Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao ở các nước đang phát triển Phân tích so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.87 KB, 18 trang )

Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao ở
các nước đang phát triển: Phân tích so sánh

Tác giả
Susmita Dasgupta*
Benoit Laplante**
Craig Meisner*
David Wheeler***

Jianping Yan**

Bài nghiên cứu Chính sách của Ngân hàng Thế giới 4136 tháng 2 năm 2007
Các bài nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới công bố những phát hiện từ những công trình đang
nghiên cứu nhằm khuyến khích trao đổi ý tưởng về những vấn đề phát triển. Mục đích của những bài viết này là
để tiếp cận với các phát hiện mới một cách nhanh chóng, mặc dù bài viết có thể ngắn hơn bản đầy đủ. Bài viết
với tên tác giả phải được trích dẫn theo yêu cầu. Kết quả nghiên cứu, diễn giải, và kết luận trong bài viết này
hoàn toàn là quan điểm của các tác giả này. Nó không nhất thiết là quan điểm của Ngân hàng Thế giới, giám đốc
điều hành của Ngân hàng, hoặc quốc gia được đề cập. Các bài nghiên cứu về chính sách có sẵn trên Internet tại
.

*

Nhóm nghiên cứu phát triển, Ngân hàng Thế giới.
Các tư vấn độc lập, Canada.

**

*** Nghiên cứu viên cao cấp, Trung tâm Phát triể toàn cầu
Các ý kiến đóng góp xin gửi theo địa chỉ : Dr. Susmita Dasgupta, World Bank, 1818 H Street,
NW, Washington, DC 20433,
Acknowledgements: Funding for this project was provided by the Canadian Trust Fund


(TF030569) sponsored by the Canadian International Development Agency (CIDA). We would
also like to extend our special thanks to Piet Buys, Uwe Deichmann and Jillian Kingston for their
guidance and valuable help.


Tóm tắt
Sự dâng lên của mực nước biển (SLR- Sea level rise) do thay đổi khí hậu là mối đe
doạ nghiêm trọng toàn cầu: Các bằng chứng khoa học hiện nay là rất nhiều. Với
việc tiếp tục tăng lượng phát thải các khí nhà kính và hiện tượng nóng lên toàn cầu
có thể thúc đẩy nhanh hơn SLR từ 1-3 mét trong thế kỷ này, việc các tảng băng ở
Nam Cực và Greenland bị tan nhanh chóng ngoài mong đợi có thể làm cho mực
nước biển tăng lên 5 mét. Bài viết này, chúng tôi đánh giá hậu quả của SLR ở 84
quốc gia. Phần mềm Hệ thống Thông tin Địa lý (GIS) được sử dụng để phân tích
một cách tốt nhất các số liệu toàn cầu hiện có về các nhân tố ảnh hưởng quan trọng
(đất, dân số, nông nghiệp, phạm vi đô thị, đầm lầy, và GDP) tại các khu vực bị ngập
nước với dự đoán mực nước biển tăng lên từ 1-5 mét. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy rằng hàng trăm triệu người ở các nước đang phát triển trên thế
giới có khả năng phải di cư do SLR trong thế kỷ này; và thiệt hại kèm theo về kinh tế
và sinh thái là rất khốc liệt đối với nhiều người. Ở mức độ quốc gia, hậu quả có sự
khác biệt khá lớn, các ảnh hưởng nghiêm trọng bị giới hạn bởi một số ít các nước.
Trong số này (Việt Nam, Ai Cập và Bahamas), hậu quả của SLR có thể là một thảm
hoạ (catastrophic). Đối với nhiều nước khác, bao gồm cả một số nước lớn (Trung
Quốc), ảnh hưởng tuyệt đối có khả năng là rất lớn. Trong các khu vực, Đông Nam Á
và Trung Đồng/Bắc Phi thể hiện ảnh hưởng tương đối là lớn nhất. Cho đến nay, có
rất ít bằng chứng cho việc cộng đồng quốc tế đã quan tâm một cách nghiêm túc các
giải pháp của SLR cho việc phân bố dân cư và quy hoạch cơ sở hạ tầng ở các
nước đang phát triển. Chúng tôi hy vọng rằng thông tin được cung cấp trong bài viết
này phục vụ cho việc quy hoạch ngay lập tức để thích ứng.



I.

Giới thiệu

Như đã được đề cập bởi Uỷ ban Quốc tế về Thay đổi Khí hậu (IPCC, 2001b), thay đổi khí
hậu sẽ có nhiều ảnh hưởng tiêu cực, bao gồm cả việc tần xuất lớn hơn của các dòng nước
nóng; tăng cường độ các trận bão, lũ lụt và hạn hán; mực nước biển dâng cao; sự phán tán
nhanh hơn của các bệnh; mất đa dạng sinh học. Sự dâng lên của mực nước biển (SLR) gây
nên mối đe doạ nghiêm trọng có các quốc gia có mức độ tập trung cao cả dân cư và các
hoạt động kinh tế ở các khu vực ven biển.
Cho đến gần đây, các nghiên cứu dự đoán SLR sẽ tăng lên 0-1 mét trong thế kỷ 21 (Church
và các cộng sự 2001, IPCC Đánh giá thứ ba, 2001). Ba yếu tố cơ bản được đề cập bao
gồm: (i) hiện tượng nở vì nhiệt của đại dương; (ii) tan băng ở Greenland và Nam Cực
(thêm vào đóng góp của việc tan băng ở các khu vực khác); và (iii) thay đổi khả năng
giữ nước ở đất liền. Trong các nhân tố này, hiện tượng nở vì nhiệt của đại dương đã
từng được xem là nhân tố chủ yếu đằng sau sự dâng lên của mực nước biển. Tuy
nhiên, số liệu mới về tỷ lệ tan băng ở Greenland và Nam Cực cho thấy rằng ảnh
hưởng này lớn hơn. Bởi vì các tảng băng ở Greenland và Nam Cực chứa đủ nước để
làm tăng mực nước biển lên 70 mét (Bảng 1), một lượng thay đổi nhỏ của sẽ có ảnh
hưởng rất lớn1.
Bảng 1: Đặc điểm vật lý của băng có trên trái đất.
sông băng

tảng

Sông và
Tảng băng
tảng *
Greenland
Số lượng

> 160,000
70
Diện tích (10 6 km2)
0.43
0.24
0.68
1.71
Khối lượng (10 6 km3)
0.08
0.10
0.18 ± 0.04
2.85
Tương ứng với SL (m)
0.24
0.27
0.50 ± 0.10
7.2
Tổng cộng
(tương ứng SL, mm/năm)
1.9 ± 0.3
1.4 ± 0.1
Source: Church et al. (2001), Table 11.3
Data sources: Meier and Bahr (1996), Warrick et al. (1996), Reeh et al. (1999), Huybrechts et
* - does not include Greenland and Antarctic ice sheets (represented in the next columns)

Tảng băng
Nam Cực
12.37
25.71
61.1

5.1 ± 0.2
al. (2000).

Kể từ Báo cáo đánh giá thứ ba của IPCC năm 2001, đã có nhiều nỗ lực trong việc tăng
cường đo khối lượng bị mất của các tảng băng lớn ở Greenland và đóng góp của nó đối
với SLR. Sử dụng quan sát giao thoa vệ tinh, Ringot và Kanagaratnam (2006) đã phát hiện
ra sự tăng lên nhanh của các dòng sông băng lớn ở vùng xích đạo thấp trong những năm
1996- 2000, và lan rộng nhanh chóng đến vùng xích đạo cao hơn vào năm 2005. Khi kết

1

Nếu tảng băng ở Greenland tan hoàn toàn, nó có thể làm cho mực nước biển tăng lên
khoảng 7 mét (Church et al. 2001).

1


hợp cả việc mất băng trên bề mặt bởi Hanna và các cộng sự (2005), họ đã tính toán được
tổng lượng mất đã tăng gấp đôi so với thập kỷ trước. So sánh sự đóng góp của tỷ lệ tảng
băng của Greenland đối với SLR với ước tính của IPCC trong thế kỷ 20, các đo lường mới
lớn hơn khoảng từ ha đến năm lần. Trong một nghiên cứu khác về sự khối lượng bị mất của
các tảng băng ở Greenland bằng phương pháp đo độ cao lặp, Krabill và các cộng sự (2004)
đã phát hiện rằng trong những năm 1993-1994 và 1998-1999, các tảng băng đã giảm
54 ± 14 gigatons băng hàng năm (Gt/năm). Ngược lại, khối lượng băng bị mất ròng
trong những năm 1997-2003 bình quân là 74 ± 11 Gt/năm. Tại mức giảm này, đóng góp
của tảng băng Greenland với SLR khoảng gấp hai lần tỷ lệ được IPCC giả định
trong Báo cáo đánh giá thứ ba của IPCC (2001)2.
Tại Nam Cực, sử dụng thiết bị vệ tinh thử nghiệm thời tiết và hồi phục trọng lực (GRACE),
Velicogna và Wahr (2006) đã xác định được sự thay đổi lớn của các tảng băng ở Nam
Cực trong giai đoạn 2002-20053. Kết quả của họ cho thấy rằng khối lượng các tảng băng

đã giảm đáng kể, với tỷ lệ 152 ± 80 km 3/năm; phần lớn khối lượng mất này từ các tảng
băng phía Tây của Nam Cực (WAIS). Tỷ lệ này lớn hơn gấp nhiều lần so với dự đoán của
IPCC trong bản Báo cáo thứ ba, và IPCC cũng đã thừa nhận rằng báo cáo cuối sùng đã
không xem xét đến những thay đổi động của các tảng băng phía Tây của Nam Cực. Tăng
thêm mối quan tâm đối với tính ổn định của WAIS, hiện chúng đang nằm ở trên nền đá
dưới mực nước biển. Mercer (1978) đã dự đoán rằng hiện tượng nóng lên toàn cầu do con
người có thể dẫn đến WAIS được chảy vào đại dương qua việc sập các tảng băng
(thường được gọi là sập WAIS). Điều này có thể làm cho mực nước biển tăng lên nhanh
chóng, do nó phát sinh duy nhất từ việc phân bố lại WAIS không nhất thiết phải tan. Nếu
WAIS sụp đổ, nó có thể làm tăng mực nước biển lên khoảng 5-6 mét (Tol và các cộng sự,
2006).
Mặc dù những vẫn còn tồn tại điều kiện không chắc chắn rất lớn về các kịch bản trên đây,
và cùng với thời gian các kịch bản này sẽ lộ ra, các nghiên cứu gần đây ý kiến của các
chuyên gia cho thấy rằng SLR có thể xảy ra sớm hơn vẫn thường nghĩ trước đây 4. Điều
này làm xuất hiện một số lượng đáng kể các nhà nghiên cứu dùng mô hình để ước lượng

2

360 gigatons băng tương ứng với 1mm mực nước biển
The GRACE result for total Antarctic ice mass change includes complete contributions from
such regions as the EAIS coastline and the circular cap south of 82°S, which has not been
completely surveyed with other techniques.
See Vaughan and Spouge, 2002.
3

4

2



các ảnh hưởng của sự tăng lên đáng kể của SLR (những mô hình này thường dùng thuật
ngữ “kịch bản khí hậu đặc biệt”). Có khá nhiều nghiên cứu đã cũng cấp những ước lượng
của ảnh hưởng tiềm năng đối với các nước phát triển cụ thể (Pháp Hà Lan, Ba Lan,
Singapore, và Hoa Kỳ)5; nước đang phát triển (như Bangladesh, Benin, Trung Quốc,
Nigeria, and Senegal)6; hoặc một vùng cụ thể của một nước (chẳng hạn các đồng bằng
Nile và Bengal; Đồng bằng Rhine, Cửa sông Thames và đồng bằng Rhone) 7. Tuy nhiên,
có rất ít nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của SLR tới những khu vực rộng hơn hoặc ở
quy mô thế giới. Những nghiên cứu này bao gồm: Darwin và Tol (1999), Hoozemans và
các cộng sự

(1993), Nicholls và Mimura (1998), Nicholls và các cộng sự (2004),

Nicholls và Lowe (2006), và Nicholls và Tol (2006). Một số nghiên cứu trong những
nghiên cứu này xác định ảnh hưởng của các “kịch bản thời tiết đặc biệt” chẳng hạn với
SLR ở mức 5 mét (như Nicholls và các cộng sự, 2004). Tuy nhiên, các chỉ tiêu thường
được đo lường ảnh hưởng bao gồm mất đất, dân cư bị ảnh hưởng, giá trị tài vốn bị mất
và mất đất đầm lầy, các nghiên cứu khác nhau sử dụng tập hợp các chỉ tiêu khác nhau
hoặc khu vực khác nhau, rất khó để so sánh mức độ ảnh hưởng tương đối cho các quốc
gia và khu vực8.
Bài viết này đưa ra một so sánh rộng hơn, bằng việc đánh giá ảnh hưởng của SLR ở tất
cả các nước đang phát triển sử dụng tập hợp chỉ tiêu thống nhất, cho nhiều kịch bản khác
nhau. Với kiến thức của chúng tôi, đây là lần đầu tiên thực hiện một công việc như vậy.
Mendelsohn và các cộng sự (2006) cung cấp các bằng chứng bổ sung, bằng việc xác
định ảnh hưởng của thị trường do thay đổi khí hậu đối với nước giàu và nước nghèo
trong nhiều kịch bản thời tiết khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu của họ đã không đánh giá
ảnh hưởng của SLR qua các chỉ tiêu kinh tế và vật chất.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhóm 84 nước đang phát triển ở 5 khu vực (tương ứng với
5 văn phòng khu vực của Ngân hàng Thế giới):9 Mỹ La tinh, Ca-ri-bê (25 nước); Trung Đông
và Bắc Phi (13); Cận Sahara Châu Phi (29); Đông á (13); và Nam Á (4). Đối với mỗi


5
6

9

See Baarse et al. (1994), Bijlsma et al. (1996), Mendelsohn and Neumann (1999), Ng and
Mendelsohn (2005), Olsthoorn et al. (2002), and Zeidler (1997).
Adam (1995), Dennis et al. (1995), French et al. (1995), Han et al. (1995), and Warrick et al.
(1996).
7
Tol et al. (2005), Yim (1995).
8
For example, the regional assessments presented in Nicholls and Mimura (1998) cover four
regions: Europe; West Africa; South, South-East, and East Asia; and the Pacific Small Islands. It
does not include Latin America and the Caribbean or other regions of Africa.
Hoozemans et al. (1993) divided the globe (including developed countries) into 20 regions.

3


nước và mỗi vùng, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của SLR sử dụng 6 chỉ tiêu: đất, dân số,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP), khu vực thành thị, khu vực nông thôn và đầm lầy. Cuối
cùng, những ảnh hưởng này được tính toán cho các kịch bản SLR từ 1 đến 5 mét.
Ngay khi bắt đầu, chúng tôi cũng đã nhận thấy rằng phân tích này sẽ có những hạn chế.
Thứ nhất, chúng tôi không đánh giá sinh kế của các kịch bản khác nhau. Chúng tôi lấy mỗi
kịch bản như đã được xác định, và đánh giá ảnh hưởng dùng 6 chỉ tiêu cho 84 quốc gia
đang phát triển và 5 khu vực. Thứ hai, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của SLR dùng thông
tin hiện tại về dân số và các điều kiện kinh tế xã hội, đặc tính sử dụng đất đai, hơn là việc
cố gắng dự đoán trong điều kiện tương lai. Bởi vì hoạt động của con người ở khu vực ven
biển tăng lên nhanh chóng, phương pháp tiếp cận của chúng tôi không nghi ngờ gì sẽ ước

lượng thấp hơn các ảnh hưởng trong tương lai của SLR trong hầu hết trường hợp. Ước
lượng thấp này sẽ là rất tốt đối với ảnh hưởng của SLR lên giá trị tuyệt đối của dân số và
GDP (số lượng người bị ảnh hưởng hoặc số tiền GDP bị thiệt hại). Thứ ba, nghiên cứu của
chúng tôi có hạn chế bởi vì chúng tôi đã không cân nhắc sự tăng lên của các trận bão. Chỉ
cần một mức tăng nhỏ của mực nước biển có thể làm cho ảnh hưởng rất lớn của các đợt
bão, nó xảy ra thường xuyên và gây hậu quả nghiêm trọng ở một số khu vực bờ biển.
Mặc dầu có những hạn chế này, chúng tôi tin rằng các ước lượng ban đầu toàn diện của
chúng tôi về ảnh hưởng của SLR giúp cho các nhà hoạch định chính sách và và thiết chế
phát triển quốc tế trong việc phân bổ tài nguyên cho thích ứng với thay đổi khí hậu. Đặc biệt,
chúng tôi tin rằng các nghiên cứu cụ thể của chúng tôi, dựa vào điều kiện bờ biển hiện tại, là
phù hợp hơn với các nhà ra quyết định so với ước lượng dựa vào dự đoán trong tương lai về
dân số và các hoạt động kinh tế ven biển.
Trong phần tới, chúng tôi sẽ mô tả phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu được sử
dụng để ước lượng các ảnh hưởng của SLR ở các nước đang phát triển. Chúng tôi sẽ trình
bày kết quả nghiên cứu ở phần III, ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia. Phần VI
cung cấp tóm tắt và các kết luận.

III.2

Ảnh hưởng tới các khu vực

(iv) Khu vực Đông Á
Đông Á sẽ bị ảnh hưởng rất lớn bởi SLR. Tại mức SLR 5 mét, Đông Á là khu vực ảnh
hưởng nghiêm trọng nhất trong các khu vực của các nước đang phát triển. Từ mức tăng 1
mét đến 5 mét của SLR, dân số bị ảnh hưởng là 2% đến 8.6%, trong khi ảnh hưởng của
GDP là 2.09% đến 10.2%. Khu vực đô thị và diện tích đầm lầy cũng bị ảnh hưởng rất
nghiêm trọng của SLR (Bảng 7).

4



Bảng 7
Ảnh hưởng của mực nước
biển dân cao: Đông Á
1m
2m
3m
Diện tích (Tổng = 14,140,767 km2)
Khu vực ảnh hưởng
% trong tổng số

74,020
0.52

119,370
0.84

178,177
1.26

4m

5m

248,970
1.76

325,089
2.30


126,207,275
6.70

162,445,397
8.63

592,598
7.82

772,904
10.20

25,725
6.63

34,896
8.99

Dân số (Tổng = 1,883,407,000)
Dân cư ảnh hưởng
% trong tổng dân cư

37,193,866
1.97

60,155,640
3.19

90,003,580
4.78


GDP (Tổng = 7,577,206 triệu USD)
GDP ảnh hưởng (USD)
% trong tổng GDP

158,399
2.09

255,510
3.37

394,081
5.20

Khu vực đô thị (Tổng = 388,054 km2)
Khu vực ảnh hưởng
% trong tổng số

6,648
1.71

11,127
2.87

17,596
4.53

Khu vực nông nghiệp (Tổng = 5,472,581 km2)
Khu vực ảnh hưởng
% trong tổng số


45,393
0.83

78,347
1.43

121,728
2.22

174,076
3.18

229,185
4.19

110,671
8.10

130,780
9.57

Đầm lầy (Tống = 1,366,069 km2)
Khu vực ảnh hưởng
% trong tổng số

36,463
2.67

56,579

4.14

79,984
5.86

Như được chỉ ra ở Biểu đồ 4a, Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi SLR:
khoảng 16% tổng diện tích của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng với mực tăng 5 mét của SLR, làm
cho quốc gia này trở thành nước thứ hai sau Bahamas trong số các nước được phân tích
trong nghiên cứu này. Đa số ảnh hưởng này tác động đến Đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long.

Một phần lớn dân cư Việt Nam và các hoạt động kinh kế nằm ở vị trên vùng đồng bằng
của hai con sông này. Như được chỉ ra ở Biểu đồ 4c, 10.8% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh
hưởng khi mực SLR ở mức 1 mét. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số 84 quốc gia (Ai Cập tiếp
theo với 10.56%). Dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đến 35% với SRL ở mức 5 mét.
Ảnh hưởng của SLR đến GDP của Việt Nam (Biểu đồ 4e) và khu vực đô thị (Biểu đồ 4f)
gần sát với mức ảnh hưởng đến dân số của Việt Nam.

5


Biểu đồ 4a
Đông Á: Diện tích đất các quốc gia bị ảnh hưởng

6


Biểu đồ 4b
Khu vực bị ngập: Việt Nam


7


Biểu đồ 4c
Đông Á : Khu vực dân cư bị ảnh hưởng (5mét SLR)

Biểu đồ 4d
Đông Á: Dân số bị ảnh hưởng

8


GDP của Thái Lan cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, như được chỉ ra ở Biểu
đồ 4.e, ảnh hưởng này sẽ đáng kể chỉ khi SLR ở mức 4 mét đến 5 mét. Trong tất cả các chỉ
tiêu, khu vực nông nghiệp Việt Nam sẽ ảnh hưởng nặng nhất ở các nước Đông Á (Biểu đồ
4g). Đồng thời, nông nghiệp của Myanmar, cũng như các vùng đầm lầy (Biểu đồ 4h) cũng sẽ
bị ảnh hưởng rất lớn. Hầu hết đầm lầy của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng của SLR.
Biểu đồ 4e
Đông Á: GDP bị ảnh hưởng

Biểu đồ 4f
Đông Á: Khu vực đô thị bị ảnh hưởng

9


Biểu đồ 4g
Đông Á: Khu vực nông nghiệp bị ảnh hưởng

Biểu đồ 4h

Đông Á: Khu vực đầm lầy bị ảnh hưởng

10


IV.

Kết luận

Kể cả sự phát thải các khí nhà kính (GHS) được ổn định trong tương lai gần, hiện tượng nở
vì nhiệt và tan băng sẽ làm cho mực nước biển tiếp tục dâng cao trong nhiều thập kỷ tới. Sự
phát thải các khí nhà kính tiếp tục tăng và hiện tượng nóng lên toàn cầu sẽ làm cho SLR từ 1
mét đến 3 mét trong thế kỷ này, các tảng băng ở Greenland và Bắc Cực đang bị tan rất
nhanh ngoài dự kiến có thể làm cho SLR đến 5 mét. Trong bài viết này, chúng tôi đánh giá
hậu quả của SLR tiếp tục tăng ở 84 nước đang phát triển. Kết quả là có sự khác biệt rất lớn,
với những ảnh hưởng ở một số ít các nước. Trong các nước này (Việt Nam và Ai Cập và
Bahamas), hậu quả của SLR có thể là thảm hoạ. Đối với nhiều nước khác, bao gồm cả
những nước rộng nhất (như Trung Quốc), ảnh hướng tuyệt đối có thể là rất lớn. Ở một thái
cực khác, nhiều nước đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng rất nhỏ. Trong các khu vực, Đông Á,
và Trung Đông/Bắc Phi ảnh hưởng tương đối là lớn nhất.
Trong kết luận này, chúng tôi muốn nhấn mạnh hai suy luận quan trọng. Thứ nhất, mức độ
ảnh hưởng chung của các nước đang phát triển là đúng: Trong thế kỷ này, hàng trăm triệu
người sẽ phải di cư do SLR, kèm theo đó các hoạt động kinh tế và sinh thái sẽ là rất nghiêm
trọng đối với nhiều nước. Thế giới chưa từng phải đối mặt với khủng hoảng với quy mô như
thế này, và quy hoạch để thích ứng phải được thực hiện ngay. Thứ hai, chiến lược phân bổ
nguồn lực quốc tế phải biết được mức độ ảnh hưởng đối với từng khu vực hoặc quốc gia
khác nhau, đã được chúng tôi phân tích trong bài viết này. Một số quốc gia sẽ bị ảnh hưởng
rất ít bởi SLR, trong khi đó các quốc gia khác bị ảnh hưởng rất lớn nó thể đe doạ đến sự
toàn vẹn lãnh thổ của họ. Với nguồn lực sẵn có khan hiếm, có thể nên phân bổ nguồn lực
theo mức độ bị nguy hiểm.

Dưới sự hỗ trợ của Hiệp định Khung Quốc tế về Thay đổi Khí hậu (UNFCCC), một số
công việc đã được bắt đầu cho Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia (National
Adaptation Programmes of Action - NAPA). Những hành động này bao gồm cả việc
tăng cường xác định các hoạt động ưu tiên, bao gồm cả thích ứng đối với SLR ở các
nước kém phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ mới có 8 quốc gia đã xây dựng đầy đủ
Chương trình Hành động Thích ứng Quốc gia Bangladesh, Bhutan, Comoros, Djibouti,
Malawi, Mauritania, Niger và Samoa. Trong các nước này, 5 quốc gia là các nước ven
biển có khả năng bị ảnh hưởng bởi SLR. Để so sánh, tóm tắt của chúng tôi ở trên đã
cho thấy 10 nước nghèo sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi SLR. Ngoại trừ Bangladesh
và Mauritania, chưa có quốc gia nào có NAPA được đề cập trong các quốc gia dưới đây:

11


Benin, Guyana, Suriname, Ai Cập, The Gambia, Guinea-Bissau, Mauritania, Việt Nam,
Bangladesh và Sri Lanka. Các quốc gia đang phát triển khác cũng bị ảnh hưởng lớn.
Chúng tôi xin nhắc lại rằng những kết quả trên đây không phải là dự đoán. Mức độ tập trung
của các khí nhà kính hiện nay đủ để làm cho trái đất ấm lên trong thế kỷ tới, và có mức độ
tập trung này đương nhiên là sẽ cao hơn trước khi thoả thuận toàn cầu được thực hiện. Với
mục đích lưu ý trong quy hoạch, SLR trong khoảng từ 1 mét đến 3 mét có thể trở thành hiện
thực. Cho đến này, rất ít các bằng chứng rằng cộng đồng quốc tế đã quan tâm thích đáng về
việc quy hoạch phân bố dân cư và cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển. Chúng tôi hy
vọng rằng thông tin được trình bày trong bài viết này sẽ khuyến khích nhiều hành động
chống lại thách thức này.

12


Tài liệu tham khảo
Adam, K.S., 1995: Vulnerability assessment and coastal management program in the

Benin coastal zone. In: Beukenkamp, p. (ed.) Proceedings of WCC93. CZM
Management Publication No.4. National Institute for Coastal and
Marine
Management, The Hague, p. 489-501.
Baarse, G., Peerbolte, E.B., and I. Bijlsma, 1994: Assessment of the vulnerability of the
Netherlands to sea-level rise. In: O’Callahan J. (ed), Global Climate Change and
the
Rising Challenge of the Sea, Proceedings of the 3rd IPCC CZMS Workshop,
Margarita Island, March 1992. NOAA, Silver Spring, MD, p. 211-236.
Bijlsma, L, Ehler, C.N. Klein, R.J.T., Julshrestha S.M. McLean, R.F., Mimura, N.,
Nicholls, R.J., Nurse, L.A., Perez, N.H., Stakhiv, E.Z., Turner, R.K., and R.A.
Warrick, 1996: Coastal zones and small islands, In: Watson, R.T., Zinyowera, M.C.,
Moss, R.H. (eds), Impacts, Adaptations, and Mitigation of Climate Change:
Scientifictechnical Analyses, Cambridge University Press, Cambridge, p. 289-324.
Church, J.A., Gregory, J.M., Huybrechts, P., Kuhn, M., Lambeck, K., Nhuan, M.T., Qin,
D., Woodworth, P.L., 2001: Changes in sea level. In: Houghton, J.T., Ding, Y.,
Griggs, D.J., Noguer, M., van der Linden, P.J., Xiaosu, D. (eds.) Climate Change
2001. The Scientific Basis. Cambridge University Press, Cambridge, pp. 639-693.
Darwin, R.F. and R.S.J. Tol, 1999: Estimates of the economic effects of sea level rise,
mimeo.
Dennis, K., Niang-Diop, I., and Nicholls, R.J., 1995: Sea-level rise and Senegal:
Potential impacts and consequences, Journal of Coastal Research, 14, 242-261.
French, G.T., Awosika, L.F., and C.E. Ibe, 1995: Sea-level rise in Nigeria: Potential
impacts and consequences. Journal of Coastal Research, 14, 224-242.
Han, M., Hou, J., and I. Wu, 1995: Potential impacts of sea-level rise on China’s coastal
environment and cities: A national assessment, Journal of Coastal Research, 14, 7995.
Hanna, E.,, P. Huybrechts, I. Janssens, J. Cappelen, K. Steffen & A. Stephens, 2005:
Runoff and mass balance of the Greenland Ice Sheet: 1958-2003, Journal of
Geophysical Research, 110, D13108, doi: 10.1029/2004JD005641.
Hoozemans F.M.J., Marchand, M., and H.A. Pennekamp, 1993: A global vulnerability

analysis, vulnerability assessments for population, coastal wetlands,
and rice
production on a global scale, 2nd ed. Delft Hydraulics and Rijkswaterstaat, Delft.
IPCC, 2001a: Climate Change 2001: The Scientific Basis - Contribution of Working
Group I to the IPCC Third Assessment Report 2001.
IPCC, 2001b: Synthesis Report 2001- Contribution of Working Groups I, II, and III to the
Third Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, R.T.
Watson (ed.) and the Core Writing Team. Cambridge: Cambridge University Press,
397 pp.



Krabill, W., E. Hanna, P. Huybrechts, W. Abdalati, J. Cappelen, B. Csatho, E. Frederick,
S. Manizade, C. Martin, J. Sonntag, R. Swift, R. Thomas, and J. Yunge, 2004:
Greenland Ice Sheet: increased coastal thinning. Geophysical Research Letters, 31:
L24402, doi:10.1029/2004GL021533.
Lehner, B. and Döll, P., 2004: Development and validation of a global database of lakes,
reservoirs and wetlands. Journal of Hydrology, 296/1-4, p.1-22.
Lowe, J.A., Gregory, J.M., Ridley, J., Huybrechts, P., Nicholls, R.J, and M. Collins, 2006:
The role of sea-level rise and the Greenland ice sheet in dangerous climate change:
Implications for the stabilization of climate, in H.J. Schellnhuber, W. Cramer, N.
Nakicenovic, T. Wigley, and G. Yohe (eds), Avoiding Dangerous Climate Change,
Cambridge University Press, U.K.
Mendelsohn, R. and J. Neumann (eds), 1999: The Impact of Climate Change on
the
United States Economy, Cambridge: Cambridge University Press.
Mendelsohn, R., Dinar, A. and L. Williams, 2006: The distributional impact of climate
change on rich and poor countries, Environment and Development Economics, 11,
2,
159-178.

Mercer, J.H., 1978: West Antarctic ice sheet and CO2 greenhouse effect: A threat of
disaster, Nature, 271, 321-325.
Ng, W.S. and R. Mendelsohn, 2005: The impact of sea level rise on Singapore,
Environment and Development Economics, 10, 2, 201-215.
Nicholls, R.J., 1995: Synthesis of vulnerability analysis studies. Proceedings of WORLD
COAST 1993, Ministry of Transport, Public Works and Water Management, the
Netherlands. pp.181-216. (downloadable at www.survas.mdx.ac.uk)
Nicholls, R.J. and Mimura, N., 1998: Regional issues raised by sea-level rise and their
policy implications. Climate Research, 11, 5-18.
Nicholls, R.J., Tol, R.S.J., and N. Vafeidis, 2004: Global estimates of the impact of a
collapse of the West Antarctic ice sheet, mimeo.
Nicholls, R.J. and J.A. Lowe, 2006: Climate stabilization and impacts of sea-level rise. In
In H.J. Schellnhuber, W. Cramer, N. Nakicenovic, T. Wigley, and G. Yohe (eds),
Avoiding Dangerous Climate Change, Cambridge University Press, U.K.
Nicholls, R.J., and Tol, R.S.J., 2006: Impacts and responses to sea-level rise: a global
analysis of the SRES scenarios over the twenty-first century. Philosophical
Transactions of the Royal Society, A, 364 (1841): 1073-1095.
Olsthoorn, X., van der Werff, P., Bouwer, L, and D. Huitema, 2002: Neo-Atlantis: Ducth
Responses to Five Meter Sea Level Rise, mimeo.
Rapley, C, 2006: The Antarctic ice sheet and sea level rise. In H.J. Schellnhuber, W.
Cramer, N. Nakicenovic, T. Wigley, and G. Yohe (eds), Avoiding Dangerous Climate
Change, Cambridge University Press, U.K.


Rignot, E. and Kanagaratnam, P., 2006: Changes in the velocity structure of the
Greenland Ice Sheet. Science, 311: 986?990.
Sachs, J.D., Mellinger, A.D., and Gallup, J.L., 2001: The geography of poverty and
wealth. Scientific American, 284(3), p.70-75.
Tol, R.S.J., Bohn, M., Downing, T.E., Guillerminet, M-L., Hiznyik, E., Kasperson, R.,
Lonsdale, K., Mays, C., Nicholls, R.J., Olsthoorn, A.A., Pfeifle, G., Poumadere, M.,

Toth, F.L. Vafeidis, N., wan der Werff, P.E., and I.H. Yetkiner, 2005: Adaptation to
Five Meters Sea Level Rise, mimeo.
Vaughan, D.G., and J.R. Spouge, 2002: Risk estimation of collapse of the West
Antarctic ice sheet, Climatic Change, 52, 65-91.
Velicogna, I. and Wahr, J., 2006: Measurements of time-variable gravity show mass loss
in Antarctica. Science, 311: 1754-1756.
Warrick, R.A., C. Le Provost, M.F. Meier, J. Oerlemans, P.L. Woodworth,
1996:
Changes in Sea Level. In: J.T. Houghton, L.G. Meira Filho, B.A. Callander, N. Harris,
A. Klattenberg, K. Maskell (eds.) Climate Change 1995, The Science of
Climate Change, Cambridge University Press, pp. 359-405.
Yim, W., 1995: Implications of sea-level rise for Victoria Harbour, Hong Kong, Journal of
Coastal Research, 14, 167-189.
Zeidler, R.B., 1997: Climate change variability and response strategies for the coastal
zones of Poland, Climate Change, 36, 151-173.
Zuo, Z., and J. Oerlemans, 1997: Contribution of glacier melt to sea level rise since AD
1865: a regionally differentiated calculation. Climate Dynamics, 13: 835-845.



×