đặc biệt khác cần hoạch định ranh giới lãnh hải c ủa hai quốc gia

một cách khác nhau”.
Tóm lại nguyên tắc này nhằm hướng các bên tiến hành thỏa thuận để đi đến kết quả
cuối cùng. Thỏa thuận các bên về phân định biển chỉ có giá trị với bên thứ ba nếu nó tuân
thủ đúng quy tắc và quy định của Luật quốc tế. Các bên tự do thỏa thuận với điều kiện
các thỏa thuận đạt được không vi phạm các nguyên tắc của Luật quốc tế hay làm phương
hại tới lợi ích của các quốc gia khác.
1.2.2.2. Nguyên tắc đƣờng trung tuyến hay cách đều
Khi nói đến các nguyên tắc để phân định biển, thì nguyên tắc trung tuyến hay cách đều
là một trong những nguyên tắc được ưu tiên áp dụng nhiều nhất trong phân định lãnh hải.
Nguyên tắc này được quy định trong Điều 15 Công ước Luật biển năm 1982. Theo
nguyên tắc này thì ranh giới để phân định chính là đường mà tất cả các điểm nằm trên
đường đó đều cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở của mỗi quốc gia.
Trong phần lớn các trường hợp phân định biển, phương pháp đường trung tuyến thể
hiện các tiện ích, thực tiễn, cơng bằng hơn hẳn các phương pháp khác. Nó là phương
pháp được dùng đến nhiều nhất trong các thỏa thuận của các quốc gia ven biển. Tính đến
hết năm 1995, trong số 134 thỏa thuận, có 81 thỏa thuận khơng nói rõ áp dụng phương
pháp gì, đường cách đều hay nguyên tắc công bằng, 34 thỏa thuận dựa trên đường cách
đều, 05 thỏa thuận dựa trên nguyên tắc công bằng, 04 thỏa thuận kết hợp cả hai phương
pháp, 05 thỏa thuận áp dụng các phương pháp khác 5. Tuy nhiên, phương pháp trung
tuyến không phải lúc nào cũng mang lại một kết quả cơng bằng, trong các trường hợp
hình thái bờ biển lồi, lõm, có sự hiện diện của các đảo hay luồng hàng hải trong khu vực
phân định, phương pháp này đưa đến một kết quả không công bằng.
5

TS. Nguyễn Hồng Thao, Những đều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr. 302.

GVHD: Thạch Huôn

-7-


SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Điển hình trong vụ thềm lục địa biển Bắc trong việc phân định giữa Đan Mạch, Hà lan
với Đức. Tòa án pháp lý quốc tế đã chỉ ra rằng trong tranh chấp bờ biển lõm thì phương
pháp đường cách đều sẽ đưa lại một kết quả không công bằng “ khi hai đường cách đều
được vạch từ một bờ biển lõm, chúng nhất định sẽ gặp nhau ở một k hoảng cách gần
bờ…”6. Như vậy, phương pháp trung tuyến cũng như các phương pháp khác chỉ có thể áp
dụng khi nó mang lại một kết quả công bằng cho các bên phân định.
Nguyên tắc này được áp dụng sau phương pháp thỏa thuận, khi các bên không thỏa
thuận hoặc thỏa thuận không thành công.
1.2.2.3. Nguyên tắc phân định công bằng
Khái niệm công bằng trong phân định biển một cách đơn giản ta có thể hiểu như sau:
Công bằng trong phân định là xem xét và đặt lên bàn cân tất cả các hoàn cảnh hữu q uan
để tìm ra một giải pháp mà các bên có thể chấp nhận, các bên có thể coi kết quả mà nó
mang lại là cơng bằng chứ khơng phải là sự áp dụng máy móc, khe khắt một loạt quy tắc,
nguyên tắc hình thức. Muốn đạt được kết quả công bằng cần phải áp dụng đều chỉn h các
quy tắc, nguyên tắc công bằng của Luật phân định biển phù hợp với thực tế và các hoàn
cảnh hữu quan của khu vực phân định.
Trong Công ước Luật biển 1982 khơng đưa ra định nghĩa chính xác thế nào là hoàn
cảnh hữu quan hay các hoàn cảnh đặc biệt cần tính đến trong phân định, cũng khơng có
giới hạn pháp lý nào về việc định ra các hoàn cảnh hữu quan. Vì thế, danh sách các hồn
cảnh hữu quan xác lập theo các quyết định của Tòa án và trọng tài quốc tế cũng khơng có
giới hạn. Điển hình một số hoàn cảnh hữu quan như (Các yếu tố địa lý và địa mạo; yếu tố
hình dạng bờ biển, nhất là sự lòi lõm của bờ biển, yếu tố các đảo,…)
Điều 74, 83 của Cơng ước Luật biển 1982 có quy định “ Việc hoạch định ranh giới
các vùng đặc quyền kinh tế ( thềm lục địa) giữa các Quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối
diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng pháp luật quốc tế như
đã nêu ở Đều 38 Quy chế của Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng ”.

Muốn đạt được kết quả công bằng cần phải áp dụng các nguyên tắc cân bằng của Luật
phân định biển phù hợp với thực tế và các hồn cảnh hữu quan của khu vực phân định,
trong đó các yếu tố địa lý là trọng điểm xem xét của q trình phân định.
Tóm lại, sự ghi nhận ngun tắc này trong Công ước Luật biển năm 1982 thể hiện
một số khía cạnh:

6

TS. Nguyễn Hồng Thao, Những đều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr. 285.

GVHD: Thạch Huôn

-8-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
- Thừa nhận quyền của một số Quốc gia khơng có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý được
sử dụng biển cả như các quốc gia có biển ở phạm vi mà Luật biển cho phép và nghĩa vụ
khơng làm gì phương hại đến quyền sử dụng biển của các Quốc gia khác.
- Không đặt biển cả dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ Quốc gia nào. Quy định như
vậy nhằm bác bỏ yêu sách về chủ quyền đối với biển cả cũng như đối với Vùng di sản
chung của loài người.
- Vùng đáy biển (vùng) có chế độ pháp lý là di sản chung của loài người. Vùng để ngỏ
cho tất cả các Quốc gia, dù Quốc gia có biển hay khơng có biển, để sử dụng vào mục đích
hồn tồn hịa bình, khơng phân biệt đối xử. Mọi hoạt động trong vùng được tiến hành là
vì lợi ích của tồn thể lồi người, khơng phụ thuộc vào vị trí địa lý của quốc gia có biển
hay khơng có biển.
- Trong phân định biển, áp dụng cơng bằng khơng có nghĩa là sửa chữa lại tự nhiên mà

là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng và cơng bằng, có
tính đến những hồn cảnh hữu quan. Nguyên tắc công bằng trong phân định đã được đề
cập trong Phán quyết về Thềm lục địa biển Bắc năm 1969 và hàng loạt các Phán quyết
của các cơ quan tài phán quốc tế. Nó cũng được thể hiện trong thực tiễn quốc tế, trong sự
thắng thế của nhóm cơng bằng (nhóm 29) đối với nhóm cách đều (nhóm 22) trong Hội
nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển.
1.2.2.4. Nguyên tắc áp dụng các dàn xếp tạm thời
Trong khoản 3 Điều 74 và Điều 83 Công ước Luật biển 1982 có quy định “ Trong khi
chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết
và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và để
khơng phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt k hoát trong giai đoạn quá
độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng”.
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 khơng nói rõ các dàn xếp tạm
thời nào. Thực tế cho thấy việc thành lập các vùng thăm dò khai thác chung là một trong
những biện pháp dàn xếp tạm thời hữu hiệu, được nói tới nhiều, cho phép gác lại các
tranh chấp lãnh thổ, thúc đẩy khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên trong giai đoạn quá
độ.
Có thể điểm qua một số trường hợp thỏa thuận thăm dò khai thác chung quy định
trong:
- Thỏa thuận phân định biển giữa Bahrein và Arap Xeut ngày 22/02/1958.
GVHD: Thạch Huôn

-9-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
- Thỏa thuận giữa Pháp và Tây Ban Nha ngày 29/01/1974 về phân định thềm lục địa
trong vịnh Gascogne.

- Thỏa thuận giữa Malaysia và Việt Nam ngày 05/6/1992 trong Vịnh Thái Lan.
- Thỏa thuận giữa Malaysia và Thái Lan ngày 21/02/1979 trong Vịnh Thái Lan.
- Thỏa thuận giữa Colombia và Jamaica năm 19937.
Như vậy, Luật quốc tế khuyến khích các bên tìm ra giải pháp tạm thời áp dụng cho
những nơi tranh chấp chưa được giải quyết dứt điểm bằng các quyết định chính thức giữa
các bên. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết sau này, tránh tình trạng
làm phức tạp thêm tình hình tranh chấp giữa các bên tạo điều kiện cho việc khai thác các
tài nguyên thiên nhiên trong khu vực tranh chấp trong giai đoạn chuyển tiếp mà khơng có
sự phản đối của các quốc gia hữu quan.
1.2.2.5. Nguyên tắc quốc gia tự tuyên bố
Việc phân định các vùng biển ln ln có một khía cạnh quốc tế. Nó khơng thể phụ
thuộc vào ý chí duy nhất của quốc gia ven biển như nó được thể hiện trong luật quốc gia.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận vai trò tự tuyên bố quốc gia ven biển mới có tư cách
để tiến hành điều đó và điều tất nhiên các Tun bố đó cũng sẽ được cơng nhận nếu như
Tuyên bố đó phù hợp với tập quán và luật quốc tế.
Trong Điều 310 Công ước Luật biển năm 1982 có quy định Cơng ước Luật biển năm
1982 khơng ngăn cấm quốc gia việc quốc gia ra Tuyên bố, bất kể lời văn hay tên gọi của
Tuyên bố đó như thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa luật lệ và quy định quốc gia của họ
với Công ước, với điều kiện là các Tuyên bố này không nhằm loại trừ hay sửa đổi hiệu
lực pháp lý của các quy định của Công ước trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này.
Như vậy các quốc gia có quyền đơn phương Tuyên bố ranh giới vùng biển của mình
đến đâu, nhưng giá trị của các tuyên bố đó trong quan hệ chỉ có thể có được khi việc phân
định đơn phương này tôn trọng những quy tắc và nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc
tế và được quốc tế thừa nhận 8.
Việt Nam cũng có hai Tuyên bố đơn phương, Tuyên bố ngày 12/5/1977 về lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tuyên bố ngày
12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Hai tuyên bố này có vai trị
quan trọng vào việc khẳng định chủ quyền biên giới biển của nước ta.
7
8


TS. Nguyễn Hồng Thao, Những đều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Điều 281, Tr. 305.
TS. Nguyễn Hồng Thao, Những đều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr. 263.

GVHD: Thạch Huôn

-10-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Tóm lại, vấn đề phân định biển là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan đến chủ
quyền quốc gia đối với lãnh thổ. Việc phân định giữa các nước cần phải dựa trên ngun
tắc thỏa thuận và ngun tắc cơng bằng đích thực, có cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế,
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh khách quan của từng khu vực, đáp ứng một cách hợp
lý lợi ích chính đáng của mỗi bên. Nếu khơng việc phân định biển sẽ dẫn tới hậu quả
khôn lường: dâng hiến lãnh thổ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên của đất nước cho nước
ngoài một cách hợp pháp.
1.2.3. Các phƣơng pháp phân định biển
Thực tiễn phân định biển trong thời gian qua cho thấy, các quốc gia liên quan thường
thỏa thuận áp dụng một số phương pháp phân định cơ bản như sau:
- Phương pháp đường cách đều và đường trung tuyến
Theo phương pháp này, đường ranh giới để phân định biển, chính là đường mà tất cả
các điểm nằm trên đường đó đều cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở của mỗi
quốc gia.
Phương pháp đường cách đều hoặc đường trung tuyến thường được áp dụng để phân
định lãnh hải, tuy nhiên để áp dụng phương pháp này phải xem xét một cách thỏa đáng
đến những hoàn cảnh cụ thể để đi đến một kết quả công bằng.
- Phương pháp công bằng

Theo phương pháp này, để phân định biển, các bên hữu quan cần xem xét, cân nhắc
các yếu tố cụ thể như: hình dạng của bờ biển, các đảo và yếu tố hàng hải…để từ đó tìm ra
được giải pháp được các bên chấp nhận và mang lại kết quả cơng bằng. Ngồi ra , các
quốc gia cịn có thể sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp dựa trên sự kéo dài
tự nhiên của đất liền ra biển, phương pháp khoảng cách…
Hiện nay Việt Nam đang giải quyết vấn đề phân định biển với các quốc gia hữu quan
như Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Maylaysia thông qua đàm phán, thỏa
thuận trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, phù hợp với pháp luật và tập quán
quốc tế.
1.2.4. Khung pháp lý về phân định biển
Với việc Công ước về Luật biển năm 1982 lần lượt được các nước ký kết và có hiệu
lực, lần đầu tiên lồi người có một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp toàn diện, đề cập
những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương, qui định rõ các
GVHD: Thạch Huôn

-11-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
quyền lợi và nghĩa vụ trên biển về nhiều mặt của mọi loại quốc gia (có biển cũng như
khơng có biển, có chế độ kinh tế, chính trị - xã hội khác nhau, có trình độ phát triển khác
nhau) đối với các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia cũng như đối với các vùng
biển quốc tế. Sau Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước luật biển 1982 được coi là văn
kiện pháp lý đa phương quan trọng nhất trong lịch sử của tổ chức này.
Có thể nói, một trong những thành quả quan trọng của Công ước Luật biển 1982 là đã
thiết lập một cách cụ thể và rõ ràng khái niệm, quy chế cũng như phạm vi các vùng biển.
Giờ đây các quốc gia khơng chỉ có lãnh hải rộng 12 hải lý mà cịn có những vùng biển
khác như vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa rộng tối đa tới 350 hải

lý tính từ đường cơ sở. Những quy định này của Công ước đã mở rộng một cách đáng kể
chủ quyền, các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển
nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện thêm các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa
các nước có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau.
Cũng như các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ khác, tranh chấp về việc xác định
phạm vi vùng biển giữa các quốc gia là loại tranh chấp phức tạp và chứa đựng nguy cơ
bùng nổ gây xung đột, chẳng hạn như tranh chấp về phân định vùng biển Ê-giê giữa Hy
Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ kéo dài từ những năm 70 của thế kỷ trước đến nay, hoặc tranh chấp
đầu tháng 3/2005 giữa Malaixia và Inđônêxia về vùng biển Ambalát…
Mỗi quốc gia có quyền đơn phương tuyên bố phạm vi các vùng biển và thềm lục địa
của mình theo các quy định của Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, nếu hai hay nhiều
quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau mà khoảng cách giữa hai bờ biển
đối diện không đạt tới hai lần chiều rộng của các vùng biển hay thềm lục địa được quy
định trong Cơng ước thì sẽ xuất hiện sự chồng lấn về yêu sách phạm vi các vùng biển và
thềm lục địa. Trong trường hợp này, các quốc gia có liên quan phải tiến hành xác định
đường phân chia giới hạn không gian thực thi thẩm quyền thông qua thương lượng trực
tiếp hay một cơ quan tài phán quốc tế. Theo luật biển quốc tế và thực tiễn giữa các quốc
gia, có những trường hợp phân định biển như phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh
hải, phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
1.2.4.1. Phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải
Cho đến nửa đầu thế kỷ XX, đa số các ranh giới lãnh hải được xác định bằng phương
pháp đường trung tuyến cách đều. Ngoài ra, một số phương pháp kỹ thuật khác cũng
được sử dụng, như: đường vng góc với xu hướng chung của bờ biển tại khu vực phân
định, đường phân giác góc tạo bởi hai bờ biển nằm tiếp liền, đường biên giới trên bộ kéo
dài ra biển, theo một kinh tuyến hay một vĩ tuyến cụ thể. Những phương pháp kỹ thuật
GVHD: Thạch Huôn

-12-

SVTH: Thạch Thị Đanh



Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
này tỏ ra thích hợp trong điều kiện lãnh hải có chiều rộng hạn chế vào thời kỳ đó, thường
là 3 hải lý.
Khi phạm vi không gian của lãnh hải được mở rộng ra trên cơ sở các yêu sách về lãnh
hải rộng 12 hải lý hoặc hơn nữa, đương nhiên sẽ xuất hiện thêm nhiều yếu tố có thể ảnh
hưởng đến phân định ranh giới lãnh hải như sự hiện diện của các đảo, cơng trình nhân tạo
nổi thường xun trên mặt nước biển, hoạt động hàng hải, khai thác tài nguyên,v.v... Vì
vậy, điều 12 khoản 1 của Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1958, sau đó
được nhắc lại đầy đủ trong điều 15 của Công ước Luật biển 1982, quy định:
"Khi hai quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau, không một quốc gia nào
được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm trên đó cách đều
các điểm gần nhất của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia,
trừ khi có sự thoả thuận khác. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp
do có những danh nghĩa lịch sử hoặc các hoàn cảnh đặc biệt khác cần xác định ranh giới
lãnh hải của hai quốc gia theo cách khác không được trù định trong điều khoản này”.
Có thể nhận thấy, quy định nêu trên đã ghi nhận cả phương pháp đường trung
tuyến cách đều lẫn khả năng các quốc gia liên quan thoả thuận về một giải pháp phân
định khác trên cơ sở tính đến các yếu tố như danh nghĩa lịch sử hoặc hồn cảnh đặc biệt.
Tuy nhiên, cả Cơng ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1958 lẫn Cơng ước Luật biển
1982 đều khơng có quy định cụ thể về danh nghĩa lịch sử hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Điều
này đã gây ra khó khăn trong việc đạt được thoả thuận về việc thừa nhận có sự hiện diện
của danh nghĩa lịch sử hay hoàn cảnh đặc biệt, cũng như mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố này đến giải pháp phân định ranh giới lãnh hải. Thực tiễn quốc tế phân định lãnh hải
và vùng tiếp giáp cho thấy các hồn cảnh đặc biệt có thể đư ợc hiểu là:
- Hình dạng bất thường của bờ biển.
- Sự hiện diện của các đảo.
- Tuyến đường và luồng hàng hải.
Một điểm đáng lưu ý là trong Công ước Luật biển 1982 khơng có những qui định

riêng biệt về phân định nội thuỷ và vùng tiếp giáp lãnh hải. Như vậy, vấn đề đặt ra là các
vùng biển này sẽ được phân định như thế nào?
Đối với phân định nội thuỷ việc áp dụng các qui định của điều 15 Công ước Luật
biển 1982 đã được chấp nhận cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn quốc tế. Song đối với
phân định vùng tiếp giáp lãnh hải thì phức tạp hơn. Mặc dù cho đến nay khơng cịn nhiều
quốc gia ven biển qui định vùng tiếp giáp lãnh hải, song nhu cầu phân định vùng biển này
GVHD: Thạch Huôn

-13-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
giữa các quốc gia cũng như phân định vùng tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế vẫn
được đặt ra và cần phải giải quyết. Vấn đề phân định vùng tiếp giáp lãnh hải trở nên phức
tạp hơn khi các điều khoản về vùng biển này được qui định cùng các điều khoản về lãnh
hải trong phần II Công ước Luật biển 1982.
Thực tiễn phân định vùng tiếp giáp lãnh hải giữa các quốc gia trong thời gian
gần đây cho thấy các quốc gia về cơ bản đã chấp nhận áp dụng những quy định về phân
định lãnh hải trong điều 15 Công ước luật biển 1982 cho việc phân định vùng tiếp giáp
lãnh hải. Ngoài ra, do quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải gần với vùng đặc
quyền kinh tế hơn là với lãnh hải nên trong trường hợp xuất hiện nhu cầu phân định ranh
giới giữa vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, việc áp dụng điều 74 Công
ước Luật biển 1982 về phân định vùng đặc quyền kinh tế được coi là hợp lý.
Việt Nam có vấn đề phân chia nội thủy và lãnh hải với Trung Quốc trong Vịnh
Bắc Bộ và với Campuchia trong Vịnh Thái Lan.
1.2.4.2. Phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế
Phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế được quy định giống nhau trong
hai điều 74 và 83 của Công ước Luật biển 1982:

"Phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (thềm lục địa) giữa các quốc gia có bờ biển
nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau:
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (thềm lục địa) giữa các quốc gia có
bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thoả thuận
theo đúng luật pháp quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Qui chế Toà án Quốc tế để đi đến
một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thoả thuận trong một thời gian hợp lý, các quốc gia hữu
quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thoả thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần
hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm t hời có tính chất thực
tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thoả thuận dứt khoát trong giai
đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối
cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan
đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (thềm lục địa) được giải quyết
theo đúng điều ước đó".
GVHD: Thạch Hn

-14-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Trong quy định nêu trên, phương pháp "thương lượng" được đề cao, giành ưu tiên
cho "thoả thuận" giữa các bên hữu quan. Chỉ khi các bên khơng đạt được thoả thuận thì
mới sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình như quy định
trong Điều 2, khoản 3 của Hiến chương Liên Hợp Quốc và các bên được quyền chọn các
biện pháp hồ bình thích hợp. Ngồi ra, các bên có thể lựa chọn một hay nhiều biện pháp
sau :

- Tồ án quốc tế về luật biển.
- Tồ án cơng lý Quốc tế.
- Toà án Trọng tài.
- Toà án đặc biệt.
Có thể nhận thấy, khác với phân định lãnh hải, Công ước Luật biển 1982 không đưa
ra một phương pháp phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế cụ thể nào. Thay
vào đó, Cơng ước nhấn mạnh đến 2 nguyên tắc: “trên cơ sở luật pháp quốc tế” và “giải
pháp công bằng”. Như vậy, Công ước đã mở ra khả năng áp dụng rộng rãi tất cả các
nguồn của luật pháp quốc tế liên quan đến vấn đề này, kể cả tập quán quốc tế cũng như
các án lệ quốc tế và thực tiễn phân định giữa các quốc gia, để đạt được “thoả thuận”. Tuy
nhiên, đối với “giải pháp công bằng” một quy định hết sức bao qt và mang tính đ ịnh
hướng, Cơng ước khơng giải thích rõ thế nào là cơng bằng. Thực tiễn phân định của các
quốc gia và các án lệ quốc tế sau năm 1982 cho thấy khơng có một tiêu chí cụ thể và duy
nhất nào về “giải pháp cơng bằng”. Trong mỗi trường hợp phân định cụ thể, “giải pháp
công bằng” được coi là giải pháp mà các bên hữu quan có thể chấp nhận được sau khi
xem xét tất cả các yếu tố liên quan trong khu vực phân định và áp dụng linh hoạt các quy
định về phân định. Ngoài ra, thực tiễn quốc tế cũng cho thấy khơng có một giới hạn pháp
lý nào trong việc xác định các yếu tố liên quan. Các yếu tố này có thể bao gồm:
- Các đặc điểm địa lý, địa mạo, địa chất.
- Sự hiện diện của mỏ tài nguyên.
- Tỷ lệ giữa chiều dài bờ biển và diện tích thềm lục địa.
- Sự hiện diện của đảo.
- Điểm mút biên giới đất liền.
- Sự hiện diện của các đường đặc nhượng hay đường cấp phép thăm dò, khai thác dầu khí
hay các tài ngun khác.
GVHD: Thạch Hn

-15-

SVTH: Thạch Thị Đanh



Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
- Yếu tố quốc gia bất lợi về địa lý.
- Lợi ích kinh tế, chính trị, an ninh.
- Truyền thống đánh cá.
- Giao thông hàng hải.
- Yếu tố văn hố.
- Các quyền lợi chính đáng khác, v.v...
Án lệ quốc tế trong lĩnh vực phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho
thấy có sự ưu tiên xem xét các đặc trưng về địa lý, trong đó ba yếu tố thường được ưu
tiên và có ảnh hưởng nhiều đến giải pháp phân định là:
i) Hình thái bờ biển.
ii) Sự hiện diện của đảo.
iii) Tỷ lệ giữa chiều dài bờ biển và diện tích thềm lục địa.
Khoản 3 của hai điều 74 và 83 trên thực tế đã pháp điển hóa một thực tiễn khá phổ
biến, theo đó các bên tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa chồng lấn có
thể thoả thuận về một "dàn xếp tạm thời" như hợp tác cùng thăm dị, khai thác, bảo vệ tài
ngun mơi trường... Điểm đáng chú ý là “dàn xếp tạm thời” không được làm phương hại
đến giải pháp cuối cùng, tức là "dàn xếp tạm thời" không được ảnh hưởng đến kết quả
phân định (việc bên này hoặc bên kia nhân nhượng về một khía cạnh nào đó để đạt được
“dàn xếp tạm thời” khơng có nghĩa là từ bỏ lập trường của mình và cơng nhận lập trường
của bên kia). Thoả thuận về "dàn xếp tạm thời" khơng có nghĩa chấm dứt đàm phán phân
định. "Dàn xếp tạm thời" là giải pháp hồ hỗn, góp phần hạn chế những nguy cơ gây
xung đột, tạo cơ sở cho các bên hợp tác sử dụng, khai thác vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa cũng như bảo vệ môi trường biển ở đó. Có thể điểm qua một số trường hợp
thỏa thuận thăm do khai thác chung:
- Thỏa thuận giữa Malaysia và Thái Lan ngày 21/02/1979 trong Vịnh Thái Lan.
- Thỏa thuận giữa Malaysia và Việt Nam ngày 05/6/1992 trong Vịnh Thái Lan.
Lập trƣờng của Việt Nam về vấn đề phân định biển

Khoản 7 Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày
12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt
GVHD: Thạch Huôn

-16-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
Nam nêu rõ : “Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cùng các nước
liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù
hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm
lục địa của mỗi bên”. Bên cạnh đó Việt Nam ln luôn chủ trương giải quyết các tranh
chấp bằng biện pháp đàm phán trực tiếp giữa các quốc gia hữu quan trên cơ sở tôn trọng
độc lập và chủ quyền của nhau.

GVHD: Thạch Huôn

-17-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp
CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN
2.1. Các quy định về phân định biển
2.1.1. Đƣờng cơ sở
Đường cơ sở là đường từ đó được lấy làm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, nó là ranh

giới phía trong của lãnh hải, các Quốc gia có biển phải xác định được đường cơ sở của
mình.
Về mặt ý nghĩa, việc xác định đường cơ sở luôn là một vấn đề rất nhạy cảm do tính
chất quyết định của đường cơ sở ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi chủ quyền, quyền chủ
quyền của quốc gia ven biển và ảnh hưởng của các quốc gia khác. Một văn bản pháp luật
Quốc gia liên quan đến việc xác định đường cơ sở và để điều hòa lợi ích của Quốc gia
ven biển và các Quốc gia khác, Công ước Luật biển 1982 cũng như thực tiễn cho thấy hai
phương pháp để xác định đường cơ sở. Đường cơ sở thông thường và đường cơ sở thẳng.
* Phƣơng pháp đƣờng cơ sở thông thƣờng: Phương pháp này được áp dụng để xác
định đường cơ sở tại những nơi có địa hình bờ biển phẳng, khơng khúc khuỷu, lồi lõm.
Công ước Luật biển năm 1982 quy định : “Trừ khi có quy định khác của Cơng ước,
đường cơ sở thơng thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước thủy triều thấp
nhất dọc theo bờ biển như được thể hiện trên hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển
chính thức cơng nhận”9 .
“Trong những trường hợp những bộ phận đảo cấu thành bằng san hơ hoặc các đảo có
đá ngầm ven bờ bao quanh thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn
nước thủy triều thấp nhất ở bờ ngoài cùng của các mỏm đá như đã được thể hiện trên hải
đồ được Quốc gia ven biển chính thức cơng nhận” 10.
Như vậy, có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất (trong một ngày đêm, một tháng hoặc
một năm) dọc theo bờ biển, đảo, quần đảo để xác định đường cơ sở. Tuy nhiên, mức
nước thủy triều thấp nhất ở các nước thường khơng giống nhau, thậm chí ngay trên tuyến
bờ biển của một Quốc gia cũng không giống nhau. Hơn nữa, từng nước tự ình xác định
mực nước chuẩn của mình. Đây là vấn đề thuộc chủ quyền Quốc gia của nước ven biển,
các nước ngồi khơng thể kiểm tra hoặc đối chiếu được cụ thể mà chỉ có thể đánh giá tính
chính xác, mức độ hợp lý của đường cơ sở thông thường bằng cách căn cứ vào chính sự
cơng bố trên hải đồ của Quốc gia ven biển đưa ra.
9

TS. Nguyễn Hồng Thao, Những đều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997, Tr. 263.
Xem Điều 6 Công ước Luật biển năm 1982.


10

GVHD: Thạch Huôn

-18-

SVTH: Thạch Thị Đanh


Việt Nam và vấn đề pháp lý về phân định biển, thực trạng và giải pháp

*Phƣơng pháp đƣờng cơ sở thẳng:
Phương pháp này thường hay được áp dụng đối với các Quốc gia có bờ biển và địa
hình phức tạp, có nhiều đảo ven bờ hoặc những vùng ngấn nước thủy triều thấp nhất
không thể hiện rõ ràng. Người ta chọn những điểm nhô ra xa nhất của đảo ven bờ, của
mũi hoặc những điểm nhất định khi nối các điểm đó lại với nhau tạo thành một đường
gãy khúc liên tiếp chạy dọc theo chiều hướng chung của bờ biển làm đường cơ sở để tính
chiều rộng lãnh hải 11 .
Phương pháp này đã được áp dụng từ lâu trong thực tiễn các nước có bờ biển phức
tạp. Trong Điều 7 Công ước Luật biển 1982 quy định về cách xác định đường cơ sở
thẳng như sau:
“1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và
chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng có thể được sử dụng để kẻ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ khơng ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm
tự nhiên khác, các điểm tích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước thủy triều thấp
nhất nhô ra xa nhất và ngay cả trường hợp về sau ngấn nước triều thấp nhất có thể dịch
chuyển vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã vạc h ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các
Quốc gia ven biển sữa đổi chúng theo Công ước.

3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển và
các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức để đặt
dưới chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi
lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có các đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên
nhô trên mặt nước hoặc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được thừa nhận chung của
quốc tế.
5. Trong trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo
khoản 1 khi ấn định một số đoạn đường cơ sở tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt
của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đ ã được một quá trình sử dụng lâu
dài chứng minh rõ ràng.

11

Ts. Kim Oanh Na, giáo trình Luật biển quốc tế, Trường Đại học Cần Thơ, 2005,Tr. 55-57

GVHD: Thạch Huôn

-19-

SVTH: Thạch Thị Đanh


×