Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH PHẦN ĐIỆN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.56 KB, 16 trang )

BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH TRONG DẠY HỌC PHẦN ĐIỆN HỌC
GV Nguyễn Thanh Huyền
Trong quá trình dạy học vật lí, bài tập định tính (BTĐT) có vai trò hết sức
quan trọng. Đối với người học, BTĐT là phương tiện để rèn luyện ngày càng
hoàn thiện hơn những tư duy nhận thức vật lí, các thao tác phổ biến, cần dùng
trong hoạt động nhận thức vật lí. Đối với người dạy: BTĐT là công cụ hữu hiệu
có thể sử dụng hiệu quả trong tiến trình tổ chức và kiểm tra các hoạt động nhận
thức của học sinh trên giờ lên lớp.
Vai trò phát triển nhận thức của BTĐT trong quá trình dạy học Vật lí:
Củng cố trình độ xuất phát về tri thức và kĩ năng, hình thành tri thức kĩ
năng mới, ôn luyện, củng cố tri thức và kĩ năng, tổng kết hệ thống hoá kiến thức,
kiểm tra đánh giá trình độ và chất lượng về tri thức và kĩ năng của người học
1. CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH (BTĐT)
Với đặc thù của BTĐT, ta có thể xây dựng lập luận cho dạng bài tập này
theo cấu trúc đặc trưng. BTĐT thường có 2 dạng: Giải thích hiện tượng và dự
đoán hiện tượng sẽ xảy ra.
1.1 Bài tập giải thích hiện tượng
Giải thích hiện tượng thực chất là cho biết một hiện tượng và lí giải xem
vì sao hiện tượng lại xảy ra như thế. Nói cách khác là biết hiện tượng và giải
thích nguyên nhân của nó. Đối với học sinh, nguyên nhân đó là những đặc tính,
những định luật vật lí. Như vậy, trong các bài tập này, bắt buộc phải thiết lập
được mối quan hệ giữa một hiện tượng cụ thể với một số đặc tính của sự vật hay
hiện tượng với một số định luật vật lí. Ta phải thực hiện phép suy luận logic
(tam đoạn luận), trong đó tiên đề thứ nhất là một đặc tính chung của sự vật hoặc
định luật vật lí có tính tổng quát, tiên đề thứ hai là điều kiện cụ thể, kết luận là
hiện tượng nêu ra. Thông thường những hiện tượng vật lí thực tế rất phức tạp mà
các định luật vật lí lại rất đơn giản, cho nên mới nhìn thì thấy khó có thể phát
hiện ra mối liên hệ giữa hiện tượng đã cho với định luật đã biết. Ngoài ra, ngôn
1



ngữ dùng trong lời phát biểu các định luật vật lí nhiều khi lại không hoàn toàn
phù hợp với những ngôn ngữ thường dùng để mô tả hiện tượng. Vì vậy, cần phải
mô tả hiện tượng theo ngôn ngữ Vật lí và phân tích các hiện tượng phức tạp ra
các hiện tượng đươn giản chỉ tuân theo một định luật, quy tắc nhất định.
Từ những lập luận trên ta có thể đưa ra quy trình chung để định hướng
cho việc tìm lời giải đối với loại BTĐT “Giải thích hiện tượng”.
- Bước 1: Tìm hiểu đề bài, đặc biệt chú trọng diễn đạt hiện tượng mô tả
trong đề bài bằng ngôn ngữ Vật lí (dùng các khái niệm vật lí thay cho các khái
niệm dùng trong đời sống hằng ngày).
- Bước 2: Phân tích hiện tượng
- Bước 3: Xây dựng lập luận
+ Tìm trong đề bài những dấu hiệu có liên quan dến một tính chất vật lí,
một định luật vật lí đã biết.
+ Phát biểu đầy đủ tính chất đó, định luật đó.
+ Xây dựng thành tam đoạn luận để thiết lập mối quan hệ giữa định luật
đó với hiện tượng đã cho, nghĩa là giải thích được nguyên nhân của hiện tượng.
1.2 Bài tập dự đoán hiện tượng
Dự doán hiện tượng là căn cứ vào điều kiện cụ thể của đầu bài xác định
những luật chi phối hiện tượng và dự đoán hiện tượng gì xảy ra và xảy ra như
thế nào, nghĩa là cho biết những điều kiện cụ thể (một trường hợp riêng), phải
tìm quy luật chung chi phối hiện tượng cùng loại và rút ra kết luận về mặt logic
ta phải thiết lập một tam đoạn luận, trong đó ta biết tiên đề thứ 2 (phán đoán
khẳng định riêng), cần phải tìm tiên đề thứ nhất (phán đoán khẳng định chung)
và kết luận
2. PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH TRONG QUÁ
TRÌNH DẠY HỌC CỤ THỂ
2.1 Sử dụng BTĐT “Nêu và giải quyết vấn đề” trong dạy học Vật lí
* Sử dụng BTĐT để tạo tình huống có vấn đề.
* Sử dụng BTĐT để nghiên cứu giải quyết có vấn đề.
* Sử dụng BTĐT để củng cố và vận dụng kiến thức

2


2.2. Sử dụng BTĐT trong xây dựng kiến thức trên cơ sở vận dụng phương
pháp thực nghiệm.
* Sử dụng các BTĐT để nêu các sự kiện mở đầu.
* Sử dụng BTĐT hỗ trợ xây dựng giả thuyết.
* Sử dụng BTĐT để hỗ trợ việc suy luận hệ quả logic
* Sử dụng BTĐT hỗ trợ tiến hành thí nghiệm
* Sử dụng BTĐT trong giai đoạn củng cố và vận dụng kiến thức
3. NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG HỌC BÀI TẬP ĐỊNH
TÍNH MÔN VẬT LÍ
3.1 Khái niệm năng lực sáng tạo và đặc điểm của nó
“Sáng tạo là một hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần
hay vật chất có tính đổi mới, có ý nghĩa xã hội, có giá trị giúp giải quyết một
khó khăn, bế tắc nhất định”.
Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật
chất và tinh thần, tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành
công những hiểu biết đã có trong hoàn cảnh mới.
Trong nghiên cứu Vật lí, quá trình sáng tạo diễn ra theo chu trình gồm bốn
giai đoạn. Trong đó khó khăn nhất, đòi hỏi sự sáng tạo cao nhất là giai đoạn
những sự kiện khởi đầu đề xuất giả thuyết và giai đoạn đưa ra phương án thực
nghiệm để kiểm tra hệ quả suy ra từ lí thuyết. Trong hai giai đoạn này, không có
con đường suy luận lôgíc mà phải chủ yếu dựa vào trực giác.
Vấn đề bản chất tâm lí học của trực giác là vấn đề cơ chế giải quyết các
nhiệm vụ nhận thức mà không thể hiện được bằng con đường suy luận lôgíc. Đó
là trường hợp mà chủ thể nhận thức không có đủ tri thức cần thiết cho việc biến
cải tình huống dần dần, để cuối cùng giải quyết được nhiệm vụ. Ở đây, bắt buộc
phải đưa ra một phỏng đoán mới, một giải pháp chưa hề có, một hoạt động sáng
tạo thực sự.

Tư duy trực giác khác với tư duy biện giải lôgíc: Những bước đi của nó
không thể hiện rõ một trình tự tất yếu chặt chẽ, việc giải quyết vấn đề lại giống
như một phỏng đoán, đòi hỏi có căn cứ lôgíc.
3


Năng lực sáng tạo gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo vào vốn hiểu biết của học
sinh. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, càng thành thạo và có kiến thức sâu
rộng thì ngày càng nhạy bén trong dự đoán, đề ra được nhiều dự đoán, nhiều
phương án để lựa chọn, càng tạo điều kiện cho trực giác phát triển. Bởi vậy,
không thể rèn luyện năng lực sáng tạo tách rời, độc lập với học tập kiến thức về
một lĩnh vực nào đó.
3.2 Các biểu hiện của năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập môn Vật

Năng lực sáng tạo của một cá nhân được bộc lộ trong quá trình phát triển,
giải quyết vấn đề của chính cá nhân đó và được thể hiện ở những mặt sau: Có óc
tư duy độc lập, óc phê phán, luôn say sưa, nung nấu các ý tưởng mới, có khả
năng dự báo, luôn tìm ra những giải pháp để ứng xử, để giải quyết độc đáo, tối
ưu một vấn đề thực tế.
Trong quá trình dạy học, năng lực sáng tạo của học sinh thường biểu hiện:
+ Trong rất nhiều trường hợp, quá trình dạy học đòi hỏi có sự tự lực
chuyển các tri thức và kĩ năng sang một hướng mới. Sự liên hệ giữa tình huống
mới và kiến thức cũ càng xa bao nhiêu thì mức độ sáng tạo càng cao.
+ Nhìn thấy vấn đề mới trong những điều kiện quen biết, “đúng quy
cách”.
+ Nhìn thấy chức năng mới của một đối tượng quen biết.
+ Nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất của năng
lực này là nhanh chóng nhìn thấy cấu trúc của đối tượng cũng như các bộ phận,
các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng.
+ Nhìn thấy nhiều lời giải cho một bài toán. Thực chất của kĩ năng này là

tâm lí chấp nhận những lời giải khác nhau, những cách giải quyết khác nhau,
xem xét đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau.
+ Biết phối hợp các phương thức giải quyết vấn đề đã biết thành một
phương thức mới.
+ Sáng tạo được một phương thức giải độc đáo.

4


Những biểu hiện của năng lực sáng tạo trên đây cũng là căn cứ để chúng
đánh giá sự phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình tổ chức dạy
học các kiến thức của học phần Cơ học 1 theo hướng phát huy tính sáng tạo của
học sinh.
3.3 Tổ chức hoạt động sáng tạo bằng các bài tập định tính gắn liền với thực tế
trong quá trình xây dựng kiến thức mới
Tổ chức quá trình nhận thức vật lí theo chu trình sáng tạo sẽ giúp cho sinh
viên trên con đường hoạt động nhận thức biết đươc: Chỗ nào có thể suy nghĩ
dựa trên những hiểu biết đã có, chỗ nào phải đưa ra kiến thức mới, giải pháp
mới. Việc tập trung sức lực vào chỗ mới đó sẽ giúp cho hoạt động sáng tạo có
hiệu quả, rèn luyện cho tư duy trực giác biện chứng nhạy bén, phong phú. Trong
nhiều trường hợp, bài tập có thể giới thiệu cho sinh viên kinh nghiệm sáng tạo
của các nhà bác học. Bất kì ở đâu và bất cứ lúc nào, sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra
trong khi giải quyết vấn đề, nghĩa là trong khi giải quyết nhưng trở ngại, vướng
mắc trên con đường nhận thức.
3.4 Tổ chức hoạt động sáng tạo bằng các BTĐT gắn liền với thực tế trong
luyện tập phỏng đoán, dự đoán
Như đã biết, dự đoán có vai trò rất quan trọng trên con đường sáng tạo
khoa học. Dự đoán chủ yếu bằng trực giác, kết hợp kinh nghiệm phong phú và
kiến thức sâu sắc về mỗi lĩnh vực. Các nhà khoa học nói rằng: Việc xây dựng giả
thuyết dựa trên khái quát hóa những sự kiện thực nghiệm, những kinh nghiệm

cảm tính. Tuy nhiên, sự khái quát đó không phải là một phép quy nạp đơn giản,
hình thức mà chứa đựng một yếu tố mới, không có sẵn trong các sự kiện dùng
làm cơ sở. Dự đoán khoa học không phải là tùy tiện mà luôn phải có một cơ sở
nào đó, tuy chưa thật chắc chắn. Có thể có các dự đoán sau đây trong giai đoạn
đầu của hoạt động nhận thức vật lí của sinh viên:
+ Dựa vào liên tưởng tới một kinh nghiệm đã có.
+ Dựa trên sự tương tự.
Có thể dựa trên một dấu hiệu bên ngoài giống nhau mà dự đoán giống
nhau về bản chất, hoặc từ sự tương tự về cấu tạo suy ra sự tương tự về tính chất.
5


+ Dựa trên sự xuất hiện đồng thời giữa hai hiện tượng mà dự đoán giữa
chúng có quan hệ nhân quả.
+ Dựa trên nhận xét thấy hai hiện tượng luôn luôn biến đổi đồng thời,
cùng tăng hoặc cùng giảm mà dự đoán về quan hệ nhân quả giữa chúng.
+ Dựa trên sự thuận nghịch thường thấy của nhiều quá trình.
+ Dựa trên sự mở rộng phạm vi ứng dụng của một kiến thức đã biết sang
một lĩnh vực khác.
+ Dự đoán về mối quan hệ định lượng.
Những hiện tượng vật lí xảy ra rất phức tạp, nhưng một điều ngạc nhiên là
các định luật chi phối chúng lại rất đơn giản.
3.5 Tổ chức hoạt động sáng tạo bằng các BTĐT gắn liền với thực tế trong
luyện tập đề xuất phương án kiểm tra dự đoán
Hệ quả suy ra được phải khác với những sự kiện ban đầu dùng làm cơ sở
cho dự đoán thì mới có ý nghĩa. Số hệ quả phù hợp với thực tế càng nhiều thì dự
đoán càng trở thành chắc chắn, sát với chân lí hơn.
Quá trình rút ra hệ quả thường áp dụng suy luận lôgíc hay suy luận toán
học. Sự suy luận này phải đảm bảo là đúng quy tắc, quy luật, không phạm sai
lầm. Những quy tắc, quy luật đó đều đã biết; Các nguyên tắc, suy luận đó không

đòi hỏi một sự sáng tạo vào thực tế, có thể kiểm soát được.
Vấn đề đòi hỏi sự sáng tạo ở đây là đề xuất phương án kiểm tra hiệu quả
đã rút ra.
3.6 Tổ chức hoạt động sáng tạo bằng các BTĐT gắn liền với thực tế.
Ở trên, ta đã xem xét việc rèn luyện năng lực sáng tạo cho sinh viên trong
quá trình xây dựng kiến thức mới. Ngoài ra, trong dạy học vật lí, người ta còn
xây dựng những loại bài tập riêng vì mục đích này và được gọi là bài tập định
tính sáng tạo. Trong loại bài tập này, ngoài việc phải vận dụng một số kiến thức
đã học, sinh viên bắt buộc phải có những ý kiến độc lập mới mẻ, không thể suy
ra một cách lôgíc từ những kiến thức đã học.
4. XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH TRONG DẠY HỌC
HỌC PHẦN ĐIỆN HỌC.
6


4.1. Quy trình xây dựng BTĐT
Việc xây dựng BTĐT gắn với thực tế dạy học học phần Điện học 1 nhằm
phát huy tính sáng tạo về cơ bản phải tuân theo quy trình chung. Tuy nhiên với
mục tiêu là: BTĐT biên soạn phải gắn với thực tế nhằm phát huy tính sáng tạo
của sinh viên, cho nên có thể xây dựng một hệ thống BTĐT gắn với thực tế theo
quy trình sau:
- Bước 1: Căn cứ vào nội dung giáo trình để phân tích nội dung kiến thức
vật lí của từng chương. Kết quả phân tích phải làm nổi bật cấu trúc nội dung và
logic kiến thức trong mỗi chương.
- Bước 2: Xác định mục tiêu dạy học của từng phần (hay cả chương) .
Trong mỗi nội dung dạy học cần chỉ rõ mục tiêu về kiến thức, kĩ năng cần
đạt là gì. Xác định đúng mục tiêu về kiến thức, kĩ năng để định hướng xây dựng
hệ thống BTĐT nhằm đạt được mục tiêu đó.
- Bước 3: Thu thập thông tin và biên soạn các BTĐT. Để nội dung BT
được phong phú, hấp dẫn, gắn với thực tế thì bài tập phải có nhiều tư liệu và ý

tưởng xây dựng câu hỏi.
Trong quá trình tích lũy tư liệu người làm bài tập cần phải:
+ Đọc tài liệu tham khảo, sưu tầm từ nhiều nguồn: Sách tham khảo, đề tài
nghiên cứu khoa học, Internet…
+ Cần phải ghi lại những hiện tượng vật lí đã xảy ra trong đời sống hàng
ngày và trong các ý tưởng đặt câu hỏi.
+ Khuyến khích mọi người xung quanh đặt câu hỏi về những hiện tượng
Vật lí trong đời sống hàng ngày mà họ chưa hiểu rõ bản chất. Từ việc trả lời câu
hỏi, giải đáp thắc mắc, sẽ tích lũy thêm được các tình huống thực tế có thể hữu
ích trong việc biên soạn câu hỏi BTĐT có gắn với thực tế.
+ Khuyến khích định hướng cho sinh viên tìm kiếm và đặt câu hỏi về các
hiện tượng Vật lí trong đời sống hàng ngày, có liên quan đến bài học mà các em
chưa giải thích được bản chất. Sưu tầm và tuyển chọn những câu hỏi, thắc mắc
của sinh viên là nguồn tư liệu quan trọng để bài tập biên soạn những câu hỏi có
nội dung gắn với thực tế, phù hợp, gần gũi với sinh viên.
7


+ Để làm phong phú hình thức câu hỏi thì một vấn đề cần hỏi nên diễn đạt
dưới nhiều hình thức như: Câu hỏi tự luận, câu hỏi trắc nghiệm khách quan…
+ Với mục tiêu dạy học cần đặt câu hỏi theo các thang bậc nhận thức và
theo cách tiếp cận hiện tượng khác nhau. Có như vậy bài tập mới có thể sử dụng
BTĐT một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm nhận thức của sinh viên.
+ Trong quá trình sử dụng câu hỏi, bài tập cần tìm hiểu câu trả lời của
sinh viên để từ đó tìm ra những vấn đề cần điều chỉnh về từ ngữ, cách diễn đạt…
- Bước 4: Rà soát lại các bài tập biên soạn được và sắp xếp thành hệ thống
sao cho đảm bảo cân đối giữa các dạng bài tập trong từng bài và trong cả
chương.
4.2. Mục tiêu của BTĐT và lựa chọn BTĐT
Căn cứ vào nội dung và mục tiêu dạy học kiến thức phần Điện học 1. Các

kiến thức về chuyển động thẳng đều, chuyển động thẳng biến đổi, sự rơi tự do,
chuyển động tròn đều, tính tương đối của chuyển động có nhiều ứng dụng trong
đời sống và kĩ thuật, tuy nhiên sách giáo khoa thiếu vắng các bài tập có nội dung
gắn với thực tiễn.
Căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng, đồng thời nhắm tới mục tiêu cao hơn
là phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống đặc biệt là
năng lực sáng tạo của sinh viên.
a. Mục tiêu về kiến thức: Sinh viên vận dụng được các kiến thức để làm bài tập.
b. Mục tiêu về kĩ năng
Biết thu thập từ internet, sách báo, tìm hiểu, quan sát hiện tượng xảy ra
trong đời sống hàng ngày.
Biết làm việc nhóm;
Sinh viên rèn luyện và thể hiện năng lực giải quyết vấn đề;
Sinh viên biết trình bày sản phẩm mạch lạc, logic, súc tích;
Sinh viên biết đánh giá quá trình làm việc và sản phẩm của mình cũng
như của các sinh viên khác;
Rèn luyện kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác bằng ngôn ngữ vật lí
c. Mục tiêu về phát triển tư duy
8


Giải thích được các hiện tượng liên quan.
Biết rút ra các nhận xét, kết luận cần thiết trong các hiện tượng đã quan sát.
Biết xử lí một số vấn đề trong các tình huống khác nhau.
Rèn luyện thao tác tư duy, biết đánh giá các hiện tượng vật lí khác nhau.
d. Mục tiêu về thái độ
Có hứng thú học tập bộ môn Vật lí nói chung và kiến thức về “Điện học”
nói riêng
Yêu thích các hiện tượng Vật lí, tìm tòi khoa học.
Có thái độ khách quan trung thực, tác phong tỉ mỉ cẩn thận, chính xác, có

tinh thần hợp tác trong học tập.
2.3 Một số bài tập định tính.
Bài tập 1
Tại sao hai quả cầu kim loại nhiễm điện trái dấu lại tác dụng lên nhau một
lực lớn hơn là khi chúng nhiễm điện cùng dấu.
Câu hỏi định hướng tư duy
Điện tích trên hai quả nhiễm điện trái dấu phân bố như thế nào khi đặt
chúng gần nhau?
Điện tích trên hai quả nhiễm điện cùng dấu phân bố như thế nào khi đặt
chúng gần nhau?
Lời giải tóm tắt
Trong trường hợp hai quả cầu kim loại nhiễm điện cùng dấu, điện tích
được phân bố lại trên hai quả cầu như hình vẽ: Các phần tập trung điện tích ở xa
nhau.

Trong trường hợp hai quả cầu kim loại nhiễm điện trái dấu: các phần tập
trung điện tích ở gần nhau
9


Như vậy, các điện tích cùng dấu lại xa nhau hơn các điện tích trái dấu, do
đó quả cầu kim loại nhiễm điện trái dấu lại tác dụng lên nhau một lực lớn hơn là
khi chúng nhiễm điện cùng dấu. Hai quả cầu kim loại cùng dấu cũng có thể hút
nhau được. Điều đó xảy ra khi một quả cầu mang điện tích có trị số lớn hơn
nhiều so với điện tích của quả cầu kia.
Áp dụng:
Sử dụng để củng cố kiến thức phần định luật Coulomb
Bài tập 2
Có thể dùng một vật A mang điện tích dương hút một quả cầu kim loại đã
tích điện âm để làm nhiễm điện dương cho một vật dẫn B mà không làm thay

đổi điện tích của A được không? Có thể làm cho hai vật dẫn B và C nhiễm điện
trái dấu nhau được không?
Câu hỏi định hướng
Hiện tượng gì xảy ra khi ta đưa một vật trung hòa về điện lại gần 1 vật
nhiễm điện âm (hoặc dương)?
Lời giải tóm tắt
Giải thích:
Muốn cho vật B nhiễm điện dương, ta đưa một đầu của nó lại gần vật A và
chạm tay vào đầu kia của B (hoặc nối B với đất bằng một dây dẫn) sau đó bỏ tay
ra. Điện tích âm bị truyền xuống đất. Trên vật B chỉ còn điện tích dương.
Cũng có thể đặt vật B và vật C chạm vào nhau rồi đưa A lại gần phía B.
Sau đó tách B và C thì B nhiễm điện dương, C nhiễm điện âm. (Các vật B và C
cần được cách điện với đất)
Áp dụng: Dùng trong tiết dạy lí thuyết về sự nhiễm điện của các vật.
Bài tập 3

10


Xét một điểm A nằm trong điện trường của một điện tích điểm +q. Nếu
bên phải điểm A đặt thêm một quả cầu không tích điện thì cường độ điện trường
và điện thế tại điểm A biến đổi gì không?
Câu hỏi định hướng tư duy:
Nếu bên phải điểm A đặt thêm một quả cầu không tích điện thì có xảy ra hiện
tượng nhiễm điện do hưởng ứng không?
Nếu bên phải điểm A đặt thêm một quả cầu không tích điện thì
Lời giải tóm tắt
Dươi tác dụng của điện trường của điện tích q, hai mặt quả cầu đối diện
nhau sẽ nhiễm điện trái dấu. Nếu quả cầu dẫn điện thì sự nhiễm điện đó là do
hưởng ứng, nếu quả cầu không dẫn điện thì điện tích xuất hiện trên quả cầu là do

sự phân cực điện môi. Mặt đặt gần điểm A sẽ mang điện âm, mặt xa hơn sẽ
mang điện dương. Hai điện tích này sẽ tạo ra tai A hai cường độ điện trường
ngược chiều nhau mà tổng hợp của chúng hướng sang phía quả cầu vì điện tích
gần A hơn điện tích dương. Vậy tại A ngoài cường độ điện trường do +q tạo ra
thì còn có them một cường độ điện trường tại điểm A sẽ tăng lên. Tương tự nghư
vậy, hki các điện tích trái dấu xuất hiện trên quả cầu. các điện tích này sẽ tạo ra
tại A các điện thế khác nhau: Điện tích âm ở gần hơn sẽ tạo ra điện thê âm có giá
trị lớn hơn điện thế dương do điện tích dương ở xa hơn tạo ra. Nên tổng hợp
điện thế do quả cầu tạo ra tại A mang giá trị âm. Còn điện thế của +q tạo ra tại A
là điện thế dương. Vì vậy khi tổng hợp hai điện thế này thì điện thế tại A giảm
đi.
Áp dụng:
Bài tập này được sử dụng trong tiết dạy lí thuyết về điện trường, ôn lại
kiến thức sự nhiễm điện của các vật.
Bài tập 4
Tại sao khi khảo sát điện trường ta phải dùng điện tích thử là một vật
mang điện có kích thước bé và có điện tích nhỏ?
Câu hỏi định hướng tư duy:
Lực tương tác tĩnh điện giữa các điện tích trong điện trường?
11


Lời giải tóm tắt
Điện tích thử phải có kích thước nhỏ để cho trong phạm vi kích thước của
nó cường độ dòng điện ở các điểm khác nhau có giá trị khác nhau không nhiều.


F�

Do đó giá trị cường độ điện trường mà ta xác định được �E  �có thể lấy làm

� q�
giá trị của cường độ điện trường ở điểm đặt điện tích thử. Mặt khác điện tích thử
phải có giá trị nhỏ để nó không làm ảnh hưởng đến điện trường ban đầu ( tức là
điện trường cần xác định) một cách đáng kể.
Áp dụng: Bài tập này được sử dụng trong tiết dạy lí thuyết về điện trường
Bài tập 5
Đưa một cái đũa nhiễm điện lại gần những mẫu giấy, mạt cưa nhỏ, ta thấy
mẫu giấy, mạt cưa bị hút về phía đũa. Sau khi chạm vào đũa, mẫu giáy bị đẩy ra.
Hãy giải thích hiện tượng này? Hiện tượng có khác gì với mạt nhôm? Mẫu giấy
hay mạt cưa nhỏ làm bằng điệm môi.
Câu hỏi định hướng tư duy
Đưa một cái đũa nhiễm điện lại gần những mẫu giấy, mạt cưa nhỏ, có xảy ra
hiện tượng nhiễm điện do hưởng ứng không?
Lời giải tóm tắt:
Vì vậy khi ta đưa một cái đũa nhiễm điện lạ gần mẫu giáy chẳng hạn, do
sự phân cực điện môi, hai phía mẫu giấy mang điện tích trái dấu, bằng nhau về
độ lớn. Nếu đũa nhiễm điện dương, phía gần đũa sẽ tích điện âm và phía kia tích
điện dương. Cả hai phía của mẫu giấy đều chịu tác dụng của điện trường của
đũa. Vì điện trường này không đều nên mẫu giấy sẽ bị hút về phía đũa là nơi có
điện trường mạnh hơn. Khi mẫu giấy chạm vào đũa, một phần các điện tích của
mẫu giấy bị trung hòa (phía mẫu giấy bị nhiễm điện tích âm chạm vào đũa) và
điện tích dương của mẫu giấy chịu tác dụng của lực đẩy, làm cho mẫu giấy bị
đẩy khỏi đũa. Khi ta dùng mạt nhôm thì hiện tượng nói trên xảy ra rõ rệt hơn,
bởi vì sự nhiễm điện do hưởng ứng của mạt nhôm tạo nên điện tích lớn hơn là sự
phân cực trong điện môi.

12


Áp dụng: Bài tập này được sử dụng để củng cố kiến thức phần vật dẫn và

điện môi trong điện trường.
Bài tập 6
Người ta mắc tụ điện vào hai cực của một cái pin. Tại sao điện tích trên
hai bản của tụ điện lại có độ lớn bằng nhau? Điều đó còn đúng không nếu hai
bản tụ có kích thước khác nhau?
Câu hỏi định hướng tư duy: Cách tích điện cho tụ điện?
Lời giải tóm tắt:
Khi ta mắc tụ điện vào nguồn điện thì nguồn điện có tác dụng làm cho các
electron chuyển về bản âm. Bản dương thiếu electron nên mang điện tích dương.
Vì thế điện tích trên hai bản tụ luôn luôn bằng nau về trị số tuyệt đối. Hơn nữa
các đường sức xuất phát từ bản dương đều kết thúc ở bản âm. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được nếu điện tích âm và dương bằng nhau, vì dường sức xuất phát từ
điện tích dương và kết thúc ở ở điện tích âm. Nếu hai bản tụ có kích thước khác
nhau, thì sự phân bố điện tích trên các bản tụ là không đôi xứng. Tuy vậy điện
tích trên các hai bản vẫn bằng nhau.
Áp dụng: Sử dụng BTĐT này trong lúc củng cố bài dạy hoặc trong giờ
bài tập.
Bài tập 7
Khi có dòng điện đi qua dung dịch điện phân ta thấy các ion dương và ion âm
không ngừng bị trung hòa ở các điện cực (sau khi trao điện tích cho điện cực).
Nguyên nhân gì khiến cho nồng độ ion trong dung dịch giữ ở mức không đổi?
Câu hỏi định hướng tư duy:
Bản chất dòng điện trong chất điện phân?
Hiện tượng diễn ra ở các điện cực?
Lời giải tóm tắt:
Với một nồng độ dung dịch nhất định,ở một nhiệt độ nhất định thì mỗi
dung dịch điện phân có một mật đọ ion nhất định. Đó là kết quả của sự cân bằng
động: số các ion mới được tạo thành do phân li đúng bằng số ion mất đi do sự tái
hợp. Khi có dòng điện chạy qua dung dịch ta thấy mặc dù bên trong dung dịch
13



có sự dịch chuyển các ion ngược chiều nhau nhưng sự cân bằng động trên không
bị phá hủy. Trái lại, ở gần các điện cực, mật độ ion giảm do sự trao đổi điện tích
của ion cho điện cực. Nhưng cũng chính tại đó, khả năng phân li mạnh lên, số
ion được tạo thành do phân li lại lớn hơn số ion mất đi do tái hợp. Chính quá
trình này đã cung cấp các ion cho sự điện phân và làm cho mật độ ion trong
dung dịch không thay đổi.
Áp dụng:
Bài tập này được sử dụng trong tiết dạy dòng điện trong chất điện phân
Bài tập 8
Vì sao khi đi đường gặp mưa giông, sâm sét dữ dội, ta không nên đứng yên trên
những gò đất cao hoặc trú mưa dưới gốc cây mà nên dán người xuống đất?
Câu hỏi định hướng tư duy
Sự dẫn điện của chất khí ở điều kiện thường?
Lời giải tóm tắt
Khi đi đường gặp mưa giông, sấm sét dữ dội, ta không nên đứng yên trên
những gò đất cao hoặc trú mưa dưới gốc cây vì khi đó các đám mây ở gần mặt
đất tích điện âm còn mặt đất tích điện dương. Giữa đám mây và mặt đất có hiệu
điện thế lớn. Những chỗ cao trên mặt đất là nơi có điện trường mạnh, dễ bị
phóng tia lửa điện (sét) nhát. Vì vậy cần dán người xuống đất để tránh những tia
lửa điện có trong không khí (tránh bị sét đánh).  Vì sao khi đi đường gặp mưa
giông, sâm sét dữ dội, ta không nên đứng yên trên những gò đất cao hoặc trú
mưa

dưới

gốc

cây




nên

dán

người

xuống

đất?

Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp trong thực tế nên chúng ta có thể sử
dụng để đặt vấn đề trước khi vào bài hay sau khi học xong phần dòng điện trong
chất khí để củng cố thêm cho sinh viên.
Bài tập 9
Vì sao dòng điện chạy trong cuộn dây siêu dẫn không có nguồn điện lại
có thể duy trì lâu dài? Có thể dùng dòng điện ấy làm cho động cơ chạy mãi được
không?
Câu hỏi định hướng tư duy
14


Điện trở của kim loại ở nhiệt độ thấp và hiện tượng siêu dẫn?
Lời giải tóm tắt:
Hưởng dẫn Dòng điện chạy trong cuộn dây siêu dẫn không có nguồn điện
lại có thế duy trì lâu dài vì điện trở của cuộn dây siêu dần bàng 0, tức không có
sự cản trở chuyển động đối với các hạt tải điện. Không thể dùng dòng điện ấy
làm cho động cơ chạy mãi được vì khi động cơ hoạt động điện năng phải chuyến

hóa

thành



năng



một

số

dạng

năng

lượng

khác

nữa.

Áp dụng: Bài này dạy trong giờ lí thuyết dòng điện trong kim loại.
Bài tập 10
Trong thí nghiệm tạo dòng điện trong chân không, vì sao khi áp suất còn
lớn ta không thấy quá trình phóng điện qua khí, và khi áp suất đủ nhỏ lại có quá
trình phóng điện tự duy trì?
Câu hỏi định hướng tư duy

Ở điều kiện bình thường không không khí có dẫn điện không?
Lời giải tóm tắt
Hướng dẫn Khi áp suất còn lớn (gần bằng áp suất khí quyển) ta không
thấy quá trình phóng điện chất khí, vì ở điều kiện bình thường không khí điện
môi. Khi áp suất đủ nhỏ, chỉ một tỉ lệ rất nhỏ các êlectron va chạm với các phân
tử khí làm iôn hóa chúng. Các iôn dương nhận năng lượng của điện trường đập
vào catốt, sinh ra các êlectron mới đế duy trì quá trình phóng điện
Áp dụng: Áp dụng dạy lý thuyết phần Dòng điện trong chân không.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Công nghệ dạy học với vấn đề tổ chức quá trình
dạy học ở THPT, Bộ GD&ĐT.
[2]. Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Duy Chiến, Phạm Thị Mai (2008), Lí luận dạy
học Vật lí ở trường phổ thông, NXB Giáo dục.
[3]. Ngô Diệu Nga (2005), Bài giảng chuyên đề, phương pháp nghiên cứu khoa
học dạy học vật lí, ĐHSP Hà Nội.
[4]. Nguyễn Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng (2008), Giáo trình tổ chức hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lí ở trường phổ thông, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
[5]. Phạm Hữu Tòng (2001), Lý luận dạy học vật lí ở trường Trung học, NXB
Giáo dục.
[6]. Phạm Hữu Tòng (2009), Bài giảng chuyên đề: Tổ chức hoạt động nhận thức
trong dạy học, Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội.
[7]. Phạm Hữu Tòng (1989), Phương pháp dạy bài tập vật lí, NXB Giáo dục.
[8]. Phạm Hữu Tòng (1994), Bài tập về phương pháp dạy bài tập Vật lý, NXB
Giáo dục.
[9]. Phạm Hữu Tòng (2004), Dạy học vật lí phổ thông theo định hướng phát

triển hoạt động tích cực, tự chủ, sáng tạo tư duy khoa học, NXB Đại học Sư
phạm
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO

XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

16



×