Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Những vấn đề pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.77 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MAI TRÚC

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ
VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI
ĐỐI VỚI NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS NGUYỄN QUANG TUYẾN

HÀ NỘI 2011


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tƣ liệu sản xuất: TLSX
Xã hội: XH
Sử dụng đất: SDĐ
Quyền sử dụng đất: QSDĐ
Ủy ban nhân dân: UBND
Tài nguyên và môi trƣờng: TN&MT



MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Lời nói đầu

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vi phạm pháp

6

luật đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người
sử dụng đất
1.1.

Cơ sở của việc xây dựng các quy định về xử lý vi phạm pháp

6

luật đất đai đối với ngƣời sử dụng đất
1.2.

Tổng quan những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật đất đai

9

và xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời sử dụng đất
1.2.1.

Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai


9

1.2.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật

9

1.2.1.2. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai

11

1.2.1.3. Đặc điểm của vi phạm pháp luật đất đai

14

1.2.2.

Khái niệm ngƣời sử dụng đất

15

1.2.3.

Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời sử

18

dụng đất
1.2.4.


Hình thức xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời sử

20

dụng đất
1.3.

Lƣợc sử hình thành và phát triển chế định về xử lý vi phạm

22

pháp luật đất đai đối với ngƣời sử dụng đất
1.3.1.

Giai đoạn trƣớc Đổi mới (trƣớc năm 1986)

22

1.3.2.

Giai đoạn sau Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

26


Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật

30

đất đai đối với người sử dụng đất

2.1.

Thực trạng chung về tình hình xử lý vi phạm pháp luật đất đai

30

do ngƣời sử dụng đất gây ra
2.2.

Thực trạng pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất

34

đai cụ thể do ngƣời sử dụng đất gây ra
2.2.1.

Thực trạng áp dụng quy định về xử lý hành vi lấn, chiếm đất

34

đai
2.2.2.

Thực trạng áp dụng quy định vễ xử lý hành vi chuyển mục đích

38

sử dụng đất trái phép
2.2.3.


Thực trạng áp dụng quy định về xử lý hành vi để đất hoang hóa,

41

không sử dụng
2.2.4.

Thực trạng áp dụng quy định về xử lý hành vi chuyển nhƣợng

45

quyền sử dụng đất trái pháp luật
2.2.5.

Thực trạng áp dụng quy định về xử lý hành vi lừa đảo trong

48

lĩnh vực đất đai
2.3.

Đánh giá thực trạng pháp luật xử lý vi phạm pháp luật đối với

50

ngƣời sử dụng đất
2.3.1.

Những ƣu điểm


50

2.3.2.

Những hạn chế, khiếm khuyết

52

2.3.3.

Nguyên nhân của hạn chế, khiếm khuyết

53

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật

56

về xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng
đất


3.1.

Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất

56

đai đối với ngƣời sử dụng đất
3.2.


Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai

59

đối với ngƣời sử dụng đất

3.2.1.

Hoàn thiện các quy định về sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất

59

3.2.2.

Hoàn thiện các quy định về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nƣớc đối

60

với đất đai, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý đất đai
3.2.3.

Sửa đổi, bổ sung các quy định về thị trƣờng bất động sản nói

60

chung và thị trƣờng quyền sử dụng đất nói riêng
3.2.4.

Sửa đổi, bổ sung các quy định tài chính về đất đai


61

3.2.5.

Bổ sung các quy định về tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra

62

đất đai, phát hiện và ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh
những hành vi vi phạm của ngƣời sử dụng đất
3.2.6.

Hoàn thiện pháp luật về tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai

63

trong nhân dân
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

64


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tƣ liệu sản xuất
(TLSX) đặc biệt, là địa bàn phân bố các khu dân cƣ, xây dựng các cơ sở kinh tế,

xã hội (KT-XH), quốc phòng và an ninh, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trƣờng sống [28]. Dƣới góc độ chính trị, đất đai là một bộ phận không thể
tách rời của lãnh thổ quốc gia, gắn liền với chủ quyền quốc gia. Chính vì đất đai
có giá trị nhƣ vậy nên ngay từ rất sớm, cách đây hàng vạn năm con ngƣời đã
nhận thức đƣợc vai trò và tầm quan trọng của đất đai. Bên cạnh việc khai thác,
sử dụng các thuộc tính có ích của đất nhằm tạo ra của cải vật chất nuôi sống con
ngƣời thì trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, cải tạo đất đai đƣợc đặt ra không chỉ là
bổn phận của mỗi cá nhân đối với cộng đồng XH mà còn là nghĩa vụ của thế hệ
hôm nay đối với các thế hệ mai sau; bởi lẽ, đất đai là nguồn tài nguyên thiên
nhiên hữu hạn. Nó mãi là TLSX nếu con ngƣời biết kết hợp hài hòa giữa việc
khai thác với bảo vệ, bồi bổ đất đai. Trách nhiệm này đƣợc pháp luật ghi nhận
bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời sử dụng đất (SDĐ) và trở
thành một loại trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên với mong muốn thu đƣợc lợi ích tối đa từ đất đai mang lại mà
một bộ phận dân cƣ đã không từ bất kỳ một thủ đoạn nào kể cả việc vi phạm
pháp luật đất đai để khai thác, “bóc lột” đất đai một cách bất hợp lý. Trong điều
kiện nƣớc ta chuyển đối sang nền kinh tế thị trƣờng, Nhà nƣớc áp dụng việc đổi
mới cơ chế quản lý đất đai khiến đất đai ngày càng trở lên có giá thì các hành vi
vi phạm pháp luật đất đai ngày càng gia tăng. Trên thực tế, vi phạm pháp luật
của ngƣời SDĐ biểu hiện ở các hành vi SDĐ không đúng mục đích, lấn chiếm
đất đai, hủy hoại đất, mua bán, chuyển nhƣợng đất đai nhằm mục đích kiếm lời
v.v... Các vi phạm pháp luật do ngƣời SDĐ gây ra không giới hạn ở hộ gia đình,


2

cá nhân mà còn xảy ra ở các cơ quan nhà nƣớc, đơn vị vũ trang nhân dân và tổ
chức, cá nhân nƣớc ngoài SDĐ v.v. Vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ nói riêng đã trở thành vấn đề bức xúc, tác
động tiêu cực đến môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh. Nó không chỉ thể hiện thái độ

coi thƣờng pháp luật mà còn gây mất lòng tin của xã hội vào sự nghiêm minh
của pháp luật, làm xói mòn lòng tin của ngƣời dân vào chế độ v.v. Trong những
năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật đất đai diễn ra khá phổ biến ở tất cả
các địa phƣơng trên cả nƣớc. Để từng bƣớc ngăn chăn và đẩy lùi hành vi vi
phạm pháp luật đất đai Nhà nƣớc ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp
luật đất đai nói chung và các quy định về xử lý vi phạm pháp luật đất đai nói
riêng với những chế tài pháp lý cứng rắn đi đôi với tăng cƣờng thực hiện kiểm
tra, thanh tra đất đai. Công tác xử lý vi phạm pháp luật đất đai đã đạt đƣợc
những kết quả tích cực, góp phần từng bƣớc khắc phục tình trạng buông lỏng
quản lý đất đai. Mặc dù vậy hoạt động này vẫn bộc lộ những hạn chế, khiếm
khuyết nhƣ xử lý vi phạm pháp luật đất đai chƣa kịp thời, nghiêm minh; còn
nảy sinh hiện tƣợng bao che, nể nang, tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là tình
trạng “ phạt cho tồn tại” v.v. Vì vậy, đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả công
tác xử lý vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật của ngƣời SDĐ nói
riêng là một đòi hỏi mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm thiết lập
trật tự, kỷ cƣơng và tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý và
SDĐ đai. Tuy nhiên muốn thực hiện vấn đề này một cách có hiệu quả, chúng ta
cần đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ.
Vi phạm pháp luật đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai là đề tài
nghiên cứu không mới ở nƣớc ta. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này. Song hiện nay dƣờng nhƣ vẫn chƣa có một chuyên khảo nào


3

đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn diện, có hệ thống cả về lý luận và
thực tiễn về xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ đặt trong bối cảnh
tổng kết 08 năm thi hành Luật đất đai năm 2003. Nhận thức đƣợc vấn đề này,
tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Những vấn đề pháp lý về xử lý vi phạm pháp

luật đất đai đối với người sử dụng đất” làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Để giải quyết những yêu cầu mà đề tài đặt ra, Luận văn xác định cho
mình các mục đích nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng các quy định về xử lý vi
phạm pháp luật đất đai;
- Chỉ ra những hạn chế của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về đất
đai;
- Đƣa ra những luận cứ khoa học cho việc định hƣớng hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài “Những vấn đề pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với
người sử dụng đất” có những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phân tích luận cứ khoa học xây dựng các quy định về xử lý vi phạm
pháp luật đất đai nói chung và xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ
nói riêng;
- Đánh giá thực trạng pháp luật xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời
SDĐ;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất
đai của ngƣời SDĐ;
3. Phạm vi nghiên cứu


4

Vi phạm pháp luật đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai là đề tài có
nội hàm nghiên cứu rộng và phức tạp. Vi phạm pháp luật đất đai đƣợc xử lý với
nhiều hình thức trách nhiệm pháp lý khác nhau: Trách nhiệm hình sự, trách
nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên căn cứ

tên đề tài nghiên cứu là những vấn đề pháp lý về xử lý vi phạm pháp luật đất
đai của ngƣời sử dụng đất (SDĐ), nên luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở
những vấn đề pháp lý về trách nhiệm hành chính áp dụng đối với ngƣời SDĐ có
hành vi vi phạm pháp luật đất đai với mốc thời gian từ khi Luật đất đai năm
1993 đƣợc ban hành đến nay.
4. Tình hình nghiên cứu
Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu trực
tiếp hoặc gián tiếp về xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ nhƣ: Xử
lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai,
khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Thanh Huyền (2006); Xử lý vi phạm hành
chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai, khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Thu Hà (2008); Chƣơng VIII - Thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai - Giáo trình
Luật đất đai - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009; … Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu trên đã đề cập một số cơ sở lý luận về xử lý vi phạm pháp luật
đất đai cũng nhƣ đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất
đai. Tuy nhiên cho đến nay dƣờng nhƣ vẫn chƣa có một luận văn thạc sĩ luật
học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện cả về khía cạnh lý luận và khía
cạnh thực tiễn pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai của ngƣời SDĐ đặt
trong bối cảnh tổng kết 08 năm thi hành Luật đất đai năm 2003 tạo tiền đề cho
việc xây dựng, ban hành một đạo luật đất đai mới.
5. Phương pháp nghiên cứu


5

Để đạt đƣợc các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu Luận văn đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin;

- Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
(i) Phƣơng pháp bình luận, diễn giải, phƣơng pháp lịch sử … đƣợc sử
dụng trong Chƣơng 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vi phạm
pháp luật đất đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời SDĐ;
(ii) Phƣơng pháp điều tra, phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh
luật học v.v.. đƣợc sử dụng trong Chƣơng 2 khi tìm hiểu thực trạng pháp luật về
xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời SDĐ;
(iii) Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp … đƣợc sử dụng ở
Chƣơng 3 khi đề cập định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật đất đai đối với ngƣời SDĐ;
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vi phạm pháp luật đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai
đối với người sử dụng đất;
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý
vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất;


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT
ĐAI VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƯỜI SỬ
DỤNG ĐẤT
1.1. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nƣớc ta đang chuyển sang nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN. Khâu đột phá trong chính sách kinh tế cho bƣớc
chuyển này là việc ban hành và thực hiện những chế độ, chính sách mới trong
lĩnh vực quản lý đất đai. Để giải phóng mọi năng lực sản xuất của ngƣời lao
động trong sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề an ninh lƣơng thực
quốc gia, pháp luật đất đai đã xác định và đề cao vai trò của hộ gia đình: Thừa
nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông nghiệp. Nhà nƣớc
giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Hộ gia đình, cá nhân
đƣợc chuyển quyền sử dụng đất (QSDĐ) trong thời hạn giao đất (Điều 1 Luật
đất đai năm 1993). Những quy định này đã phát huy hiệu quả tích cực: Ngƣời
sử dụng đất (SDĐ) yên tâm gắn bó lâu dài với đất đai, khuyến khích nông dân
đầu tƣ, nâng cao hiệu quả SDĐ. Nƣớc ta từ một nƣớc thiếu lƣơng thực, hàng
năm phải nhập hàng vạn tấn lƣơng thực đã tự túc đƣợc lƣơng thực và vƣơn lên
trở thành nƣớc xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên bên cạnh mặt tích
cực, những quy định của Luật đất đai năm 1993 về giao QSDĐ cho hộ gia đình,
cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và cho phép QSDĐ tham gia các giao dịch dân
sự đã làm cho ngƣời SDĐ ngày càng thấy đƣợc giá trị của đất đai. Hơn nữa,
trong điều kiện kinh tế thị trƣờng do chạy theo lợi nhuận mà ngƣời SDĐ đã
không từ bỏ bất kỳ thủ đoạn nào kể cả thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đất


7

đai. Vì vậy những hành vi vi phạm pháp luật đất đai cần phải bị xử lý kịp thời,
nghiêm minh bằng pháp luật; bởi vì:
Thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm pháp
luật đất đai nói riêng đã gây ra những hệ quả tiêu cực đối với đời sống kinh tế xã hội; cụ thể:
- Hành vi vi phạm pháp luật đất đai xâm phạm đến khách thể của hoạt
động quản lý nhà nƣớc về đất đai. Trật tự quản lý đất đai do Nhà nƣớc xây dựng
bị phá vỡ, làm rối loại sự vận hành của quan hệ đất đai vận động theo một quỹ

đạo quản lý của Nhà nƣớc. Điều này khiến Nhà nƣớc không kiểm soát đƣợc thị
trƣờng đất đai gây tác động tiêu cực đến sự hấp dẫn của môi trƣờng đầu tƣ. Hơn
nữa, hành vi vi phạm pháp luật đất đai không chỉ dẫn đến việc phá vỡ trật tự
quản lý và SDĐ đã đƣợc xác lập mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp,
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; thậm chí phát triển thành những “điểm nóng”
gây mất ổn định về chính trị.
- Hành vi vi phạm pháp luật đất đai là biểu hiện sự coi thƣờng pháp luật,
thể hiện ý thức pháp luật ở một trình độ thấp của ngƣời dân, không tôn trọng
các quy tắc ứng xử chung của cộng đồng trong lĩnh vực đất đai.
Để thiết lập và duy trì trật tự kỷ cƣơng trong xã hội, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trong SDĐ thì hành vi vi phạm pháp luật đất đai
phải đƣợc pháp luật xử lý.
Thứ hai, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định:
“Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không phải bằng đạo lý”. Điều
này là vô cùng quan trọng; bởi lẽ, quá trình chuyển đổi nền kinh tế đƣợc quản lý
theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa cao độ sang nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa sẽ tồn tại nhiều thành phần kinh tế có
lợi ích không đồng nhất, thâm chí mâu thuẫn với nhau. Để các thành phần kinh


8

tế cùng tồn tại, hợp tác và phát triển đòi hỏi Nhà nƣớc phải giải quyết một cách
hài hòa lợi ích của những chủ thể này. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng
Nhà nƣớc và pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp luật với những đặc trƣng mang
tính đặc thù là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cƣỡng chế và tính tự
điều chỉnh sẽ tạo lập đƣợc sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ cho mọi thành
phần kinh tế trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Điều này có nghĩa là pháp
luật thông qua cơ chế điều chỉnh sẽ tác động vào những hành vi ứng xử của các
chủ thể tham gia quan hệ đất đai trên hai phƣơng diện: (i) Đối với những ứng

xử của chủ thể tham gia quan hệ đất đai phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì
pháp luật bảo vệ, khuyến khích phát triển; (ii) Ngƣợc lại, đối với những ứng xử
của chủ thể tham gia quan hệ đất đai không phù hợp với lợi ích chung của xã
hội thì pháp luật xử lý, ngăn chặn và tiến tới loại bỏ dần khỏi đời sống xã hội.
Thứ ba, pháp luật có mục đích là giáo dục, răn đe con ngƣời để họ có
những hành vi ứng xử vừa mang lại lợi ích cho bản thân mình nhƣng lại không
làm phƣơng hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác. Tuy nhiên, nếu
giáo dục thuyết phục không mang lại hiệu quả thì pháp luật phải trừng trị, xử lý
đối với những ngƣời có hành vi ứng xử làm phƣơng hại đến lợi ích chung của
cộng đồng cũng nhƣ lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác. Hành vi vi phạm
pháp luật đất đai cũng cần phải đƣợc xử lý thích đáng. Có nhƣ vậy thì tính
thƣợng tôn của pháp luật mới đƣợc mọi ngƣời tuân thủ triệt để.
Thứ tư, đất đai vừa là TLSX đặc biệt, vừa là lãnh thổ quốc gia, nơi cƣ trú
của con ngƣời; đồng thời là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trƣờng
sống. Do đó, đất đai là khách thể đặc biệt thuộc đối tƣợng bảo vệ nghiêm ngặt
của pháp luật. Hơn nữa, đất đai không do con ngƣời tạo ra mà do tự nhiên tạo
ra, cố định về vị trí địa lý và bị giới hạn bởi không gian, diện tích đang có xu
hƣớng giảm xuống do sự tác động của con ngƣời và thiên nhiên; trong khi đó,


9

nhu cầu SDĐ của con ngƣời ngày càng tăng do sự bùng nổ dân số. Hơn nữa, đất
đai là nguồn tài nguyên rất khó tái tạo hoặc nếu tái tạo phải bỏ một số tiền
không nhỏ nếu bị xâm phạm. Vì vậy, Nhà nƣớc cần phải xây dựng các quy định
về xử lý vi phạm pháp luật đất đai nhằm phòng ngừa, răn đe hoặc trừng trị
những hành vi SDĐ sai mục đích, lãng phí, kém hiệu quả.
Thứ năm, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trƣờng,
dƣới tác động của các quy luật khách quan của cơ chế thị trƣờng ngƣời dân
ngày càng nhận thấy giá trị to lớn của đất đai. Chính vì vậy bên cạnh việc SDĐ

tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả thì các vi phạm pháp luật đất đai trong SDĐ
nhằm mục đích thu đƣợc lợi nhuận tối đa cũng ngày càng gia tăng. Điều này
không chỉ đẩy giá đất lên cao gấp nhiều lần so giá trị thực mà còn gây lũng
đoạn hoạt động của thị trƣờng QSDĐ và làm giảm hiệu quả quản lý nhà nƣớc
đối với đất đai v.v. Để khắc phục, tiết chế thực trạng này thì các vi phạm pháp
luật về SDĐ cần phải đƣợc xử lý bằng pháp luật. Có nhƣ vậy mới góp phần làm
lành mạnh hóa hoạt động của thị trƣờng QSDĐ - một thành tố quan trọng để
bảo đảm cho nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta vận hành thông suốt và đồng bộ.
1.2. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI VÀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƢỜI
SỬ DỤNG ĐẤT
1.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
1.2.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là một khái niệm đƣợc sử dụng phổ biến trong các
sách, báo, tài liệu pháp lý ở nƣớc ta. Khái niệm vi phạm pháp luật đƣợc nhiều
công trình của giới nghiên cứu khoa học pháp lý nƣớc ta tìm hiểu, giải mã.


10

- Theo Giáo trình Lý luận chung Nhà nƣớc và Pháp luật của Khoa Luật
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2001 định nghĩa: “Vi phạm là một sự kiện
pháp lí đặc biệt, đó là hành vi do các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các yêu
cầu của quy phạm pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo
vệ”. Có bốn loại vi phạm pháp luật: Vi phạm hình sự, vi phạm dân sự, vi phạm
hành chính, vi phạm kỷ luật, tƣơng ứng với mỗi loại vi phạm là một hình thức
truy cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể.
Vi phạm pháp luật là: Hành vi chủ thể thực hiện trái với các quy định của
quy phạm pháp luật, gây tổn hại cho xã hội.
Theo Từ điển Luật học: “Vi phạm pháp luật: 1. Nghĩa rộng: các việc sai,

trái pháp luật nói chung; 2. Nghĩa hẹp: các việc sai, trái pháp luật chƣa cấu
thành tội phạm và thƣờng đƣợc gọi là vi phạm hành chính” [6, tr.568].
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tƣ pháp): “Vi
phạm pháp luật: Hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lí xâm hại tới quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu cơ bản: 1) Hành vi của con ngƣời gồm
hành vi hành động và hành vi không hành động; 2) Là hành vi trái quy định của
pháp luật. Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ làm không đúng điều
pháp luật cho phép, không làm hoặc làm không đầy đủ điều pháp luật bắt buộc
phải làm hoặc làm điều mà pháp luật cấm; 3) Là hành vi có chƣa đựng lỗi của
chủ thể - trạng thái tâm lí thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi
của mình ở thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật; 4) Là hành vi do
chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện (nếu chủ thể hành vi trái pháp
luật là cá nhân thì ngƣời đó phải đến độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí theo luật
định, không mắc các bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức đƣợc hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình và hậu quả pháp lý của nó). Tùy thuộc


11

vào tính chất của vi phạm pháp luật, vào hậu quả có hại và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi cũng nhƣ tính chất của chế tài có thể đƣợc áp dụng đối
với hành vi mà các vi phạm pháp luật đƣợc chia thành hai loại là tội phạm và vi
phạm, trong đó vi phạm có thể là vi phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm
kỉ luật nhà nƣớc”[7, tr.852].
Từ những quan niệm trên đây, chúng ta có thể hiểu vi phạm pháp luật là
hành vi của con ngƣời xâm phạm những điều bị pháp luật cấm hoặc không cho
phép thực hiện.
1.2.1.2. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
Trong quản lý và SDĐ đai, con ngƣời có những hành vi ứng xử khác

nhau. Điều này phụ thuộc vào nhận thức và ý muốn chủ quan của chủ thể SDĐ.
Để tiếp cận, khai thác, SDĐ đai mỗi ngƣời đều có quyền tự do lựa chọn cách
thức ứng xử. Nếu việc lựa chọn cách thức ứng xử của ngƣời SDĐ phù hợp với
lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội và không bị pháp luật cấm thì đó là biểu hiện
của việc ngƣời SDĐ tuân thủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật đất đai quy định.
Ngƣợc lại những ứng xử của ngƣời SDĐ trong khai thác, SDĐ đai không phù
hợp với lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội và bị pháp luật cấm thì bị coi là hành
vi vi phạm pháp luật đất đai. Vậy vi phạm pháp luật đất đai là gì?.
Theo Giáo trình Luật Đất đai năm 2006 của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
thì: Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật của ngƣời SDĐ xâm
phạm đến quyền sở hữu toàn dân về đất đai, các quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời SDĐ cũng nhƣ các quy định về chế độ quản lý và SDĐ đai.
Theo Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai: “Vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định này là hành vi cố ý hoặc vô ý của
ngƣời sử dụng đất, tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức hoạt động dịch vụ về


12

đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà chƣa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” (Khoản 2 Điều 1).
Từ những quan niệm trên đây về vi phạm pháp luật đất đai, chúng ta có
thể đƣa ra những dấu hiệu nhận biết của một vi phạm pháp luật đất đai. Những
dấu hiệu này bao gồm:
Thứ nhất, vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật đất đai của
một cá nhân.
Theo Lý luận chung về Nhà nƣớc và Pháp luật, đối tƣợng điều chỉnh của
ngành luật là nhóm quan hệ xã hội cùng loại (cùng đặc điểm, cùng tính chất).
Mà quan hệ xã hội là quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời trong một lĩnh vực

nhất định của đời sống xã hội đƣợc thực hiện thông qua các hành vi ứng xử.
Theo C.Mác thì: “Con ngƣời chỉ tồn tại với pháp luật thông qua hành vi của
mình” [9, tr.19]. Nhƣ vậy, đối tƣợng điều chỉnh của ngành luật đất đai là nhóm
quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời trong việc chiếm hữu, quản lý và SDĐ
đai đƣợc thực hiện thông qua các hành vi ứng xử. Nếu các hành vi ứng xử này
vi phạm những điều pháp luật đất đai nghiêm cấm thì bị coi là hành vi trái pháp
luật đất đai. Vậy hành vi trái pháp luật đất đai là gì?
Hành vi trái pháp luật đất đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng những quy định của pháp luật đất đai, xâm hại tới những khách thể
đƣợc pháp luật đất đai bảo vệ. Hành vi trái pháp luật đất đai đƣợc biểu hiện trên
thực tế bằng hành động (ví dụ: lấn, chiếm đất đai; SDĐ không đúng mục đích;
hủy hoại đất đai; giao đất không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tƣợng
v.v) hoặc không hành động (ví dụ: không bồi bổ cải tạo đất; nhận đất mà không
sử dụng; bỏ hoang hóa, lãng phí đất đai v.v). Tuy nhiên trên thực tế có trƣờng
hợp xử sự của một ngƣời không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định


13

của pháp luật đất đai nhằm ngăn ngừa một thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra cho xã
hội thì không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Thứ hai, vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật đất đai của
một cá nhân đƣợc thực hiện do lỗi của họ gây ra.
Theo khoa học pháp lý, lỗi là trạng thái tâm lý, là ý chí chủ quan của chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm. Lỗi có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý thể hiện nhận
thức của bản thân ngƣời vi phạm đối với hành vi và hậu quả do họ gây ra.
- Lỗi cố ý đƣợc thể hiện ở chỗ ngƣời có hành vi vi phạm nhận thức đƣợc
tính chất hành vi của mình nhƣng vẫn thực hiện. Lỗi cố ý có hai hình thức thể
hiện là lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
- Lỗi vô ý bao gồm: Lỗi vô ý do cẩu thả là ngƣời có hành vi vi phạm

không biết và không nhận thức đƣợc rằng hành vi của mình là trái pháp luật
mặc dù cần phải biết và nhận thức đƣợc điều đó; vô ý do quá tự tin là ngƣời có
hành vi vi phạm nhận thức đƣợc điều này nhƣng do quá tự tin cho rằng có thể
ngăn ngừa đƣợc dễ dàng hậu quả của hành vi trái pháp luật đó của mình.
Yếu tố lỗi là một dấu hiệu không thể thiếu đƣợc trong việc nhận biết một
hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm pháp luật đất đai nói
riêng. Bởi lẽ, mục đích cao cả của pháp luật không phải là trừng trị, xử lý hành
vi vi phạm pháp luật của một ngƣời mà là hƣớng tới việc giáo dục ngƣời vi
phạm. Thông qua chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm của một ngƣời mà làm
họ nhận biết đƣợc sai lầm của mình; đồng thời giúp ngƣời có hành vi vi phạm
tự cải tạo để trở thành ngƣời công dân có ích. Hơn nữa, thông qua việc xử lý
hành vi vi phạm pháp luật của một ngƣời mà có tác dụng giáo dục, răn đe ngƣời
khác không nên có hành vi vi phạm pháp luật tƣơng tự. Nhƣ vậy mục đích giáo
dục của pháp luật sẽ không thể thực hiện đƣợc nếu không xác định đƣợc ý thức
chủ quan, tâm lý của ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật thông qua việc nhận


14

biết đƣợc yếu tố lỗi của họ. Nhƣ vậy, lỗi là yếu tố không thể thiếu đƣợc khi xác
định một hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật đất đai nói
riêng. Lỗi thể hiện về mặt nhận thức của ngƣời vi phạm. Vì thế sẽ không bị coi
là có lỗi nếu bản thân ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không nhận
thức đƣợc hành vi của mình xâm phạm các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Xét yếu tố lỗi một cách chính xác sẽ giúp lựa chọn hình thức xử lý phù hợp đối
với một hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.1.3. Đặc điểm của vi phạm pháp luật đất đai
Từ việc tìm hiểu khái niệm vi phạm pháp luật đất đai trên đây, theo
chúng tôi loại vi phạm pháp luật này mang một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của vi phạm pháp luật đất đai là ngƣời SDĐ (ngƣời

đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ ổn định; ngƣời
nhận chuyển QSDĐ hợp pháp), tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức hoạt
động dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp luật đất đai mà chƣa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Điều này có
nghĩa là chủ thể vi phạm pháp luật đất đai bao gồm cá nhân trong nƣớc, cá nhân
nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài (gọi chung là cá nhân); cơ
quan, tổ chức trong nƣớc, tổ chức nƣớc ngoài (gọi chung là tổ chức); hộ gia
đình; cơ sở tôn giáo có hành vi vi phạm hành chính trong SDĐ đai hoặc trong
việc thực hiện các hoạt động dịch vụ về đất đai.
Cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ có hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý đất đai không thuộc nhóm chủ thể vi phạm pháp luật đất đai
trong SDĐ.


15

Thứ hai, khách thể của vi phạm pháp luật đất đai là các quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nƣớc với tƣ cách đại diện chủ sở hữu đất đai; quyền và lợi
ích hợp pháp của ngƣời SDĐ đƣợc pháp luật đất đai bảo vệ.
Thứ ba, do đất đai là tƣ liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố các khu
dân cƣ, xây dựng cơ sở kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trƣờng sống nên vi phạm pháp luật đất đai không
chỉ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời SDĐ mà còn xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, của cộng đồng.
Hậu quả của vi phạm pháp luật đất đai để lại những tác động tiêu cực trên
nhiều phƣơng diện chính trị, kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Việc khắc phục hậu
quả của vi phạm pháp luật đất đai tiến hành rất khó khăn, phức tạp và rất tốn
kém; thậm chí có trƣờng hợp vi phạm pháp luật đất đai để lại hậu quả không thể
khắc phục đƣợc.
Thứ tư, việc SDĐ thƣờng liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng nhà ở,

công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. Do đó vi phạm pháp
luật đất đai thƣờng kéo theo vi phạm pháp luật về nhà ở, về lĩnh vực xây dựng;
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực dân sự v.v.
1.2.2. Khái niệm người sử dụng đất
Ngƣời SDĐ là một khái niệm đƣợc sử dụng trong Luật đất đai và các
sách, báo pháp lý ở nƣớc ta. Khái niệm này đƣợc giới nghiên cứu khoa học
pháp lý nƣớc ta tiếp cận và tìm hiểu cụ thể nhƣ sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Chủ thể sử dụng đất là những tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân (gọi chung là ngƣời sử dụng đất) đƣợc Nhà nƣớc thông qua
các cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng đất” [2, tr.182-183]. Thống nhất
với quan điểm này, có ý kiến nhìn nhận ngƣời SDĐ ở mức độ cụ thể hơn:
“Ngƣời sử dụng đất là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đƣợc Nhà nƣớc giao đất


16

hoặc cho thuê đất để sử dụng. Ngƣời sử dụng đất bao gồm: Các tổ chức trong
nƣớc, các tổ chức nƣớc ngoài, hộ gia đình và cá nhân”.
Quan điểm trên đây cũng nhận đƣợc sự ủng hộ của một số nhà nghiên
cứu luật học nƣớc ta, khi họ cho rằng: “Ngƣời sử dụng đất là tổ chức (tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, xã hội),
hộ gia đình và cá nhân đƣợc Nhà nƣớc giao đất hoặc cho thuê đất để sử dụng”
[8, tr.253].
- Quan điểm thứ hai cho rằng: “Ngƣời sử dụng đất là ngƣời đƣợc Nhà
nƣớc giao đất hoặc cho thuê đất, là ngƣời trực tiếp thực hiện ý đồ sử dụng đất
của Nhà nƣớc nhằm khai thác các thuộc tính có ích của đất phục vụ cho việc
phát triển kinh tế. Ngƣời sử dụng đất có thể là tổ chức, hộ gia đình hoặc cá
nhân” [5, tr.135].
Cả hai nhóm quan điểm trên đều thống nhất với nhau ở việc xác định tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân là ngƣời SDĐ. Tuy nhiên, nhóm quan điểm thứ nhất

đƣa ra khái niệm ngƣời SDĐ theo phƣơng diện pháp lý; theo đó, ngƣời SDĐ
phải là ngƣời (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) đƣợc Nhà nƣớc với tƣ cách đại
diện chủ sở hữu giao đất, cho thuê đất sử dụng; công nhận QSDĐ sử dụng ổn
định; đƣợc Nhà nƣớc công nhận tính hợp pháp của việc nhận chuyển QSDĐ.
Theo quan điểm này, ngƣời trên thực tế ngƣời SDĐ nhƣng không đƣợc Nhà
nƣớc giao đất, cho thuê đất sử dụng; công nhận QSDĐ sử dụng ổn định; không
đƣợc Nhà nƣớc công nhận tính hợp pháp của việc nhận chuyển QSDĐ thì
không phải là ngƣời SDĐ. Quan niệm về ngƣời SDĐ theo quan niệm trên đây
dƣờng nhƣ là chƣa hợp lý; bởi lẽ, “Nếu quan niệm ngƣời sử dụng đất chỉ là
ngƣời đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhƣ quan điểm thứ nhất
đề cập là đúng, song mới chỉ nhìn nhận ngƣời sử dụng đất trong trạng thái
“tĩnh” (trong mối quan hệ hành chính với Nhà nƣớc) mà chƣa tiếp cận xem xét


17

trong mối quan hệ theo chiều “ngang” (mối quan hệ giữa những ngƣời sử dụng
đất với nhau)” [4, tr.25]. Trên thực tế pháp luật cho phép ngƣời SDĐ đƣợc
chuyển QSDĐ, đƣợc nhận thừa kế hoặc cho thuê lại QSDĐ trong thời hạn giao
đất, cho thuê đất. Do đó những ngƣời nhận chuyển QSDĐ, nhận thừa kế hoặc
thuê lại QSDĐ hợp pháp là ngƣời SDĐ trên thực tế. Vì vậy, pháp luật cần phải
công nhận những ngƣời SDĐ trên thực tế là ngƣời SDĐ hợp pháp.
Quan điểm thứ hai về ngƣời SDĐ dựa trên hai yếu tố: quy định của pháp
luật và thực tiễn SDĐ. Quan điểm này đã bao quát đƣợc đầy đủ và toàn diện
hơn các chủ thể SDĐ và phù hợp với thực tiễn SDĐ hiện nay. Tuy nhiên, theo
chúng tôi khái niệm ngƣời SDĐ cần đƣợc hiểu với nội hàm rộng hơn, không chỉ
là những ngƣời trực tiếp SDĐ mà còn bao gồm những ngƣời tổ chức, quản lý và
điều hành quá trình SDĐ bỏ vốn, công nghệ đầu tƣ vào đất đai, thuê ngƣời lao
động…Có nhƣ vậy thì mới phù hợp với thực tiễn SDĐ trong điều kiện kinh tế
thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay.

Từ những phân tích ở trên, khái niệm ngƣời SDĐ theo chúng tôi đƣợc
hiểu nhƣ sau: Ngƣời SDĐ là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đƣợc Nhà nƣớc
giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ đai. Họ đƣợc hƣởng các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định trong quá trình SDĐ đai. Ngƣời SDĐ bao gồm
các đối tƣợng cụ thể sau đây: 1) Các tổ chức trong nƣớc bao gồm cơ quan nhà
nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức
kinh tế - xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ
chức khác theo quy định của Chính phủ đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất
hoặc công nhận QSDĐ; tổ chức kinh tế nhận chuyển QSDĐ; 2) Hộ gia đình, cá
nhân trong nƣớc đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSDĐ,
nhận chuyển QSDĐ; 3) Cộng đồng dân cƣ gồm cộng đồng ngƣời Việt Nam sinh


18

sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cƣ
tƣơng tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ đƣợc Nhà nƣớc
giao đất hoặc công nhận QSDĐ; 4) Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh
thất, thánh đƣờng, tu viện, trƣờng đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức
tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc công nhận QSDĐ hoặc
giao đất; 5) Tổ chức nƣớc ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nƣớc ngoài có chức
năng ngoại giao đƣợc Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ
chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại
diện của tổ chức liên chính phủ đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam cho thuê đất; 6)
Ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài về đầu tƣ, hoạt động văn hóa, hoạt động
khoa học thƣờng xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc Việt
Nam giao đất, cho thuê đất, đƣợc mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở; 7) Tổ chức,
cá nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tƣ đƣợc Nhà

nƣớc Việt Nam cho thuê đất (Điều 9 Luật đất đai năm 2003).
1.2.3. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất
Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, mọi vi phạm pháp luật đều
bị xử lý; theo đó, ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý bằng một chế
tài pháp lý. Vậy xử lý vi phạm pháp luật là gì?. Theo Từ điển Luật học của Viện
Khoa học Pháp lý (Bộ Tƣ pháp): “Xử lý vi phạm pháp luật: Xem xét, quyết
định áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lí đối với các cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật. Việc xử lý vi phạm pháp luật, phải dựa vào các yếu tố cấu
thành hành vi vi phạm pháp luật. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật bao gồm bốn
yếu tố cấu thành là chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan.
Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lí. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải đạt độ tuổi mà pháp luật


19

quy định có năng lực chịu trách nhiệm pháp lí và phải có trạng thái thần kinh
bình thƣờng, tức là không mắc bệnh tâm thần và các căn bệnh khác mà không
điều chỉnh đƣợc hành vi của mình.
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo
vệ nhƣng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới.
Mặt chủ quan của hành vi vi phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của
hành vi vi phạm.
Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật là những biểu hiện bên
ngoài của vi phạm pháp luật. Mặt khách quan bao gồm hành vi trái pháp luật, sự
thiệt hại cho xã hội, mối quan hệ nhân quả. Việc xử lí vi phạm pháp luật phải
đƣợc tiến hành trong môi trƣờng bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc cơ bản mà
trƣớc hết là nguyên tắc pháp chế, bảo đảm xử lí đúng ngƣời, đúng pháp luật,
công bằng, nhân đạo, không làm nhục con ngƣời, tôn trọng các quyền con
ngƣời của chính ngƣời bị xử lí, nhất là trong xử lí trách nhiệm hình sự” [6,

tr.875].
Từ quan niệm chung về xử lí vi phạm pháp luật trên đây, chúng ta có thể
hiểu khái niệm xử lí vi phạm pháp luật đất đai nhƣ sau:
Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật đất đai để đƣa ra chế tài pháp lý xử lý
hành vi vi phạm pháp luật đất đai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nƣớc và của ngƣời SDĐ.
Xử lí vi phạm pháp luật đất đai có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đây là hoạt động áp dụng pháp luật đất đai của cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền nhằm xử lý ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật đất đai.


20

Thứ hai, xử lý vi phạm pháp luật đất đai đƣợc thực hiện tuân theo các
quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và nội dung của Pháp lệnh về xử lý vi
phạm hành chính, Luật đất đai và các văn bản hƣớng dẫn thi hành.
Thứ ba, đối tƣợng bị xử lý vi phạm pháp luật đất đai phải chịu một hậu
quả pháp lý bất lợi về vật chất tƣơng xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do
hành vi vi phạm pháp luật đất đai của mình gây ra.
Thứ tư, xử lý vi phạm pháp luật đất đai có mục đích là khôi phục lại tình
trạng ban đầu của đất đai trƣớc khi bị vi phạm; khôi phục lại trật tự quản lý và
SDĐ do hành vi vi phạm xâm hại; đồng thời, đảm bảo tính pháp chế trong thực
thi pháp luật đất đai trong quản lý và SDĐ đai.
1.2.4. Hình thức xử lý vi phạm pháp luật đất đai đối với người sử dụng đất
Cở sở áp dụng trách nhiệm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật
đất đai đƣợc quy định tại Điều 140, Điều 142, Điều 143 Luật đất đai năm 2003
và Nghị định số 105/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai do Chính phủ ban hành ngày 11/11/2009 (sau đây gọi là Nghị định
số 105/2009/NĐ-CP) .

- Đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật đất đai
Theo Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, ngƣời có hành vi vi phạm hành
chính trong SDĐ bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Cá nhân trong nƣớc,
cá nhân nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài (gọi chung là cá
nhân); cơ quan tổ chức trong nƣớc, tổ chức nƣớc ngoài (gọi chung là tổ chức);
hộ gia đình; cơ sở tôn giáo.
Nhƣ vậy, ngƣời SDĐ và những ngƣời khác nếu có hành vi trái pháp luật
trong SDĐ, xâm hại trực tiếp đến quyền đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà
nƣớc, QSDĐ của ngƣời sử dụng nhƣ: lấn chiếm đất đai, không SDĐ hoặc SDĐ
không đúng mục đích, chuyển mục đích SDĐ trái phép, hủy hoại đất…Những


×