Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Sử Dụng Các Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Để Phát Triển Năng Lực Học Sinh Qua Các Văn Bản Nhật Dụng Trong Chương Trình Trung Học Cơ Sở (THCS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.67 KB, 44 trang )

1.Tên đề tài:
SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH QUA CÁC VĂN BẢN NHẬT DỤNG TRONG
CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC CƠ SỞ (THCS).
2. Đặt vấn đề:
2.1. Tầm quan trọng của vấn đề: Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối
cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng
đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân
lực. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ
nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục
chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng
tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách
phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.
Trong định hướng phát triển chương trình giáo dục phổ phổ thông sau 2015,
môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt
và năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc
thù của môn học; ngoài ra, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng đóng vai
trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học. Với mong
muốn phát triển năng lực cho học sinh, rèn luyện các em kĩ năng cần thiết cho cuộc
sống thích ứng với yêu cầu của xã hội, tôi chọn đề tài: sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực để phát triển năng lực học sinh qua các văn bản nhật dụng trong
chương trình THCS.
Các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS mang tính đặc
thù. Nói đến văn bản nhật dụng, trước hết là nói đến tính chất nội dung văn bản.
Đó là những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt
của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: thiên nhiên, môi trường,
năng lượng, dân số, quyền trẻ em, tệ nạn xã hội,... Mục tiêu cuối cùng cần đạt được
là người học phải thấy được tính chất đó của từng văn bản để từ đó có ý thức cũng


như đề ra cách thức hành động cụ thể mang tính tích cực sau khi học xong một bài.
Vì thế, tạo hứng thú, để học sinh tự nói lên suy nghĩ, hành động, thể hiện sự hiểu
biết, thực hiện công tác tuyên truyền,... đối với các vấn đề nêu ra ở mỗi văn bản
nhật dụng là vấn đề hết sức quan trọng đối với giáo viên đang dạy học những văn
bản này.

1


2.2. Thực trạng liên quan: Để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra không phải là
dễ so với yêu cầu của một học sinh THCS nhưng không phải là không làm được.
Thực tế, học sinh đã thể hiện khả năng từ những bài viết, bài tập, bài nghiên cứu...
của mình. Nhưng nhìn chung, các em thực hiện các yêu cầu của các tiết học này
chỉ mang tính bắt buộc là chủ yếu chứ chưa thật sự tự nguyện vì hứng thú, chưa đi
sâu vào một vấn đề cụ thể. Thường thì các em chỉ lắng nghe, ít thể hiện khả năng
bản thân, nhất là trong các tiết có tính thực tế cuộc sống rõ ràng như những văn
bản nhật dụng. Lượng kiến thức ở những văn bản này vừa rộng vừa sâu, nội dung
có tính thực tế cao đòi hỏi phải sưu tầm, nghiên cứu từ nhiều nguồn: cuộc sống
xung quanh, tư liệu khoa học, hình ảnh minh họa, đề tài nghiên cứu có liên quan,
huy động kiến thức nhiều môn học... Trong khi đó, học sinh ở lứa tuổi này đa số
ham học hỏi, tìm tòi nghiên cứu những điều mới mẽ nhưng lại thiếu kiên nhẫn, tầm
nhìn có hạn, khả năng khái quát vấn đề không cao, kỹ năng trình bày còn ít lưu
loát... Điều đó cũng gây khó khăn cho các em trong nghiên cứu, trình bày một vấn
đề cụ thể.
2.3. Lý do chọn đề tài: Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát
triển năng lực học sinh là một điều không phải là đơn giản nhưng không phải nằm
ngoài tầm tay, lại có tác dụng rất lớn trong việc dạy học môn Ngữ văn, nhất là dạy
học các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS, nên tôi luôn cố
gắng tìm tòi các phương pháp giúp học sinh tránh được sự nhàm chán, kích thích
sự sáng tạo, tư duy, rèn luyện tính tự tin, năng lực trình bày vấn đề một cách khoa

học, năng lực làm việc theo nhóm, năng lực giao tiếp... Và tôi thấy rằng sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực học sinh qua các văn bản
nhật dụng trong chương trình THCS là hết sức cần thiết và đem lại hiệu quả cao
trong dạy học cũng như trong giáo dục nên tôi đã tập trung đầu tư, nghiên cứu các
phương pháp này.
2.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, tôi xin được đề cập đến
việc tổ chức sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực học
sinh qua các văn bản nhật dụng trong chương trình THCS.
2.5. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các khối lớp ở trưòng THCS.
3. Cơ sở lý luận:
Học sinh đến trường không chỉ được học những kiến thức khoa học; chúng
ta không chỉ có nhiệm vụ giúp các em phát triển trí tuệ mà phải thực hiện mục tiêu
giáo dục “... giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng
tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách
2


và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 27 - Luật giáo dục)
Để thực hiện được mục tiêu đó, ngành giáo dục nói chung, mỗi giáo viên
đứng lớp nói riêng phải sử dụng nhiều phương pháp phù hợp. Điều 28 (Luật giáo
dục) cũng đã nêu: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh."
Có thể nói tổ chức tốt tiết học theo có sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực là đã tạo được hứng thú để các em chủ động phát hiện kiến thức trong bài học,
góp phần thực hiện được mục tiêu giáo dục. Hơn nữa, qua các phương pháp dạy

học này, giáo viên có cơ sở để phát huy năng lực học sinh theo đúng hướng, bởi
“hạnh kiểm học sinh được biểu hiện cụ thể ở hành vi, thái độ của các em với thầy
cô, với bạn bè, ý thức vươn lên trong học tập, tham gia các hoạt động,…” (Quyết
định 40/2006/QĐ-BGD&ĐT - ngày 05/10/2006 ban hành qui chế đánh giá xếp loại
học sinh THCS, THPT)
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản,
toàn diện GD-ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản
chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người
học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
4. Cơ sở thực tiễn:
Giáo viên cần nắm được nguyên tắc: Giáo dục phải đi trước sự phát triển, có
nghĩa là kéo theo sự phát triển chứ không phải chạy theo sự phát triển của trẻ.
Chính vì thế, trong các hoạt động dạy học, giáo viên luôn ý thức phải làm sao cho
học sinh có thể tiếp nhận các hình thức tổ chức, định hướng hoạt động của giáo
viên, để từ đó có ý thức tích cực trong mọi hoạt động để phát triển một cách toàn
diện.
Nhưng thực tế, chỉ có một bộ phận học sinh đã xác định tầm quan trọng của
môn Ngữ văn nên có ý thức học tập bộ môn, chăm chỉ, có ý thức cố gắng trong học
3


tập và rèn luyện môn học này. Tuy nhiên theo đặc thù bộ môn, theo xu thế của xã

hội, môn Ngữ văn đang bị mất dần vị thế của nó. Học sinh (cũng như một số phụ
huynh) ít mặn mà với bộ môn Ngữ văn và chỉ coi môn Ngữ văn là môn học bắt
buộc (vì hầu hết các kì thi tốt nghiệp, thi chuyển cấp đều thi môn Ngữ văn). Để
chọn ngành nghề sau này được dễ dàng, để có một ngành có thể dễ ổn định cuộc
sống, các bậc cha mẹ thường định hướng con em học những môn như Toán, Lí,
Hóa, Ngoại ngữ,… Hơn nữa, trường tôi nằm ở địa bàn của một xã miền núi còn
nhiều khó khăn, nhiều gia đình học sinh có cha mẹ đi làm nương rẫy xa nhà, ít
quan tâm đến việc học của con nên có một bộ phận học sinh rất lơ là trong học tập,
chất lượng học tập các môn đạt rất thấp, trong đó có môn Ngữ văn.
Đối với việc áp dụng các phương pháp học tập mới đòi hỏi nhiều phương
tiện hiện đại, công nghệ cao, tính hợp tác cao lại càng khó khăn, khó thực hiện tốt.
Nói như thế không phải để đi đến kết luận là không thể thực hiện tốt việc đổi
mới các phương pháp dạy học, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực cho học
sinh, mà đây là cách nhìn nhận thực tế để có thể tìm ra được giải pháp hiệu quả cho
vấn đề này. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, ta có nhiều cơ hội để thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình. Cụ thể là:
- Đầu tiên phải nói đến quá trình tìm hiểu về các phương pháp, cách thức
dạy học cho học sinh hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều tài liệu
nghiên cứu về giáo dục, dạy học ta có thể tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng
lực giáo dục, dạy học như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh
giá, phương pháp dạy học tích cực, dạy học với công nghệ thông tin, giáo dục kỹ
năng sống, giá trị sống cho học sinh,... Chính những tài liệu này giúp ích cho người
giáo viên rất nhiều trong việc tìm phương pháp hiệu quả nhất để dạy học sinh.
- Tiếp đến phải nói đến các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục, dạy
học. Ngày nay, giáo dục vẫn luôn được coi trọng, vẫn là một trong những quốc
sách hàng đầu của nước ta, mọi người ai cũng hiểu đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho sự phát triển... nên luôn được Đảng, Nhà nước, xã hội, gia đình, nhà trường
đặc biệt quan tâm, tạo mọi điều kiện để người giáo viên hoàn thành tốt nhất nhiệm
vụ này. Người giáo viên luôn có thể phối hợp với nhiều lực lượng giáo dục để dạy
học học sinh như giáo viên bộ môn, lãnh đạo nhà trường, gia đình học sinh, các lực

lượng giáo dục ở địa phương. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức của
giáo viên khi tiến hành các tiết học yêu cầu cao, sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực nhằm phát triển năng lực của học sinh.
- Không những thế, từ nhiều nguồn thông tin từ đồng nghiệp, từ các chương
trình tập huấn chuyên môn, từ tài liệu nghiên cứu,... giáo viên có thể tự tìm ra
4


nhiều cách thức, phương pháp để tạo hứng thú cho học sinh (như một số cách thức
được trình bày trong phần nội dung nghiên cứu bên dưới) một cách hiệu quả.
- Cũng từ chính việc tạo được hứng thú cho học sinh, khi học sinh đã có
hứng thú, các em sẽ tự tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp tổ chức để nâng cao
năng lực bản thân. Bằng những cách thức đó, ta có thể giải quyết một cách hiệu
quả một vấn đề tưởng chừng nan giải.
- Tuy nhiều gia đình học sinh còn khó khăn nhưng vẫn có một số gia đình có
điều kiện, rất quan tâm đến việc học tập của con, tìm mọi cách để con có thể tiếp
thu cái mới, áp dụng kỹ thuật công nghệ để nâng cao năng lực học tập, khám phá
cái mới, không ngừng vươn lên.
- Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ của thế giới, sự
phát triển mạnh mẽ của kinh tế đất nước, hiện nay, mạng thông tin truyền thông đã
đến khắp mọi miền. Điều đó cũng là một lợi thế to lớn cho việc áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực đối với một trường ở miền quê như trường tôi.
- Mặc dù nhà trường vẫn còn nhiều khó khăn nhưng lãnh đạo trường, Ban
đại diện cha mẹ học sinh trường đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để trường ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học như nối mạng in-tơ-nét, lắp đặt ti-vi màn hình
rộng, thường xuyên tổ chức cho cán bộ, viên chức, nhân viên nhà trường học tập
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Điều đó đã giúp cho giáo viên nâng
cao năng lực giảng dạy của bản thân, thuận lợi trong việc áp dụng phương pháp
dạy học tích cực.
Trường tôi là một trường còn khá khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, các

em học sinh của địa phương đặc thù là vùng thuần nông, điều kiện kinh tế khó
khăn cho nên còn nhiều hạn chế về tinh thần, vật chất. Vì vậy, giáo viên cần phải
chủ động, sáng tạo tìm các biện pháp tích cực để giúp đỡ các em có được sự tự tin
về bản thân, sự hứng thú, chủ động trong học tập và rèn luyện, giúp các em từng
bước hoàn thiện để phát triển những kĩ năng cần thiết mà xã hội yêu cầu. Từ nhiệm
vụ đó, tôi đã chủ động, mạnh dạn áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để
phát triển năng lực học sinh qua các văn bản nhật dụng trong chương trình THCS
vào thực tế trong quá trình giảng dạy.
5. Nội dung nghiên cứu:
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương
pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng
5


kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Giáo dục định
hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên
môn bao gồm tri thức, kĩ năng chuyên môn mà còn phát triển năng lực phương
pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Đây là những năng lực chung cốt lõi mà
học sinh cần có để thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội.
Theo tài liệu tập huấn “ Dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh” có liệt kê ra các năng lực và sắp xếp theo 4 nhóm sau:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực quản lý bản thân
- Năng lực xã hội, bao gồm:

+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
- Năng lực công cụ, bao gồm:
+ Năng lực tính toán
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ
+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin.
Các năng lực sẽ được phát huy trong các tiết dạy văn bản nhật dụng là:
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực hợp tác
+ Năng lực giao tiếp
+ Hai năng lực công cụ cần phát huy: Năng lực sử dụng ngôn ngữ và
năng lực ứng dụng công nghệ thông tin.
5.1.Lý luận về năng lực cần phát triển:
a. Năng lực giải quyết vấn đề:
Năng lực giải quyết vấn đề là một năng lực chung, thể hiện khả năng của
mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong
học tập và cuộc sống mà không có định hướng trước kết quả,và tìm các giải pháp
để giải quyết các vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư
duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
Quá trình giải quyết vấn đề được thực hiện bằng sự hứng thú tìm tòi, khám
phá cái mới, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và sự phối hợp tương tác giữa các
cá nhân, vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ, tính sẵn sàng…thể
hiện qua các hoạt động cụ thể.
Đối với các văn bản nhật dụng trong chương trình THCS, các em sẽ vận
dụng năng lực này khi tiến hành thực hiện các dự án, giải quyết tình huống có vấn
đề, xây dựng và thực hiện kịch bản, lý giải các hiện tượng đời sống, thể hiện quan
điểm cá nhân với các vấn đề thực tiễn,…
6



b. Năng lực sáng tạo:
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc
suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và đời
sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực
hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò,
niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm
hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các tiết học
các văn bản nhật dụng trong chương trình THCS, một trong các yêu cầu cao là học
sinh, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm.
Kết quả của năng lực này các em sẽ thể hiện rõ qua việc thực hiện dự án, xây dựng
và thể hiện kịch bản liên quan đến nội dung bài học.
c. Năng lực hợp tác
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm để hoàn
thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng
nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người
khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức
học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành tích
học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân
và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm
việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương
trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực rất cần
thiết trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường, một
không gian rộng mở của quá trình hội nhập.
Trong khi dạy các tiết văn bản nhật dụng, năng lực hợp tác thể hiện ở việc
học sinh cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực
hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm,

cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt
ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh
cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách
của người học sinh trong bối cảnh mới.
d. Năng lực giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe,
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng
nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp
là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc
của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời
sống xã hội, trong từng bối cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định
trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Năng
lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự
7


hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết
trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực
giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang
tính đặc thù của môn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả
năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng Việt trong những bối cảnh giao
tiếp đa dạng của cuộc sống. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng
Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng
các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc
sống. Trong khi dạy các văn bản nhật dụng, sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực sẽ phát huy rất tốt năng lực này.
Ngoài ra, khi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực đối với các văn
bản nhật dụng trong chương trình THCS như dạy học dự án, thảo luận nhóm,

đóng vai, nghiên cứu tình huống sẽ phát huy được hai năng lực công cụ: năng lực
sử dụng ngôn ngữ và năng lực ứng dụng công nghệ thông tin.
5.2. Hệ thống văn bản nhật dụng trong chương trình THCS:
KHỐI STT
LỚP
6
1
2

7

8
9

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

TIẾT TÊN VĂN BẢN
PPCT
123

Cầu Long Biên - Chứng nhân lịch sử (Hướng dẫn đọc
thêm)
125, Bức thư của thủ lĩnh da đỏ
126
129
Động Phong Nha (Hướng dẫn đọc thêm)
1
Cổng trường mở ra
2
Mẹ tôi
5, 6
Cuộc chia tay của những con búp bê
113
Ca Huế trên sông Hương
39
Thông tin về ngày trái đất năm 2000
45
Ôn dịch thuốc lá
49
Bài toán dân số
1, 2
Phong cách Hồ Chí Minh
6, 7
Đấu tranh cho một thế giới hòa bình
11,
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và
12
phát triển của trẻ em
91,
Bàn về đọc sách

92

5.3. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực
học sinh qua các văn bản nhật dụng trong chương trình THCS.
a. Tính khả thi:
8


- Đặc trưng của văn bản nhật dụng trong chương trình THCS: Văn bản nhật
dụng có tính đặc thù, nói đến văn bản nhật dụng trước hết là nói đến tính chất nội
dung văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc
sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: thiên nhiên,
môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma túy,...mục tiêu cuối cùng cần đạt
được là người học phải thấy được tính chất đó của từng văn bản để từ đó có ý thức
cũng như đề ra cách thức hành động cụ thể mang tính tích cực sau khi học xong
một bài. Với loại văn bản này, chúng ta ít đi sâu, phân tích giá trị nghệ thuật của
văn bản. Chính tính đặc thù đó sẽ là lợi thế để sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực để phát triển năng lực học sinh qua các văn bản nhật dụng trong chương
trình THCS.
- Các điều kiện vật chất, trang thiết bị, đồ dùng được sử dụng:
+ Ở học sinh: Có nhiều gia đình học sinh có máy vi tính, có kết nối mạng, có
máy ảnh hoặc điện thoại di động có thể chụp hình, biết sử dụng khá thành thạo vi
tính.
+ Giáo viên: Đa số có máy vi tính hoặc máy tính xách tay, sử dụng thành
thạo những thao tác cần thiết cho việc soạn và trình chiếu các giáo án điện tử.
+ Trên lớp học: 100% lớp học có ti vi màn hình rộng, mạng không dây.
- Sự hứng thú của học sinh: Học sinh khá hứng thú với công nghệ thông tin,
hứng thú với việc thể hiện khả năng thực sự của mình trước tập thể.
- Khả năng hướng dẫn, định hướng, tổ chức của giáo viên: Giáo viên có tâm
huyết, có phương tiện, có tài liệu, có phương pháp,.. nên có khả năng thực hiện tốt

các tiết học theo phương pháp mới này.
b. Cách thức thực hiện:
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ văn,
việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực sẽ góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả, đồng thời phát triển năng lực người
học. Để phát triển năng lực cho học sinh, tôi chọn một số phương pháp dạy học
tích cực sau:
b.1. Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham
gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm.
Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được tự
do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết
vấn đề khó khăn. Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: nhóm nhỏ
9


(cặp đôi, cặp 3), nhóm trung bình (4 đến 6 người), nhóm lớn (8 đến 10 người trở
lên). Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu
nhiên hay cố định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học,
được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng
nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc, mỗi thành
viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và
năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra
trong không khí thi đua với các nhóm khác. Để trình bày kết quả làm việc của
nhóm, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày
một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm khá phức tạp.
Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, giáo viên

cần tiến hành theo các bước như sau:
- Bước giao nhiệm vụ:
+ Chuẩn bị đề tài, câu hỏi, hình thức trình bày, thời gian thảo luận.
+ Nội dung: thường là những câu hỏi, bài tập tương đối phức tạp cần huy
động sự suy nghĩ, chia sẻ của nhiều học sinh để tìm các giải quyết.
+ Phương tiện hỗ trợ: Phiếu học tập, bảng phụ,... tùy theo yêu cầu của nhiệm
vụ cần thực hiện.
- Thực hiện nhiệm vụ:
+ Chia nhóm.
+ Trong quá trình các nhóm thảo luận, giáo viên quan sát, hỗ trợ khi cần.
Yêu cầu khi thực hiện:
- Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn luận, được lắng nghe và
tôn trọng, tránh tranh cải căng thẳng hoặc người nói quá nhiều.
- Thời gian làm bài phải phù hợp với thực tế khả năng làm việc của học sinh
và yêu cầu của bài tập.
- Mọi học sinh đều tích cực làm việc.
- Trình bày kết quả:
+ Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận, các thành viên trong nhóm có
thể bổ sung thêm.
+ Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, đưa ý kiến thắc mắc cần giải đáp.
+ Giáo viên đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng...
Chú ý:
- Khi các nhóm thảo luận, giáo viên không dừng lại lâu ở nhóm nào.
- Khi các nhóm trình bày, nếu là chủ đề giống nhau, không cần các nhóm
đều trình bày, các nhóm sau có thể trình bày các ý kiến khác với các nhóm trước.
10


- Có thể cử một học sinh điều hành khi các nhóm báo cáo.
Ví dụ 1: Dạy bài “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” (Ngữ văn 6 - Tập 2), giáo

viên có thể cho học sinh thảo luận ở đoạn đầu của văn bản với những câu hỏi:
(1) Qua đoạn đầu của bức thư, chúng ta hiểu về mối quan hệ của đất với
người da đỏ là mối quan hệ như thế nào? Thủ lĩnh da đỏ đã dùng những nghệ
thuật nào để thể hiện điều đó?
(2) Em hãy chỉ ra sự lặp từ ngữ trong câu mở đầu. Tác dụng của sự lặp lại
đó trong cách diễn đạt.
Với câu hỏi này giáo viên nên cho học sinh thảo luận theo nhóm lớn hoặc
trung bình. Sau khi hết thời gian thảo luận, giáo viên mời đại diện các nhóm lên
trình bày, nhóm sau không cần lặp lại ý trùng lặp với nhóm trước, các em có thể bổ
sung những ý khác biệt hoặc đánh giá kết quả thảo luận của nhóm bạn. Cuối cùng,
giáo viên đúc kết và định hướng câu trả lời như sau:
(1) Qua đoạn đầu của bức thư, tác giả đã cho ta thấy mối quan hệ của đất với
người là mối quan hệ ruột thịt, gắn bó khắng khít và thiêng liêng. Người da đỏ coi
đất như mẹ “Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi”.
Thủ lĩnh da đỏ đã dùng hình ảnh nhân hóa: “bông hoa ngát hương là người chị
người em”; người da đỏ coi mỏm đá, vũng nước, chú ngựa đều là cùng gia đình.
Biện pháp so sánh cũng góp phần làm tăng tính chất gắn bó máu thịt. (Dòng
nước...là máu của tổ tiên, tiếng thì thầm ... là tiếng nói của cha ông).
(2) Sự lặp lại từ “mỗi” (tất đất, lá thông, bờ cát, hạt sương...) có tác dụng
nhấn mạnh ý nghĩa của đất đai đối với người da đỏ, sự gắn bó của người da đỏ với
đất đai là vô cùng bền chặt, sâu sắc. Dù các vật thể được nhắc đến với có kích
thước, vị trí khác nhau, nhưng chúng có điểm chung là đều rất thiêng liêng trong kí
ức của người da đỏ.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” của Mát- két
(Ngữ văn 9 - Tập 1), giáo viên có thể cho học sinh thảo luận khi phần cuối của văn
bản với câu hỏi như sau:
- Phần kết tác giả đưa ra lời đề nghị gì? Em hiểu ý nghĩa của đề nghị đó
như thế nào?Em nhận xét gì về thái độ, tấm lòng của tác giả?
Hình thức này không những tạo ra sự tương tác gần gũi giữa giáo viên với
học sinh, giữa học sinh với học sinh, phát huy năng lực hợp tác mà còn năng lực

giao tiếp.
Phương pháp thảo luận nhóm này có thể thực hiện trong mọi tiết dạy, qua
đó phát huy được năng lực hợp tác, sáng tạo, giao tiếp, giải quyết vấn đề, sử dụng
ngôn ngữ của học sinh.
Ngoài ra, phương pháp thảo luận nhóm không chỉ phù hợp vận dụng trên
lớp, còn có thể vận dụng cho nhóm học sinh khi thực hiện nhiệm vụ tự học ở nhà,
nhất là khi giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học tích cực khác như phương
pháp đóng vai, dạy học dự án.
b.2. Đóng vai
11


Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những
suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp giảng
dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ
đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em
quan sát được từ vai của mình.
Trong môn học Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một
số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học; chuyển thể
một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao tiếp giả
định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau,…
Giáo viên tiến hành tổ chức học sinh đống vai theo các bước cơ bản sau:
- Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu của nhiệm vụ; chia nhóm, giao tình huống
và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có qui định rõ thời gian chuẩn bị,
thời gian đóng vai cho mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai: phân vai, dàn cảnh, cách thể hiện
nhân vật, diễn thử.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Thảo luận, nhận xét: cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống
trong vở diễn, có thể mở rộng phạm vi thảo luận các vấn đề khái quát hơn hay vấn

đề vở diễn chứng minh.
- Giáo viên kết luận, giúp học sinh rút ra bài học cho bản thân.
Một số yêu cầu khi đóng vai:
- Tình huống đóng vai phải phù hợp yêu cầu giáo dục, phù hợp với lứa tuổi,
trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở, không cho trước lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tập
đóng vai để không lạc đề.
- Nên khích lệ những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
- Nếu có điều kiện thì có thêm hóa trang, đạo cụ để trò chơi hấp dẫn.
Ví dụ 1: Dạy bài “Thông tin ngày trái đất năm 2000” (Ngữ văn 8 - Tập 1),
giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho hai nhóm xây dựng hai tình huống:
Tình huống 1: Sau khi nhà trường thông báo cho học sinh tiến hành vệ sinh
lớp học và lao động tạo cảnh quan trường học, nhà trường còn ra hướng dẫn thu
gom rác thải cần phải phân loại thành 2 loại (loại phân hủy và loại không phân
hủy) và bỏ vào các thùng khác nhau, một nhóm bạn đã thắc mắc về yêu cầu này
với lớp trưởng.
Tình huống 2: Tối hôm nay, tổ đoàn kết tiến hành họp bàn về việc thực hiện
vệ sinh rác thải gia đình để công ti môi trường đến thu gom, mỗi tuần 1 lần, mỗi
12


tháng nộp 15.000 đồng/hộ gia đình. Nhiều cô chú đã có ý kiến phản đối. Bác tổ
trưởng phải thuyết phục mọi người về việc bảo vệ môi trường chung.
Giáo viên có thể chọn tình huống 1 để giới thiệu bài, tình huống 2 để khái
quát nội dung bài học.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” (Ngữ văn 9 Tập 1), giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị 1 đoạn kịch ngắn: Chạy đua vũ trang là
đi ngược lại lí trí.
- Giáo viên nêu trước chủ đề, hoàn cảnh cho tiểu phẩm: Trong cuộc họp vào

tháng 8/1986 của các nguyên thủ 6 nước, sau khi Mác-két đọc xong bài tham luận
của ông, trong giờ giải lao, các đại biểu ngồi lại thảo luận sôi nổi với nhau về ý
kiến mà nhà văn nêu ra: “Chạy đua vũ trang là đi ngược lại với lý trí”. Qua cuộc
thảo luận này, các đại biểu đã giúp mọi người hiểu rõ điều đó.
-Yêu cầu học sinh nghiên cứu đoạn “Một nhà tiểu thuyết … của nó” để hiểu
sâu sắc ý tác giả.
- Sau khi nhận đề tài, học sinh nghiên cứu văn bản, phân vai, nghiên cứu nội
dung cần làm rõ để có thể đóng vai thành công.
- Giáo viên sẵn sàng trợ giúp, giải quyết mọi thắc mắc của nhóm học sinh
nhận nhiệm vụ này.
Ví dụ 3: Khi dạy văn bản: “Cuộc chia tay của những con búp bê” (Ngữ văn
7 – Tập 1), giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh:
Tình huống 1: Em hãy đóng vai nhân vật Thành (hoặc Thủy), nói lên nỗi
lòng của mình vào đêm sau buổi chia tay.
Tình huống 2: Các em hãy tưởng tượng mình là hai con búp bê của hai anh
em Thành và Thủy, diễn lại cuộc chia tay của chúng.
Có thể thực hiện đồng thời 2 tình huống này vào cuối buổi học hoặc có thể
chọn 1 trong 2 tình huống này để khắc sâu thêm ý nghĩa của gia đình yên ổn.
Ví dụ 4: Khi dạy văn bản: “Ôn dịch thuốc lá” (Ngữ văn 8 – Tập 1), giáo viên
giao cho học sinh các tình huống để chuẩn bị:
Tình huống 1: Thứ Năm vừa rồi, bạn A đã có hành vi hút thuốc trong nhà vệ
sinh, Đội sao đỏ của trường bắt gặp, thầy Tổng phụ trách đã khiển trách, yêu cầu
viết bản kiểm điểm, đồng thời, thầy yêu cầu giáo viên chủ nhiệm giáo dục thêm và
quán triệt học sinh trong trường không được phép vi phạm nội qui này. Trong buổi
họp lớp, cả lớp đang thảo luận vấn đề này.
Tình huống 2: Trong một gia đình nọ có người bố nghiện thuốc lá nặng, gần
đây thường ho suốt đêm, da vàng sạm, mắt thâm đen; sau khi đi khám, bác sĩ bảo
là bị viêm phổi nặng, gan có dấu hiệu bị sơ và tổn thương và khuyên không được
hút thuốc lá. Về nhà, ông nội đã quyết định họp gia đình để giáo dục con cháu về
việc cấm hút thuốc.

13


Trong hai tình huống trên, các em thực hiện tình huống 1 để giới thiệu bài
học, tình huống 2 để tổng kết bài.
Phương pháp đóng vai có thể thực hiện trong nhiều tiết dạy đối với các văn
bản nhật dụng trong chương trình THCS. Phương pháp này phát huy rất nhiều các
năng lực của học sinh như năng lực giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt
là năng lực hợp tác, sáng tạo, giao tiếp (cả ở trường lẫn ở nhà).
b.3.Nghiên cứu tình huống
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một PPDH, trong đó trọng tâm của
quá trình dạy học là việc phân tích và giải quyết các vấn đề của một trường hợp
(tình huống) được lựa chọn trong thực tiễn. Với phương pháp này, học sinh tự lực
nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt ra,
hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Các tình huống được đưa ra là những
tình huống xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, tình huống đó đã gặp hoặc có thể gặp
hàng ngày. Những tình huống đó chứa đựng vấn đề cần giải quyết. Để giải quyết
các vấn đề đó đòi hỏi có những quyết định dựa trên cơ sở những giải pháp được
đưa ra để giải quyết. Trong nghiên cứu trường hợp, học sinh không phải ghi nhớ lý
thuyết mà quan trọng là vận dụng kiến thức đã học vào việc giải quyết những tình
huống cụ thể.
Trong môn học Ngữ văn, nghiên cứu tình huống thường được thực hiện
trong một số nội dung sau: phân tích một tình huống giao tiếp, tìm hiểu một văn
bản văn học tiêu biểu cho một kiểu loại, tìm hiểu một vấn đề thực tiễn cuộc sống…
Ví dụ1: Dạy bài “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” (Ngữ văn 6 - Tập 2), giáo
viên thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: GV nêu tình huống từ đầu bài học như sau: Có ý kiến cho rằng:
Môi trường có liên quan mật thiết đối với cuộc sống của con người. Nhưng lại có ý
kiến khác: Môi trường không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta. Ý kiến
của em như thế nào về vấn đề này?

Bước 2: Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm. Sau thảo luận, đại
diện các nhóm đưa ra ý kiến của mình để giải quyết tình huống nêu trên.
Giáo viên tiến hành thực nghiệm bằng việc tổ chức cho học sinh đi vào
nghiên cứu bài học theo từng phần của văn bản để rút ra kết luận sau:
Thiên nhiên là đất đai, khí hậu, sông suối, cây cỏ…, là không gian sống cho
con người và thế giới sinh vật, là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết
cho đời sống và sản xuất của con người, là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho
con người, đặc biệt nó bảo vệ cho con người và sinh vật khỏi những tác động từ
bên ngoài, nghĩa là nó có quan hệ gần gũi, mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đối
với cuộc sống của con người. Bảo vệ thiên nhiên chính là bảo vệ cho chính cuộc
sống của chúng ta.
Giáo viên tổ chức cho học sinh so sánh kết quả với dự đoán ban đầu để các
em nhận thức đúng đắn về vấn đề đã được nêu ở đầu bài học.
14


Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng: Từ kết luận trên, giáo viên cho học
sinh liên hệ về thái độ của bản thân các em và mọi người đối với môi trường xung
quanh, giáo dục cho các em tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.
Ví dụ 2: Dạy bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Ngữ văn 9 –tập 2),
giáo viên thực hiện các bước sau:
Bước 1: Giới thiệu bài: Kể câu chuyện nêu tình huống từ đầu bài học:
“NHÀ HIỀN TRIẾT QUA SÔNG
Có một nhà hiền triết muốn đi qua sông. Nhà hiền triết ngồi trên một con đò
và người lái đò đưa nhà hiền triết qua sông. Khi ngồi trên đò, nhà hiền triết hỏi
người lái đò: Ông có biết về thiên văn học không?
Người lái đò trả lời: Tôi không biết.
Nhà hiền triết lại hỏi: Thế ông có biết gì về địa chất học không?
Người lái đò trả lời: Tôi không biết.
Nhà hiền triết lại hỏi: Ông có biết gì về triết học không?

Người lái đò trả lời: Tôi không biết.
Nhà hiền triết nói: Thế là ông đánh mất nửa cuộc đời rồi!
Vừa lúc đó, gió thổi lên rất mạnh, sóng nổi lên dữ dội, thuyền chòng chành
rồi lật hẳn. Nhà hiền triết rơi xuống nước. Trong lúc đang chới với, tìm cách bám
víu, nhà hiền triết nghe người lái đò hỏi: Thế ông có biết bơi không?
Nhà hiền triết trả lời: Tôi không biết.
Người lái đò nói: Vậy là ông đánh mất cả cuộc đời rồi”.
Câu hỏi cho tình huống: Tại sao nhà hiền triết lại bảo người lái đò đánh mất
nửa cuộc đời? Tại sao người lái đò nói nhà hiền triết đã đánh mất cả cuộc đời?
Điều đó có đúng không? Làm thế nào để có cuộc sống trọn vẹn?
Bước 2: Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm. Sau thảo luận, đại
diện các nhóm đưa ra ý kiến của mình để giải quyết tình huống nêu trên.
Trên cơ sở ý kiến của học sinh, giáo viên có thể kết luận tạm thời: Muốn
sống tốt, mỗi người cần phải chuẩn bị cho mình đầy đủ tri thức về mặt lý thuyết,
đồng thời cũng phải có năng lực thực hành cần thiết. Để làm được điều đó, chúng
ta cần phải chuẩn bị tốt điều gì – Tác giả Vũ Khoan, với bài “Chuẩn bị hành trang
vào thế kỉ mới” sẽ một phần giải đáp cho các em.
Giáo viên tiến hành bằng việc tổ chức cho học sinh đi vào nghiên cứu bài
học theo từng phần của văn bản để rút ra kết luận sau:
Quan niệm của Phật giáo cho rằng chiến thắng ngàn quân không bằng chiến
thắng chính bản thân mình. Đúng vậy, con người biết vượt lên chính mình là vô
cùng quan trọng. Để có thể vượt lên chính mình, đứng vững trong cuộc sống, mỗi
15


chúng ta cần nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; từ đó rèn luyện những
thói quen tốt, hạn chế và loại bỏ dần các thói quen xấu để bản thân ngày càng hoàn
thiện. Và khi đó, ta có thể tránh được những điều đáng tiếc trong cuộc sống như 2
nhân vật trong câu chuyện phần đầu tiết học.
Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng: Từ kết luận trên, giáo viên cho học

sinh liên hệ bản thân các em về thái độ, hành động cần thiết ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường và cả trong tương lai. Qua đó giáo dục ý thức học tập, rèn
luyện đạo đức theo yêu cầu giáo dục đề ra.
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Mẹ tôi” (Ngữ văn 7 – Tập 1), giáo viên tiến hành các
bước sau:
Bước 1: Cho học sinh đọc văn bản: “ĐÔI CÁNH CỦA MẸ”
“Mẹ nói, khi mẹ đi đến một nơi khác ở rất xa, con hãy tưởng tượng những
chú chim bay trên khoảng trời xung quanh con chính là mẹ. Con sẽ không cảm
thấy cô đơn nữa.
Mẹ nói, đôi cánh của mẹ sẽ đưa con bay thật cao, thật xa. Mẹ sẽ bay cùng
con, mẹ sẽ bay với con đến cuối đời.
Mẹ nói, mẹ không thể bay theo con được nữa. Đôi cánh của mẹ từ giờ sẽ
trao lại cho con.
Đôi cánh của mẹ, chính là đôi cánh của con”.
Câu hỏi tình huống: Em hiểu gì về “Mẹ” qua văn bản trên?
Bước 2: Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm. Sau thảo luận, đại
diện các nhóm đưa ra ý kiến của mình để giải quyết tình huống nêu trên. Sau khi
tổng hợp ý kiến của học sinh, giáo viên đúc kết lại vấn đề: Mẹ là người vô cùng
quan trong đối với đời sống mỗi người. Tình mẹ rất thiêng liêng, cao cả. Qua văn
bản “Mẹ tôi” (A-mi-xi), tác giả sẽ giúp các em hiểu thêm về điều đó, đồng thời
hiểu được bổn phận của con cái đối với cha mẹ, gia đình.
Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng: Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo
viên cho học sinh liên hệ về thái độ và hành động của bản thân các em đối với cha
mẹ, người thân, gia đình. Qua đó giáo dục tình cảm yêu thương, trân trọng những
gì mình đang có.
Việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống tạo điều kiện cho việc xây
dựng gắn lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động sẽ tích cực hoá động cơ của
người học; huy động được sự làm việc cá nhân và sự cộng tác làm việc và thảo
luận trong nhóm. Trọng tâm của làm việc nhóm là quá trình giao tiếp xã hội và quá
trình cùng quyết định trong nhóm. Vì vậy tạo điều kiện phát triển các năng lực giao

tiếp và cộng tác làm việc.
b.4. Dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án là một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong
đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý
thuyết và thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự
lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach,
16


đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực
hiện.
Dạy học theo dự án là phương pháp học tập mang tính xây dựng, trong đó
học sinh hoàn toàn chủ động tham gia hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
để tạo ra một sản phẩm hay vận dụng các kiến thức đã học để tìm hiểu, thực hành
nghiên cứu một vấn đề trong học tập hay giải quyết một vấn đề trong cuộc sống.
Quá trình học theo dự án giúp người học củng cố kiến thức, xây dựng các kỹ năng
hợp tác, giao tiếp và học tập độc lập.
Quá trình thực hiện một dự án học tập diễn ra theo các bước cơ bản sau:
- Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án.
- Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện.
- Thực hiện dự án.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm.
- Đánh giá dự án.
Khi tiến hành dạy học dự án có thể sử dụng dạy học dự án cả văn bản: Toàn
bộ nội dung văn bản và thời gian dành cho bài học này đều tiến hành bằng các dự
án của học sinh, ví dụ: văn bản: "Bài toán dân số": 4 dự án cho toàn bộ bài học.
Ví dụ: khi dạy văn bản: “Bài toán dân số” (Ngữ văn 8 - Tập 1), giáo viên tổ
chức học sinh học tập theo hình thức dạy học dự án toàn văn bản như sau:
Tiết 49


BÀI TOÁN DÂN SỐ
NS:
( Thái An - Báo GD & Thời đại )
ND:
*Những kiến thức có liên quan: vấn đề môi trường, giáo dục, kinh tế, y tế,...
A. Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức:
- Sự hạn chế gia tăng dân số là con đường “ tồn tại hay không tồn tại”của loài
người.
- Sự chặt chẽ, khả năng thuyết phục của cách lập luận bắt đầu bằng một câu chuyện
nhẹ nhàng mà hấp dẫn.
2. Kĩ năng:
-Tích hợp với phần Tập làm văn, vận dụng kiến thức đã học ở bài phương pháp
thuyết minh để đọc - hiểu, nắm bắt được vấn đề có ý nghĩa thời sự trong văn bản.
- Vận dụng vào việc viết bài văn thuyết minh.
3. Thái độ: Vận động người thân, gia đình thực hiện tốt DSKHH gia đình.
4. Năng lực (NL): NL tự học, NL giải quyết vấn đề, NL sáng tạo, NL quản lí bản
thân, NL giao tiếp, NL hợp tác, NL sử dụng ngôn ngữ, NL cảm thụ thẩm mĩ.
5. Kỹ năng (KN) sống: KN kiểm soát cảm xúc; KN ứng phó với căng thẳng; KN tìm
17


kiếm sự hỗ trợ; KN thể hiện sự tự tin; KN giao tiếp; KN lắng nghe tích cực; KN
trình bày suy nghĩ, ý tưởng; KN cảm thông, chia sẻ; KN thương lượng; KN giải
quyết mâu thuẫn; KN hợp tác, KN tư duy phê phán; KN tư duy sáng tạo, KN ra
quyết định; KN giải quyết vấn đề; KN đảm nhận trách nhiệm; KN đặt mục tiêu; KN
quản lí thời gian; KN tìm kiếm và xử lí thông tin.
B. Chuẩn bị:
1. Giáo viên:
a. Thời gian chuẩn bị: Trước khi tiến hành dạy ít nhất 2 tuần.

b. Nội dung nghiên cứu:
- Nội dung bài học: SGK, SGV, sách bài tập Ngữ văn 8, tư liệu khoa học, thông tin
thời sự,...
- Xác định đề tài, tên dự án:
+ Thực trạng bùng nổ dân số ngày nay.
+ Tác hại của bùng nổ dân số đối với môi trường tự nhiên.
+ Tác hại của bùng nổ dân số đối với đời sống xã hội.
+ Biện pháp để hạn chế việc bùng nổ dân số - thực hiện KHHGĐ.
- Chia nhóm: 4 nhóm, mỗi nhóm 8 học sinh, ít nhất có 1 học sinh nhà có máy tính
(công bằng tỉ lệ học sinh giỏi, khá, trung bình)
- Các tài liệu có thể gợi ý học sinh nghiên cứu: SGK, sách báo, Báo GD và TĐ, nội
dung tuyên truyền về KHHGĐ ở trạm y tế xã,...
- Các địa chỉ trên mạng thông tin để gợi ý học sinh thực hiện dự án: hình ảnh về
mật độ dân số, dân số ở đô thị, ùn tắc giao thông, khan hiếm việc làm, rác thải,...
- Các cố vấn: Thầy cô giáo bộ môn Sinh học, Địa lý, Toán học, Tin học, GDCD,
cán bộ phụ nữ thôn, xã.
c. Cách thức theo dõi, hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh hoàn thành dự án:
- Gặp và hướng dẫn trực tiếp.
- Trao đổi qua điện thoại, email.
d. Tài liệu, phương tiện: SGK, SGV, sách bài tập Ngữ văn 8, tư liệu khoa học,
thông tin thời sự, máy tính, máy chiếu, USP,...
b. Nội dung, định hướng hướng dẫn học sinh thực hiện dự án:
- Dự án 1: Thực trạng bùng nổ dân số ngày nay.
- Dự án 2: Tác hại của bùng nổ dân số đối với môi trường sống (chủ yếu nói về
môi trường tự nhiên)
- Dự án 3: Tác hại của bùng nổ dân số đối với đời sống xã hội, với từng gia đình.
- Dự án 4: Biện pháp để hạn chế việc bùng nổ dân số - thực hiện kế hoạch hóa gia
đình (KHHGĐ).
* Các câu hỏi định hướng cho học sinh để nghiên cứu, tiến hành dự án:
- Dự án 1: Thực trạng bùng nổ dân số ngày nay.

1/ Trong văn bản "Bài toán dân số", tác giả nêu nội dung chính là gì?
18


2/ Bài toán nào được nêu ra, thời điểm nêu ra của bài toán, tính thực tế của
bài toán?
3/ Phân tích suy luận của tác giả từ bài toán đến vấn đề dân số, từ thời khai
thiên lập địa đến thời điểm hiện tại và tương lai.
4/ Tổng dân số thế giới hiện tại.
5/ Số dân ở những nước đông dân nhất thế giới.
6/ Tổng dân số của Việt Nam ở hiện tại.
7/ Tốc độ gia tăng dân số của Việt Nam sau chiến tranh (1975) đến nay.
8/ Nguyên nhân nào khiến dân số tăng nhanh? (Gợi ý: tỉ lệ sinh con của phụ
nữ các nước, trình độ y học, trình độ khoa học hiện tại và tương lai, tuổi thọ con
người trong thời điểm hiện tại, khả năng sống và phát triến của trẻ sơ sinh, ý thức
về tính mạng của con người trong xã hội văn minh,...)
9/ Bên cạnh những nguyên nhân trên, đối với Việt Nam, có những nguyên
nhân nào khiến sự gia tăng dân số nhiều hơn nữa?
10/ Quảng Nam/ Đại Lộc/ Đại Hồng có mức độ gia tăng dân số như thế nào?
11/ Ở hàng xóm em, tỉ lệ người sinh con thứ 3 nhiều hay ít?
12/ Trong lớp em, tỉ lệ các bạn có số anh chị em từ 3 người trở lên là bao
nhiêu?
13/ Mọi người phải có thái độ, hành động như thế nào với hiện thực trên?
- Dự án 2: Tác hại của bùng nổ dân số đối với môi trường sống (chủ yếu nói về
môi trường tự nhiên)
1/ Trong văn bản "Bài toán dân số", tác giả nêu nội dung chính là gì?
2/ Từ bài toán dân số, tác giả đưa ra đề xuất nào? Vì sao?
3/ Dân số tăng nhanh đã có những ảnh hưởng nào đến môi trường sống (chủ
yếu nói về môi trường tự nhiên)
- Môi trường nước (nước sạch, nước sinh hoạt, nước canh tác, nước làm thủy

điện, nước thải nhà máy không qua xử lý, nước biển, nước ngọt,...)
- Môi trường đất (đất canh tác/đất làm nhà ở, diện tích đô thị/ nông thôn;
diện tích đất rừng, đất xây dựng nhà máy, xí nghiệp để phục vụ nhu cầu của con
người, đất bị hủy hoại do lượng người đông không có ý thức bảo vệ, ...)
- Môi trường không khí (lượng khí thải do các phương tiện giao thông thải
ra, do các nhà máy xí nghiệp thải ra,...)
- Thực, động vật (gỗ ở rừng đầu nguồn, núi đồi, cây lương thực, gia súc, gia
cầm, động vật hoang dã... để phục vụ dân số đông)
4/ Môi trường tự nhiên bị ô nhiễm gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe
con người: nhiều bệnh lạ, dịch bệnh lan tràn (đến cả động vật), khó chữa trị gây
chết người hàng loạt,...ảnh hưởng như thế nào đến tinh thần, tâm lý của chúng ta?
5/ Môi trường bị ô nhiễm tốn kém những gì mới có thể cải tạo, phục hồi? Từ
đó mất đi cơ hội gì để cải thiện đời sống?
19


6/ Quảng Nam/ Đại Lộc/ Đại Hồng có bị ảnh hưởng gì do dân số tăng nhanh
(chủ yếu là môi trường tự nhiên)? Có đầu tư gì cho việc cải tạo, gìn giữ môi
trường? Có ảnh hưởng gì đến cơ hội phát triển đời sống nhân dân?
7/ Mọi người phải có thái độ, hành động như thế nào với hiện thực trên?
- Dự án 3: Tác hại của bùng nổ dân số đối với đời sống xã hội, từng gia đình.
1/ Trong văn bản "Bài toán dân số", tác giả nêu nội dung chính là gì?
2/ Từ bài toán dân số, tác giả đưa ra đề xuất nào? Vì sao?
3/ Dân số tăng nhanh đã có những ảnh hưởng nào đến đời sống xã hội, gia
đình:
- Lượng lương thực, thực phẩm cần cho dân số đông? (Con người đã có
hành động nào để đối phó và hậu quả?)
- Lượng đồ dùng sinh hoạt cần cho dân số đông? (Con người đã làm gì để
phục vụ và hậu quả của nó)
- Dân số đông có ảnh hưởng như thế nào đối với giáo dục, y tế, văn hóa?

- Dân số đông ảnh hưởng như thế nào đối với tạo công ăn việc làm?
- Dân số đông ảnh hưởng như thế nào đối với giữ gìn an ninh trật tự xã hội?
- Dân số đông ảnh hưởng như thế nào đối với vấn đề an sinh xã hội (xây
dựng cuộc sống tốt đẹp cho tất cả mọi người)
- Ảnh hưởng của dân số đông đối với phát triển kinh tế của quốc gia, cộng
đồng như thế nào?
- Dân số đông có liên quan gì đến chiến tranh, dịch bệnh?
- Dân số đông có liên quan gì đến nghiên cứu khoa học (tìm vùng đất mới,
lương thực, thực phẩm mới)?
4/ Gia đình có con đông sẽ có những hậu quả không mong muốn nào? (Kinh
tế, giáo dục, giữ gìn nề nếp gia đình, niềm vui của từng thành viên, cơ hội để đầy
đủ về vật chất, cơ hội để thoải mái về mặt tinh thần, ...Ví dụ: bữa ăn, công việc,
thời gian nghỉ ngơi, thời gian điều kiện vui chơi, điều kiện ăn học, điều kiện thỏa
mãn ước mơ, sở thích,...)
5/ Gia đình là tế bào của xã hội, nếu gia đình không thể ổn định, các thành
viên trong gia đình không có điều kiện phát triển,.. thì xã hội sẽ ra sao?
6/ Mọi người phải có thái độ, hành động như thế nào với hiện thực trên?
- Dự án 4: Biện pháp để hạn chế việc bùng nổ dân số - thực hiện KHHGĐ.
1/ Trong văn bản "Bài toán dân số", tác giả nêu nội dung chính là gì?
2/ Từ bài toán dân số, tác giả đưa ra đề xuất nào? Vì sao?
3/ Ta có những biện pháp nào để hạn chế việc bùng nổ dân số, thực hiện
KHHGĐ? (Thế giới, các nhà khoa học, mỗi quốc gia, Nhà nước ta, chính quyền
địa phương, người làm công tác tuyên truyền, người làm công tác giáo dục, cá
nhân từng người (nhất là người trưởng thành), bản thân học sinh khi tìm hiểu về
vấn đề này (hiện tại phải làm gì? Tương lai phải làm được như thế nào cho bản
20


thân, gia đình, xã hội?)
* Định hướng hướng tìm tư liệu, cách thu thập thông tin, cách tiến hành dự án:

- Dùng máy ảnh chụp ảnh, sưu tầm hình ảnh có liên quan đến dự án.
- Lên mạng internet tìm hình ảnh có liên quan đến dự án.
- Lên mạng tìm các clip về các vấn đề liên quan.
- Tìm những bài hát có tác dụng tuyên truyền về vấn đề dân số.
- Tìm thông tin về tác hại của bùng nổ dân số gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe, kinh tế, cuộc sống của con người (có thể nghe thời sự, đọc tư liệu trên
sách, báo, tạp chí, tài liệu khoa học ở trường hoặc trực tiếp hỏi các giáo viên như
giáo viên Sinh học, Địa lý, GDCD,...)
- Học hỏi cách liên kết hình ảnh, tải clip, trình chiếu hình ảnh, clip...(giáo
viên Tin học).
- Học hỏi cách thức trình bày một dự án bằng văn bản (giáo viên hướng dẫn
thực hiện dự án).
2. Học sinh:
- Học sinh chia nhóm, phân công nhóm trưởng, nhóm phó,...
- Nhóm trưởng phân công công việc cụ thể cho từng thành viên, yêu cầu giới hạn
thời gian hoàn thành công việc được giao.
- Tài liệu, phương tiện: SGK, SGV, sách bài tập Ngữ văn 8, tư liệu khoa học, thông
tin thời sự, máy tính, máy chụp ảnh, USP, ...
- Nhận nội dung, định hướng từ giáo viên, học sinh thực hiện dự án.
- Chụp và sưu tầm tranh ảnh về vấn đề dân số và các vấn đề có liên quan, các clip
về nạn đói, thất nghiệp, thất học, ô nhiễm môi trường hiện nay, các hình ảnh thể
hiện việc làm cụ thể để tuyên truyền vấn đề KHHGĐ.
- Tham khảo ý kiến của các cố vấn: Thầy cô giáo bộ môn Sinh học, Địa lý, Toán
học, Tin học, GDCD, cán bộ phụ nữ thôn, xã,...
- Thực hiện dự án trên máy tính để trình chiếu.
- Thực hành hoàn thành dự án bằng văn bản.
- Nhóm trưởng thường xuyên báo các về kết quả việc tiến hành dự án, đưa ra thắc
mắc, đề xuất ý kiến để giáo viên hỗ trợ.
III. Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ: (không kiểm tra)
3. Bài mới:
Hoạt động 1: Giới thiệu tiết học “Dạy- học theo dự án”.
Hôm nay, lớp ta sẽ tìm hiểu bài “Bài toán dân số” theo phương pháp mới là
dạy - học theo dự án.
Hoạt động 2: Tìm hiểu sơ lược yêu cầu bài học
- Giáo viên giới thiệu sơ lược tác giả, tác phẩm.
21


- Đọc văn bản.
- Nêu nội dung chính cần tìm hiểu từ văn bản: Đó là bài viết có nội dung gần
gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã
hội hiện đại. Vậy vấn đề cần nghiên cứu của văn bản này là gì? Mục tiêu cuối
cùng cần đạt được sau khi học bài này là gì? Đó cũng là những nội dung dự án
mà các nhóm nghiên cứu, tiến hành và hôm nay trình bày trước tập thể.
+ Giáo viên ghi lại tên các dự án lên bảng
Hoạt động 3: Xin mời các nhóm lên giới thiệu về mình.
- Lần lượt các nhóm giới thiệu về nhóm mình:
+ Tên nhóm.
+ Thành viên trong nhóm.
+ Giải thích lý do có tên gọi của nhóm và lý do chọn đề tài dự án.
Hoạt động 4: Lần lượt các nhóm lên trình bày dự án.
1. Nhóm 1:
- Báo cáo sản phẩm.
- Tự đánh giá kết quả nghiên cứu.
- Mời các nhóm nhận xét, đánh giá về kết quả nghiên cứu của nhóm mình.
- Mời GVBM nhận xét đánh giá kết quả hoạt động của nhóm.
* GVBM kết luận khái quát về kiến thức bài học.
2. Nhóm 2:

- Báo cáo sản phẩm.
- Tự đánh giá kết quả nghiên cứu.
- Mời các nhóm nhận xét, đánh giá về kết quả nghiên cứu của nhóm mình.
- Mời GVBM nhận xét đánh giá kết quả hoạt động của nhóm.
* GVBM kết luận khái quát về kiến thức bài học.
3. Nhóm 3:
- Báo cáo sản phẩm.
- Tự đánh giá kết quả nghiên cứu.
- Mời các nhóm nhận xét, đánh giá về kết quả nghiên cứu của nhóm mình.
- Mời GVBM nhận xét đánh giá kết quả hoạt động của nhóm.
* GVBM kết luận khái quát về kiến thức bài học.
3. Nhóm 4:
- Báo cáo sản phẩm.
- Tự đánh giá kết quả nghiên cứu.
- Mời các nhóm nhận xét, đánh giá về kết quả nghiên cứu của nhóm mình.
- Mời GVBM nhận xét đánh giá kết quả hoạt động của nhóm.
* GVBM kết luận khái quát về kiến thức bài học.
Hoạt động 4: Giáo viên tổng kết, đánh giá việc thực hiện dự án của các nhóm
học sinh, kết luận chung về bài học.
22


- GVBM tuyên dương sự chuẩn bị của nhóm học sinh chuẩn bị chu đáo, có nội
dung hay, dự án hấp dẫn, có tính giáo dục, có tính thực tiễn, tuyên dương tinh
thần tích cực trong học tập…..
- Đánh giá tính thực tiễn, giá trị của từng dự án.
- Khẳng định lại nội dung cơ bản của bài học (theo nội dung trong sách giáo
khoa).
*Dặn dò: Chuẩn bị bài học sau, tự rút kinh nghiệm về việc thực hiện dự án lần
này để lần sau đạt hiệu quả.

Có khi kết hợp dạy học thông thường với dạy học dự án, có thể chỉ tiến hành
thực hiện dự án với một phần nội dung của bài học và cũng chỉ chiếm một phần
thời gian của bài học. Ví dụ: Khi dạy văn bản: “Đấu tranh cho một thế giới hòa
bình” (Ngữ văn 9 - Tập 1), giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện 1 dự án : Cuộc
chạy đua vũ trang chuẩn bị cho CTHN đã làm mất đi khả năng để con người
sống tốt đẹp hơn
Để học sinh thực hiện tốt dự án, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị:
- Học sinh nghiên cứu kỹ phần 2, đoạn “Từ năm 1981 …thế giới”, dựa trên
các câu hỏi gợi ý của giáo viên (giao trước để học sinh nghiên cứu):
+ Sự tốn kém và tính chất vô lí của cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân được tác
giả chỉ ra bằng những chứng cứ nào?
+ Những biểu hiện của cuộc sống được tác giả đề cập đến những lĩnh vực
nào? Chi phí được so sánh với chi phí vũ khí hạt nhân như thế nào?
+ Em có đồng ý với nhận xét của tác giả: Việc bảo tồn sự sống trên trái đất ít
tốn kém hơn là “dịch hạch hạt nhân”? Vì sao?
+ Em có nhận xét gì về những lĩnh vực cuộc sống tác giả chọn để so sánh?
Sự so sánh này có ý nghĩa gì?
+ Cách lập luận của tác giả có gì đáng chú ý?
- Gợi ý, hướng dẫn học sinh nghiên cứu, trình bày dự án:
+ Tìm trên mạng thông tin, hình ảnh về các loại vũ khí mà tác giả nói đến.
+ Tìm thông tin, hình ảnh về sự phá hủy của bom nguyên tử, đạn hạt nhân.
Sau khi giao nhiệm vụ, nhóm phân công thực hiện dự án theo kế hoạch. Đến
tiết học, các nhóm lên báo cáo, tự đánh giá kết quả nghiên cứu; các nhóm khác
nhận xét; giáo viên nhận xét và rút ra kết luận khái quát về kiến thức bài học.
Khi tiến hành phương pháp dạy học này, giáo viên cần chú ý: Học sinh cấp
THCS (từ khối 6 đến khối 9) có trình độ, năng lực khác nhau, phát triển từ thấp
23


đến cao, nên giáo viên phải nghiên cứu đến đặc điểm này để có thể vận dụng

phương pháp dạy học hiệu quả.
Đối với học sinh khối 6: Các em mới bước vào cấp học mới, bắt đầu làm
quen với nhiều phương pháp học mới của rất nhiều môn học, thêm việc học theo
phương pháp dạy học dự án - một phương pháp yêu cầu khá cao đối với người học
– các em sẽ gặp khá nhiều khó khăn. Tuy vậy, nhờ việc sắp xếp hợp lý của phân
phối chương trình cũng như sách giáo khoa, các văn bản nhật dụng đều nằm ở gần
cuối học kỳ II, nên việc thực hiện dạy học dự án dễ dàng hơn. Nhưng để vận dụng
tốt phương pháp dạy học tích cực này hiệu quả cho cả khối THCS, ngay từ lớp 6
giáo viên đã chú ý hướng dẫn, rèn luyện phương pháp học này cho các em. Ở khối
lớp này, giáo viên chủ yếu là giúp các em làm quen với dạy học dự án, nội dung
một dự án, cách thức thực hiện một dự án và bước đầu thực hiện một vài dự án mà
các em có khả năng tiến hành. Cụ thể như sau:
+ Tiết 123: Văn bản “Cầu long biên – chứng nhân lịch sử”: dạy học theo
phương pháp thông thường của phân môn văn học. Giáo viên cố gắng dạy một
cách ngắn gọn nhất nội dung văn bản trong 35 phút đầu. Còn 10 phút cuối, giáo
viên dành để giới thiệu cho các em về phương pháp dạy học dự án. Cho các em
tham khảo một dự án giáo viên đã thực hiện với cả 2 hình thức: dự án bằng văn
bản và bằng một đoạn bài trình chiếu “Cầu Long Biên – Cầu nối của trái tim”.
Trong dự án này, giáo viên cho học sinh thấy được quá trình lịch sử của cầu gắn
liền với lịch sử đất nước trong các thời kỳ: thời thuộc Pháp, thời kì kháng chiến
chống Pháp, thời kì kháng chiến chống Mỹ, trong cuộc sống đời thường. Phần dặn
dò, giáo viên gới thiệu văn bản nhật dụng tiếp theo là bài “Bức thư của thủ lĩnh da
đỏ”, hướng dẫn một vài nhóm học sinh (các em tự nguyện, có năng lực, có điều
kiện) thực hiện một vài dự án đối với bài học. Giáo viên có thể gợi ý tên dự án (1.
Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta; 2. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của mỗi
người,…) để học sinh lựa chọn thực hiện. Sau buổi học, giáo viên có thể hỗ trợ các
em về mọi mặt để các em hoàn thành dự án.
+ Tiết 125, 126: văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”: thực hiện dạy tiết 1
nội dung văn bản theo đặc trưng bộ môn. Tiết 2 dành thời gian để nhóm học sinh
trình bày các dự án. Sau khi các em trình bày theo yêu cầu của dạy học dự án, thầy

và trò cùng thảo luận rút kinh nghiệm về việc thực hiện các dự án của các em.
Dành 10 phút còn lại để hướng dẫn cho tiết học văn bản nhật dụng tiếp theo:
“Động Phong Nha”. Với văn bản này, giáo viên chú ý mở rộng đối tượng học sinh
thực hiện dự án, mỗi em ở nhóm thực hiện dự án ở tiết 126 sẽ là nhóm trưởng của
các dự án ở bài này. Có thể có nhiều nhóm thực hiện cùng một dự án để có thể so
sánh, nhận xét, đánh giá khả năng thực hiện của các em. Dự án có thể thực hiện:
24


“Động Phong Nha – điểm đến của mọi du khách”, “Động Phong Nha – Niềm tự
hào của người Việt”, “Bảo vệ danh lam thắng cảnh là nhiệm vụ của mọi người”,…
+ Tiết 129: văn bản “Động Phong Nha”: giáo viên cho các em trình bày dự
án và đánh giá kết quả thực hiện trước, sau đó tìm hiểu thêm nội dung bài học để
rút ra ý nghĩa khái quát. Cuối cùng, nhắc nhở học sinh rèn luyện phương pháp học
tập này để vận dụng hiệu quả cho các khối lớp 7, 8, 9.
- Đối với học sinh khối 7: Các em đã làm quen với phương pháp dạy học dự
án ở lớp 6 nên giáo viên chỉ cần gợi ý cho các em việc thực hiện dự án ở các văn
bản nhật dụng. Nhưng các văn bản nhật dụng này đa số đều được sắp xếp ngay đầu
năm học (tuần 1,2; tiết 1,2,5,6) nên không có thời gian nhiều để các em có thể thực
hiện và hoàn thành tốt dự án. Có thể, sau khi học cả 3 văn bản (“Cổng trường mở
ra”, “Mẹ tôi”, “Cuộc chia tay của những con búp bê”), giáo viên khuyến khích cho
các nhóm học sinh tích cực thực hiện 1 số dự án và trình bày vào 15 phút cuối tiết
6 theo phân phối chương trình. Các dự án có thể tham khảo: 1. Sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta về giáo dục; 2. Gia đình bình yên là bến bờ hạnh phúc; 3.
Mẹ yêu; 4. Em sẽ là con ngoan, trò giỏi;… (Để cho học sinh có thời gian thực hiện
dự án, giáo viên có thể chuyển tiết học 5,6 vào cuối tuần 2 hoặc đầu tuần 3 theo
thời khóa biểu sao cho phù hợp)
+ Tiết 113: văn bản “Ca Huế trên sông Hương”: Giáo viên có thể cho học
sinh thực hiện dự án và trình bày ở giữa và cuối tiết học. Nội dung văn bản giáo
viên giúp học sinh nắm được khái quát nội dung cũng như nghệ thuật tiêu biểu. Từ

phần khái quát kết hợp với các dự án các em đã thực hiện, học sinh có thể thấy
được giá trị của văn hóa dân tộc, có thái độ gìn giữ, phát huy giá trị tốt đẹp ấy.
- Đối với học sinh khối 8: khi bước vào lớp 8 các em đã có những kỹ năng
cần thiết từ lớp 6 và 7, đã có đủ năng lực để thực hiện dự án một cách khá thành
thục và hiệu quả. Các văn bản ở lớp 8 lại nằm giữa học kỳ I, liên tiếp nhau, điều
này khá thuận lợi để thực hiện phương pháp dạy học này. Có thể giao nhiệm vụ và
hướng dẫn học sinh nghiên cứu từ 2 tuần trước tiết 39, phân chia nhóm học sinh
theo từng bài để giảm áp lực cho các em tùy theo sự tính toán của giáo viên sao
cho hợp lý.
- Đối với học sinh khối 9: Tiết 1, 2: văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh” ở
ngay đầu năm học nên các em sẽ không có thời gian để thực hiện dự án. Với văn
bản này, giáo viên có thể trình bày một dự án mà mình đã chuẩn bị để củng cố cho
học sinh những tri thức, kỹ năng cần thiết để các em chuẩn bị thực hiện một số dự
án của các tiết học sau. Cuối tiết học, chuẩn bị và giao nhiệm vụ cho học sinh thực
hiện dự án cho 2 bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” và “ Tuyên bố thế gới
25


×