Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP ðạo ðức tư PHÁP và NHỮNG ẢNH HƯỞNG của ðạo ðức tư PHÁP ðến QUÁ TRÌNH tố TỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.8 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ÐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----š&›----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 28 (2002 – 2006)

ÐẠO ÐỨC TƯ PHÁP VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA
ÐẠO ÐỨC TƯ PHÁP ÐẾN QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

GV: MẠC GIÁNG CHÂU

NGUYỄN THỊ CẨM THÚY

Bộ môn: Luật Tư Pháp

MSSV: 5024287
Lớp: Luật Tư Pháp

Cần Thơ, tháng 7/2006


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................................................. 4
1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN ...................................... 4
1.1. Một số khái niệm liên quan ........................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm đạo đức................................................................................ 4
1.1.2. Khái niệm đạo đức Thẩm phán ............................................................. 9
a) Khái niệm Thẩm phán ............................................................................. 9
b) Khái niệm đạo đức Thẩm phán................................................................ 10
1.2. Đặc điểm của vấn đề đạo đức Thẩm phán và các yếu tố cấu thành đạo đức
Thẩm phán ............................................................................................................... 11
1.2.1. Đặc điểm của vấn đề đạo đức Thẩm phán ............................................. 11
a) Đạo đức Thẩm phán là một bộ phận cấu thành của phạm trù đạo đức .... 11
b) Đạo đức Thẩm phán có tính độc lập tương đối....................................... 13
1.2.2. Các yếu tố cấu thành đạo đức Thẩm phán ............................................. 14
a) Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao ...................................................... 14
b) Bản lĩnh nghề nghiệp............................................................................. 14
c) Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp............................... 15
d) Những phẩm chất đạo đức cần có theo nghĩa thông thường đối với một
công dân trong xã hội ............................................................................................... 15
1.3. Các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán ......................................... 15
1.3.1. Một số vấn đề về mô hình nhân cách Thẩm phán.................................. 15
1.3.2. Các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán.................................. 17
a) Phẩm chất chính trị tư tưởng ................................................................. 17
b) Phẩm chất đạo đức................................................................................ 18
c) Phẩm chất ý chí..................................................................................... 19
d) Phẩm chất về năng lực hoạt động xét xử ............................................... 20
e) Phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với người tiến hành tố
tụng khác và người tham gia tố tụng......................................................................... 21
2. NHỮNG PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH

XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ .......................................................................... 22
2.1. Tính công bằng............................................................................................. 22
2.2. Sự vô tư, khách quan .................................................................................... 22
2.3. Lương tâm nghề nghiệp................................................................................ 23
2.4. Tính nhân đạo............................................................................................... 24

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẠO ĐỨC THẨM
PHÁN VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN TRONG QUÁ TRÌNH TỐ
TỤNG ...................................................................................................................... 25
1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN ....... 25
1.1. Thẩm phán trong pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.................... 25
1.1.1. Những quy định chung về Thẩm phán .................................................. 25
a) Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............................ 25
b) Nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân.................................................... 27
1.1.2. Tiêu chuẩn đạo đức Thẩm phán ............................................................ 28
a) Năng lực xét xử..................................................................................... 28
b) Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết
bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa ............................................................................ 29
1.1.3. Nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán .................................................... 29
a) Nhiệm vụ, quyền hạn ........................................................................... 29
b) Những việc Thẩm phán không được làm............................................... 31
1.2. Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình ..................................................... 33

1.2.1. Biểu hiện của đạo đức Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình ........... 33
a) Đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa ..................................................... 33
b) Đảm bảo xác định sự thật khách quan ................................................... 34
c) Đảm bảo sự vô tư.................................................................................. 34
d) Đảm bảo công bằng xã hội.................................................................... 35
e) Đảm bảo dân chủ, công khai ................................................................. 36
1.2.2. Vị trí của Thẩm phán trong mối quan hệ với người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng ............................................................................................. 37
a) Thẩm phán trong mối quan hệ với người tiến hành tố tụng.................... 37
b) Thẩm phán trong mối quan hệ với người tham gia tố tụng .................... 40
2. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN TRONG QUÁ TRÌNH TỐ
TỤNG...................................................................................................................... 41
2.1. Chuẩn bị xét xử ........................................................................................... 42
2.2. Xét xử tại phiên toà ..................................................................................... 42
2.2.1. Khai mạc phiên toà ............................................................................... 43
2.2.2. Xét hỏi tại phiên toà.............................................................................. 43
2.2.3. Theo dõi phần tranh luận tại phiên toà ................................................. 44
2.2.4. Tham gia nghị án .................................................................................. 44
2.3. Khi phiên toà kết thúc.................................................................................. 45

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

CHƯƠNG 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN ĐẾN QUÁ
TRÌNH TỐ TỤNG. MỘT SỐ Ý KIẾN LIÊN QUAN............................................... 47
1. MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN HIỆN

NAY ........................................................................................................................ 47
1.1. Một số vấn đề lý luận.................................................................................. 47
1.2. Một số vấn đề thực tiễn............................................................................... 48
2. NGUYÊN NHÂN................................................................................................. 50
2.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................................. 50
2.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................. 51
3. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN ĐẾN QUÁ TRÌNH TỐ
TỤNG ...................................................................................................................... 52
3.1. Ảnh hưởng tích cực ..................................................................................... 52
3.2. Những hạn chế của đạo đức Thẩm phán ...................................................... 54
4. MỘT SỐ Ý KIẾN LIÊN QUAN ......................................................................... 60
4.1. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán phải trên cơ sở hoàn thiện đầy đủ hệ thống
pháp luật ................................................................................................................... 61
4.2. Cần xây dựng một quy chế đạo đức Thẩm phán .......................................... 62
4.2.1. Sự cần thiết ban hành quy chế đạo đức Thẩm phán............................... 62
4.2.2. Cơ sở xây dựng đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán................................. 63
a) Phát huy truyền thống tốt đẹp về đạo đức của con người Việt Nam....... 63
b) Phù hợp với điều kiện hoạt động của nghề Thẩm phán ......................... 64
c) Phù hợp với thông lệ Quốc tế về nghề Thẩm phán ................................ 64
4.3. Về công tác quản lý Thẩm phán................................................................... 64
4.4. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán đương nhiệm ..... 65
4.5. Về chế độ tiền lương, chính sách đối với Thẩm phán................................... 66
4.6. Bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán................................................ 67
KẾT LUẬN

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật


GVHD: Mạc Giáng Châu

LỜI NÓI ÐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đang có xu hướng trở thành quy luật của mọi
Nhà nước. Nói đến Nhà nước Pháp quyền là nói đến sự đề cao vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Sự đề cao vai trò của
pháp luật luôn gắn với vai trò của hoạt động tư pháp. Hay nói cách khác, hiệu quả,
hiệu lực của tư pháp là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ thành
công của việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Vì tư pháp có vai trò đảm bảo thực
hiện tất cả các đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền ở mức độ này hay mức độ khác.
Sau Ðại hội lần thứ VI năm 1986, nước ta bước vào thời kỳ chuyển biến rất
phức tạp. Từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Mọi mặt trong đời sống xã hội bắt đầu khởi sắc và phát triển. Bên cạnh những
ưu điểm, một số khuyết điểm của nền kinh tế thị trường cũng dần bộc lộ: khoảng cách
giàu nghèo ngày càng tăng, thất nghiệp… kéo theo đó là các tiêu cực xã hội đặc biệt là
tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và sự giảm sút các giá trị đạo đức của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, Ðảng viên và nhân dân. Từ đó, vấn đề đặt ra cho Ðảng và Nhà
nước ta là muốn xây dựng một Nhà nước Pháp quyền trong sạch, vững mạnh thì phải
nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, từng bước nâng cao chất lượng của các cơ
quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan tư pháp. Bởi vì, hoạt động của các cơ quan tư
pháp không những liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà
còn liên quan đến hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Do đó, đối với cán bộ
tư pháp không chỉ đòi hỏi về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ mà còn đặt ra yêu cầu
cao về đạo đức.
Mặt khác, trong thời gian gần đây đã xuất hiện rất nhiều tiêu cực trong đội ngũ
cán bộ tư pháp, có những cán bộ vì chạy theo lợi ích vật chất mà quên mất vai trò, sứ
mệnh của mình đối với Nhà nước, với nhân dân. Một số khác thì lại vi phạm pháp luật:
sách nhiễu, hối lộ, tham ô, thiếu trách nhiệm… thêm vào đó, một số cán bộ không

nhận thức rõ đâu là việc mình được làm hoặc không được làm dưới góc độ đạo đức
nghề nghiệp. Ðây là những vấn đề rất bức xúc và được dư luận quan tâm hiện nay.
Hơn nữa, các văn bản pháp luật hiện hành chưa có một văn bản nào hoàn chỉnh, thống
nhất quy định những vấn đề cụ thể liên quan đến đạo đức của cán bộ tư pháp. Ðiều đó
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của hoạt động tư pháp, đặc biệt là trong hoạt động tố
tụng. Vì người được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng có đạo đức nghề nghiệp trong
sáng, liêm khiết thì kết quả của quá trình tố tụng là một quyết định, một bản án chính
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 1


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

xác, khách quan, ngược lại thì sẽ gây ra oan sai ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
Nhà nước, công dân và xã hội.
Từ những vấn đề bức thiết trên, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài: “Ðạo đức
tư pháp và những ảnh hưởng của đạo đức tư pháp đến quá trình tố tụng” để làm luận
văn tốt nghiệp Cử nhân Luật của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Ðạo đức tư pháp là một chế định rộng, bao quát nhiều vấn đề liên quan đến toàn
bộ hệ thống các cơ quan tư pháp, một bộ phận của bộ máy Nhà nước: Tòa án, Viện
kiểm sát… trong đó cán bộ tư pháp là: Kiểm sát viên, Ðiều tra viên, Thẩm phán…
Chuẩn mực đạo đức chung cho tất cả các chức danh tư pháp đối với những đặc thù
riêng là vấn đề rất phức tạp và phải được đi sâu nghiên cứu. Trong giới hạn của luận
văn Cử nhân Luật, người viết tập trung nghiên cứu vấn đề: “Ðạo đức nghề nghiệp của
Thẩm phán”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

Ðề tài hướng tới mục đích làm sáng rõ vai trò đạo đức của Thẩm phán trong
quá trình tố tụng. Song song đó, đề tài cũng nêu lên thực trạng của vấn đề đạo đức
Thẩm phán và những ảnh hưởng của đạo đức Thẩm phán đến quá trình tố tụng. Xuất
phát từ mục đích trên đề tài có nhiệm vụ:
-

Làm sáng rõ ý nghĩa của đạo đức Thẩm phán trong hoạt động tố tụng.

-

Nêu cơ sở pháp lý về đạo đức Thẩm phán.

-

Ðánh giá thực trạng, ảnh hưởng của đạo đức Thẩm phán đến quá trình tố tụng.

-

Nêu một số ý kiến liên quan nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của Thẩm

phán.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đạo đức vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp. Đạo đức hiện nay mà
nhân dân ta xây dựng là đạo đức mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đạo
đức Thẩm phán cũng dựa trên nền tảng đạo đức xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên đạo đức
Thẩm phán cũng có những đặc điểm riêng, độc lập tương đối với đạo đức xã hội. Hiện
nay, ở nước ta không có một văn bản chính thức nào thống nhất quy định chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán để làm cơ sở nghiên cứu nhằm nâng cao đạo đức
Thẩm phán cũng như nâng cao hiệu trong hoạt xét xử. Do đó:
-


Luận văn có thể được sử dụng làm tài liêu tham khảo khi nghiên cứu vấn đề đạo

đức Thẩm phán trong hoạt động tố tụng.
- Những thực trạng nêu trong luận văn có thể sử dụng để các Thẩm phán, tổ
chức, các cơ quan hữu quan nghiên cứu đưa ra biện pháp nâng cao đạo đức Thẩm
phán nhằm đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện tốt hơn nữa vai trò của mình, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 2


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành một đề tài nghiên cứu, không thể không kể đến phương pháp
nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu là phương tiện để người viết tiến hành mổ xẻ các
vấn đề nhằm tiến tới làm sáng rõ mục đích của đề tài, qua đó thấy được những mặt tích
cực và những mặt hạn chế của vấn đề đang nghiên cứu để đưa ra kiến nghị đổi mới và
phương hướng hoàn thiện.
Cơ sở luận văn là những quan điểm của Ðảng và Nhà nước ta, những quy định
của pháp luật về đạo đức Thẩm phán. Người viết sử dụng các phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp… để thực hiện việc nghiên cứu hoàn thành đề tài luận văn của
mình.
6. Kết cấu của luận văn
Đạo đức của Thẩm phán bao gồm nhiều khía cạnh. Để lột tả được những vấn đề
của đạo đức Thẩm phán thì ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo

người viết đi sâu tìm hiểu những nôi dung sau:
- Mục lục
- Lời nói đầu
-

Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức Thẩm phán trong tố tụng hình sự.

- Chương 2: Những quy định của pháp luật về đạo đức Thẩm phán và vai trò của
đạo đức Thẩm phán trong quá trình tố tụng.
-

Chương 3: Những ảnh hưởng của đạo đức Thẩm phán đến quá trình tố tụng và

một số ý kiến liên quan.
-

Kết luận

-

Tài liệu tham khảo

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 3


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC
THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC THẨM PHÁN
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của phật giáo, của đạo
giáo, của nho giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện
mình, khuyên con người làm điều thiện tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề xuất các
quy tắc, các chuẩn mực những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Có
thể nói, khái niệm đạo đức ở phương Đông chính là đạo làm người, bao gồm rất nhiều
chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, làng xóm, bè
bạn… theo những định hướng giá trị nhất định.
Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ mos trong ngữ vựng La
tinh, có nghĩa là lề thói. Moralos có nghĩa là thói quen. Ngoài ra, trong tiếng Hy Lạp
còn có khái niệm ethicos cũng có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả hai từ đều chỉ
đạo đức xã hội, tức là nói về tập quán, tập tục, lề thói trong các quan hệ giao tiếp giữa
con người với con người.
Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Banđzelaze đã viết
“Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người
khác trong xã hội… Nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự giác của con
người thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thật sự có đời sống xã hội. Đặc trưng
của đời sống con người, và của bản thân tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và
nội dung của đạo đức chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người
khác và của toàn xã hội”.
Đạo đức là mối quan hệ có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị,
nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy, mà thông thường là nếp sống, phong tục,
tập quán do một cộng đồng nhất định tạo thành khi chung sống với nhau. Các quan hệ

đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh bởi các dư luận xã hội. Đó là những ý
kiến, các trạng thái tinh thần tán thưởng hoặc phê phán của số người trong xã hội đối
với một hành vi, một ý tưởng, một đạo đức cảm xúc của cá nhân hay của một nhóm
người nhất định trong xã hội. Dư luận xã hội cũng truyền bá, chấp nhận hoặc phủ nhận
các chuẩn mực, các giá trị nào đó trong một quan hệ xã hội nhất định.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 4


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này và người khác
được điều chỉnh bằng dư luận xã hội. Đạo đức luôn luôn là quan hệ điều chỉnh các
hành vi của con người trong sinh tồn và giao tiếp xã hội; là phương thức xác lập mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng
tầng, tư tưởng đạo đức vừa phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ mật thiết với
tư tưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng đạo đức cũng như tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng
nghệ thuật, đều là sự phản ánh một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, vừa có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Dưới các hình thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu
hiện các lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp,
một thời đại nhất định. Sự tương tác giữa tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư
tưởng pháp quyền, tư tưởng triết học, tư tưởng tôn giáo, tư tưởng khoa học tạo nên sự
thống nhất trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội.
Cũng như các hình thức xã hội khác tư tưởng đạo đức có tính độc lập tương đối

so với cơ sở kinh tế và trong tương quan với tư tưởng của các hình thái ý thức xã hội
khác. Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là một số truyền thống, ít
nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đạo đức tồn tại lâu dài khi cơ sở kinh tế,
các thiết chế chính trị đã mất đi. Nhiều quan hệ đạo đức vẫn còn có tác dụng giữ gìn sự
phát triển của các mối quan hệ nhân bản giữa con người với con người, khi điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội đã qua đi lâu rồi.
Có thể nói, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồm các hành
vi đạo đức, tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, lý tưởng đạo đức…
Sự biến đổi của các quan hệ đạo đức trong xã hội phụ thuộc vào phương thức
sản xuất của xã hội, đặc biệt là các nhu cầu về lao động, về sản xuất, về sinh tồn, về
giao tiếp. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, dưới chế độ công xã nguyên thuỷ,
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra các quan hệ đạo đức bình đẳng nguyên
thuỷ. Lúc ấy, cá nhân con người hoà nhập với cuộc sống của cộng đồng nguyên thuỷ.
Chủ nghĩa tập thể nguyên thuỷ tạo ra các quan hệ đạo đức gắn con người với tự nhiên
và với cộng đồng của mình, cá nhân không tách khỏi cộng đồng. C. Mác và Ph.
Ăngghen thường nói đến đạo đức của các hình thái xã hội cổ điển, ở đó con người vẫn
gắn chặt với cuống rốn cộng đồng.
Trong hình thái xã hội chưa có sự phân chia giai cấp không có hiện tượng
người bóc lột người. Con người cùng nhau hái lượm, đánh bắt muôn thú, chim cá và
ăn ở tập thể. Các phong tục, tập quán, uy tín, sự tôn kính nhau, sự giúp đỡ nhau, sự
giúp đỡ nhau tự nguyện là hiện tượng đạo đức phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ.
Trong thị tộc nguyên thuỷ, các quan hệ đạo đức bình đẳng, nhất trí, đoàn kết làm nghĩa
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 5


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu


vụ. Nhiều nhà nghiên cứu đạo đức nguyên thuỷ đều cùng có chung một nhận xét rằng:
các quan hệ giữa người và người trong các xã hội nguyên thuỷ rất thẳng thắn, trung
thực, kiên cường, dũng cảm, theo đúng nghĩa vụ.
Các quan hệ đạo đức trong xã hội có giai cấp gắn với phân công lao động, sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội nô lệ đã tạo ra các quan hệ đạo đức: chủ nô
và nô lệ, gia đình một vợ một chồng, hoặc là có vợ có chồng riêng, không tạp hôn,
đồng thời sinh mạng con người tuy là nô lệ nhưng không ăn thịt nhau.
Lao động kiểu nô lệ đã tạo nên quan hệ đạo đức chủ nô và nô lệ. Người nô lệ là
một vật mua bán, không có đạo đức, không có quyền bình đẳng. Phụ nữ cũng trong
tình trạng đó dưới xã hội nô lệ. Các quan hệ đạo đức trong xã hội nô lệ tạo ra sự bất
bình đẳng to lớn.
Phương thức sản xuất phong kiến đã tạo ra các quan hệ đạo đức phong kiến: địa
chủ và nông nô. Các quan hệ đạo đức dưới chế độ phong kiến kể cả phương Đông và
phương Tây đều có sự bất bình đẳng giới tính, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng
dân tộc. Xã hội phong kiến là một xã hội có sự thống trị của sự cưỡng bức siêu kinh tế.
Bầy tôi phải trung thành với vua, chư hầu phải trung thành với thiên tử, nông dân phải
trung thành với địa chủ. Trung thành là khái niện đạo đức cơ bản gắn với những lợi ích
siêu kinh tế trong xã hội phong kiến.
Khác với quan hệ đạo đức phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã tạo ra các quan hệ đạo đức tư bản chủ nghĩa. Đó là một quan hệ đạo đức coi trọng
tự do cá nhân nhưng gắn với lợi nhuận. Với sự phát triển của công nghiệp, đạo đức xã
hội tư bản gắn với các quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân. Nhà tư bản thuê công
nhân, bóc lột sức lao động của công nhân với giá rẻ. Trong mối quan hệ này, lợi ích
của nhà tư bản là quan trọng nhất. Do gắn với lợi ích nhà tư bản mà các vấn đề cưỡng
bức lao động, bóc lột lao động đã tạo nên sự bần cùng to lớn trong đời sống của những
người lao động.
Sự quốc tế hóa việc bóc lột giá trị thặng dư, sự mở rộng thị trường đã tạo ra các
quan hệ vô đạo đức to lớn trong xã hội tư bản. Chủ nghĩa đế quốc đã đàn áp bóc lột
nhân dân các nước thuộc địa, tạo nên sự đảo lộn các giá trị đạo đức to lớn trong lịch sử

và đặt ra vấn đề xây dựng các quan hệ đạo đức mới trong xã hội – xã hội sau chế độ tư
bản.
Sự bế tắc cả về phương diện kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ tư bản chủ
nghĩa đã đưa đến những cuộc cách mạng của giai cấp vô sản thay thế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đấu tranh
cách mạng đó, đạo đức cũ bị phá huỷ và xây dựng nên đạo đức mới, một lề đạo đức
mới được xác lập đó là đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản - đạo đức cộng sản chủ
nghĩa. Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản là thành quả phát triển cao trong lịch sử
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 6


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

tiến hoá lâu dài của đạo đức. Nó là kết quả của sự phủ định biện chứng những giá trị
đạo đức đã đạt được trong lịch sử. Nếu như các nền đạo đức xã hội có đối kháng giai
cấp và đặc biệt là đạo đức của xã hội tư sản được xây dựng trên sự bất bình đẳng, sự
nô dịch và áp bức bóc lột giữa người và người thì đạo đức cách mạng được xây dựng
trên cơ sở bình đẳng đoàn kết, sự nương tựa giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người
trong xã hội mới. Nếu như đạo đức tư sản kích thích sự phát triển cá nhân một cách
cực đoan trở thành chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, kích thích những dục vọng thấp hèn,
những bản năng ở con người, vật hóa con người thì đạo đức mới phát triển cá nhân
trong sự hài hoà với cộng đồng xã hội, hạn chế những dục vọng, bản năng thấp hèn ở
con người. Đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản giữ vai trò chỉ đạo về mặt ý thức,
mặt xã hội của con người nâng con người lên đúng vị trí làm người của nó.
Về mặt lịch sử đạo đức mới đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã hội xã
hội chủ nghĩa, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại

giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính nội dung của cuộc đấu
tranh đó quy định sự phát triển của nội dung đạo đức cộng sản. Khi xác lập được chính
quyền và nền chuyên chính của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo xã hội xây dựng
nền kinh tế mới, một cơ cấu xã hội – giai cấp mới, một đời sống văn hoá – tinh thần
mới có tính xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở kinh tế - xã hội – giai cấp và tinh thần bền
vững cho sự phát triển đạo đức mới. Như vậy, trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, đạo đức mới hình thành và phát triển từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản và
ngày càng trở thành đạo đức chung của nhân dân, và trong tương lai thành đạo đức
chung của nhân loại – đó là đạo đức cộng sản. Để có được đạo đức mới, đạo đức cộng
sản theo nghĩa rộng phải trải qua các giai đoạn phát triển như sau:
- Thứ nhất, đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản.
- Thứ hai, đạo đức xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, đạo đức cộng sản.
Như vậy, đạo đức xã hội chủ nghĩa là một giai đoạn trong sự hình thành đạo
đức cộng sản.
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đối tượng phản ánh và là cơ sở để điều chỉnh
đạo đức mới. Đạo đức xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất nhân đạo của nền sản
xuất xã hội chủ nghĩa quy định, tuyệt nhiên không phải do một đầu óc uyên thâm,
thiện chí của một người nào đó nghĩ ra. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đồng
thời là kết quả của quá trình hình thành và phát triển của xã hội mới và con người mới.
Đây là giai đoạn triển khai, phổ biến của đạo đức cộng sản trên quy mô toàn xã hội.
Đây cũng là quá trình vô cùng khó khăn và phức tạp, bởi vì nó phải trải qua một cuộc
phê phán gay gắt với mọi hình thức của đạo đức phi vô sản khác.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 7


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật


GVHD: Mạc Giáng Châu

Đạo đức cộng sản, theo nghĩa hẹp là đạo đức mới được phát triển cao nhất trong
lịch sử. Đạo đức cộng sản dần dần khẳng định địa vị thống trị của mình trong đời sống
đạo đức xã hội và là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng
xã hội mới. V. I. Lênin chỉ ra rằng: “Uy tín tinh thần lớn đạt được trong quá trình đấu
tranh có một ý nghĩa rất quan trọng, uy tín này không một người nào phủ nhận được,
và sức mạnh của nó, tất nhiên không phải bắt nguồn là đạo đức trừu tượng, mà từ đạo
đức của người chiến sĩ cách mạng, đạo đức của quần chúng cách mạng”. Cụ thể là:
Thứ nhất, các lý tưởng và nguyên tắc đạo đức cộng sản là cơ sở để các đảng
mácxit và chính quyền nhà nước vô sản hoạch định chiến lựơc, sách lược, chính sách
kinh tế, chính trị và văn hoá tư tưởng. Ở đây, đạo đức và chính trị đều có chung một
mục đích là khẳng định lợi ích của giai cấp công nhân. Kết quả là đạo đức cộng sản,
theo một ý nghĩa nhất định, vừa mang tính pháp quyền.
Thứ hai, đạo đức cộng sản đã nhân đạo hoá một cách phổ biến của các giá trị
nhân đạo của mình. Dù trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền hay trong thời kỳ
xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, hành vi của giai cấp vô sản đều nhằm mục
đích cao cả là giải phóng mình và giải phóng cả loài người. Bởi vì, với giai cấp vô sản,
muốn giải phóng mình phải giải phóng cả nhân lọại; muốn một người được tự do thì
mọi người phải được tự do. Ở đây, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất về
chính trị, tinh thần và đạo đức trong các giai cấp và các tầng lớp xã hội là cơ sở quy
định tính phổ biến của các giá trị nhân đạo trong xã hội. Mặt khác, nội dung nhân đạo
của đạo đức cộng sản còn là tư tưởng về con đường và phương thức của sự khẳng định
sự tồn tại, hạnh phúc và phát triển tự do của con người.
Thứ ba, đạo đức cộng sản xâm nhập vào các tầng lớp xã hội tạo nên hai kết quả:
Một là, sự hoàn thiện cấu trúc đạo đức cá nhân, các tập thể lao động, công tác và chiến
đấu; Hai là, sự điều chỉnh, điều tiết đạo đức có tính thống nhất trên phạm vi toàn xã
hội. Sự phản ánh, điều chỉnh đạo đức mang tính tự giác, tự nguyện, tự do, thống nhất.
Trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội đạo đức mới hình thành và phát

triển từ đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản và ngày càng trở thành đạo đức chung
của nhân dân. Trong tương lai, nó sẽ trở thành đạo đức chung của nhân loại và là đạo
đức cộng sản sau khi đã đi qua giai đoạn trung gian của nó là đạo đức xã hội chủ
nghĩa.
Tóm lại, mỗi một xã hội có quan niệm của mình về đạo đức. Ðạo đức vừa mang
tính xã hội vừa mang tính giai cấp sâu sắc. Bên cạnh đó, đạo đức còn chi phối bởi tính
dân tộc, tính truyền thống và tính lịch sử. Ở mỗi một thời kỳ phát triển của xã hội, đạo
đức có những nội dung và giá trị riêng và mỗi một giai cấp lại quan niệm về đạo đức
khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt thì: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 8


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

với xã hội”. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, chúng ta lại đang thực hiện
những tư tưởng chỉ đạo của Ðảng. Vì vậy, đạo đức trong xã hội ta hiện nay là sự quan
niệm, cách đối xử và ứng xử của cá nhân với nhau, với xã hội hướng tới lợi ích của
con người, của tập thể và của toàn xã hội.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đạo đức xã hội mà
nhân dân ta xây dựng là đạo đức mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đạo
đức Thẩm phán ở nước ta là đạo đức dựa trên nền tảng tư tưởng của đạo đức ấy trong
giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Nó có giá trị thiết thực trong hoạt động nghề
nghiệp của mỗi Thẩm phán, nó giúp cho Thẩm phán vượt qua được những trở ngại
trong công tác cũng như trong đời sống, trở thành người cách mạng “cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư”, đi đầu trong trận tuyến giữ gìn trật tự an toàn xã hội và an ninh

quốc gia, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Khái niệm đạo đức Thẩm phán
a) Khái niệm Thẩm phán
Xét xử vụ án hình sự được coi là một giai đoạn đặc biệt trong tố tụng hình sự.
Thông qua giai đoạn này, Toà án xác định một người có tội và phải chịu hình phạt hay
không có tội để từ đó đưa ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật và phù hợp với sự
thật khách quan, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Với vai trò là một trong những người tiến hành tố tụng tại Toà án nên Thẩm
phán có quyền xét xử các vụ án theo quy định của pháp luật, đảm bảo công lý, đảm
bảo được pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Thẩm phán
Toà án phải có những tiêu chuẩn nhất định về thể lực, trí lực, đạo đức và phải được
tuyển chọn, bổ nhiệm theo một trình tự nhất định. Toà án chỉ có thể hoàn thành được
nhiệm vụ xét xử khi lựa chọn đội ngũ Thẩm phán có đủ tiêu chuẩn mà pháp luật quy
định. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 đã quy định chế độ tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán Toà án nhằm lựa chọn được đội ngũ Thẩm phán vừa có đạo đức vừa
có tài thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án.
Theo Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày
04.01.2002, Thẩm phán là: “Người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà
án”. Cũng theo pháp lệnh này, thì Thẩm phán Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Thẩm phán Toà
án nhân dân cấp tỉnh; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện và Thẩm phán Toà án
quân sự các cấp.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 9



Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

Qua thực tiễn xét xử ở các Toà án nhân dân với tinh thần trách nhiệm trước nhà
nước và nhân dân, các Thẩm phán đã có những đóng góp quan trọng trong công tác
xét xử, thực hiện việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại: Theo Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định:
“Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án”. Với
quy định này thì tại Điều 5 của Pháp lệnh: “Thẩm phán là những công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử,
có thời hạn công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của
pháp luật, có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao”.
b) Khái niệm đạo đức Thẩm phán
Ðạo đức vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp, ngoài ra đạo đức còn
chịu ảnh hưởng của các yếu tố dân tộc, truyền thống, lịch sử, tôn giáo… Bên cạnh
phạm trù đạo đức xã hội còn xuất hiện quan niệm về đạo đức nghề nghiệp. Ðạo đức
nghề nghiệp trước hết phải chứa đựng những yếu tố chung của đạo đức xã hội, không
được trái với đạo đức xã hội. Ngoài ra, đạo đức nghề nghiệp còn có các đặc trưng
riêng của mình gắn liền với yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp
Thẩm phán gắn liền với nghề nghiệp Thẩm phán. Mặt khác, đạo đức của người Thẩm
phán còn được hình thành và phát triển thông qua quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện
của bản thân mỗi người Thẩm phán, trình độ chuyên môn của Thẩm phán là tiền đề
căn bản để hình thành nên một quan niệm đạo đức tốt. Không thể nói một Thẩm phán
có đạo đức nghề nghiệp nếu như trình độ chuyên môn và nghiệp vụ non kém dẫn đến
việc ra một bản án không khách quan, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của cá

nhân trong xã hội. Vì vậy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi Thẩm phán được
coi là tố chất đầu tiên tạo nên đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán.
Ở nước ta, việc bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành theo Pháp lệnh về Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân ngày 14.3.1993 và gần đây là Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân ngày 04.01.2002. Theo Pháp lệnh này, thì Thẩm phán là công dân
trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực... thì có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán. Một trong những vấn đề được xã hội lưu ý quan tâm nhiều đó là
đạo đức người Thẩm phán. Tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc tại Huế tháng 3 năm 1995,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Ðình Lộc khi nói đến các điều kiện cần thiết của một
Thẩm phán đã nhấn mạnh: “Nói đến tiêu chuẩn bằng cấp, không có nghĩa là ta xem
nhẹ tiêu chuẩn đạo đức. Nhưng đạo đức của Thẩm phán chính là xét xử đúng pháp
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 10


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

luật, một việc cần phải rèn luyện thông qua chuyên môn nghiệp vụ”. Như vậy, sự hiểu
biết về chuyên môn nghiệp vụ, thành thạo trong các thao tác, nhuần nhuyễn trong việc
vận dụng pháp luật, nhạy bén trong việc xử thế các tình huống phức tạp là cơ sở cho
đạo đức của người Thẩm phán. Tuy nhiên, một người có chuyên môn nghiệp vụ giỏi
không có nghĩa là có đạo đức nghề nghiệp tốt, nhưng một người không có chuyên môn
nghiệp giỏi khó có đạo đức nghề nghiêp tốt. Nói chung, Thẩm phán phải được trang bị
cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Như Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài không có đức là vô dụng, có đức mà
không có tài làm việc gì cũng khó”. Do vậy, quá trình rèn luyện thông qua chuyên

môn nghiệp vụ để trở thành những Thẩm phán vừa giỏi về chuyên môn, vừa có đạo
đức nghề nghiệp vững vàng là rất quan trọng.
Ngoài việc phải có những kiến thức chuyên môn giỏi, có trình độ nghiệp vụ
vững vàng, người Thẩm phán cần phải có những hiểu biết sâu rộng về mặt xã hội cho
phép người Thẩm phán xử lý vụ án đúng về mặt pháp luật và có tính thuyết phục, và
bản án được tuyên trong trường hợp này được rộng rãi quần chúng nhân dân chấp
nhận. Trong giai đoạn hiện nay, đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng để xây dựng
đạo đức của người Thẩm phán. Theo Bác Hồ, đối với cán bộ tư pháp, người làm công
tác xét xử thì ngoài phẩm chất “cần kiệm, liêm chính” và “nhân, nghĩa, chí dũng” thì
còn phải “phụng công thủ pháp” và “chí công vô tư” cho nhân dân noi theo. Trong
công tác xét xử phải công bằng liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không
chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, phải hiểu dân, giúp
dân, học dân. Thêm nữa phải cố gắng học tập đường lối chính sách của chính phủ...
Như vậy, đạo đức người Thẩm phán là một khái niệm bao gồm tập hợp các
quan điểm, cách cư xử, hành động, phẩm chất, sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực mà người
Thẩm phán có thể trang bị trong trường học hoặc tự học hỏi, tích lũy trong cuộc sống.
Người ta so sánh người Thẩm phán cũng như người thầy thuốc. Trong bất kỳ
giờ phút nào cũng phải phục vụ nghề nghiệp của mình một cách vô điều kiện, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng đã chọn. Đối với một người Thẩm phán điều quan trọng là
phải biết khắc phục sự phiến diện trong suy luận, thói hình thức, thói quen buộc tội.
Tính khách quan tột bực, công bằng, vô tư, sự lịch thiệp, sự tế nhị cao trong xử sự cá
nhân và những điều khác hình thành nên cơ sở đạo đức trong hoạt động của người
Thẩm phán.
1.2. Đặc điểm của đạo đức Thẩm phán và các yếu tố cấu thành đạo đức Thẩm
phán
1.2.1. Đặc điểm của vấn đề đạo đức Thẩm phán
a) Đạo đức Thẩm phán là một bộ phận của phạm trù đạo đức

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy


Trang 11


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đạo đức là những chuẩn mực thống nhất cho
mọi người. Nhưng việc vận dụng những chuẩn mực đạo đức vào trong từng lĩnh vực
của đời sống xã hội lại tùy thuộc vào những đặc thù của những lĩnh vực đó. (Ví dụ: y
đức trong nghề y, đạo đức của nhà giáo trong nghề sư phạm, đạo đức thể thao trong
thể thao, đạo đức của nhà báo trong hoạt báo chí...). Tương tự như vậy, trong lĩnh vực
hoạt động tư pháp luôn luôn có tác động của một nhóm nguyên tắc, các phạm trù đạo
đức. Chúng đã định hình, tồn tại và được thực hiện trong quá trình giải quyết các vụ
án.
Ở lĩnh vực tư pháp hình sự, việc áp dụng đúng hình phạt, giáo dục cải tạo người
phạm tội trở về cuộc sống lương thiện đều dựa trên những quy định của pháp luật. Các
biện pháp mà cơ quan tư pháp hình sự áp dụng đối với người phạm tội trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố cũng như khi xét xử và thi hành án không những chỉ phù hợp
với pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội
chủ nghĩa. Như vậy, trong lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán có những
nguyên tắc, những giá trị đạo đức được vận dụng. Những nguyên tắc và giá trị này hợp
thành đạo đức Thẩm phán. Đây là một dạng của đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức Thẩm
phán là tập hợp những quan điểm, tư tưởng, nhận thức của Thẩm phán về hoạt động
nghề nghiệp của mình. Nhưng xét từ góc độ khác, có thể thấy rằng đạo đức Thẩm phán
là sự vận dụng các chuẩn mực đạo đức ở điều kiện hoạt động đặc thù khi thực hiện các
nguyên tắc, các yêu cầu của đạo đức trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Nếu như phạm trù đạo đức được hiểu theo nghĩa xã hội chung nhất (như trên đã
định nghĩa) thì đạo đức người Thẩm phán lấy pháp luật làm nền tảng và chỉ hình thành
trong hoạt động nghề nghiệp. Những giá trị như công bằng, vô tư, khách quan, nhân

đạo, tình người… có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả hoạt động của Thẩm phán.
Nếu bản án mà Thẩm phán tuyên đối với bị cáo vừa chính xác, vừa đúng pháp luật,
vừa thấu tình đạt lý, tức là đạt ở trình độ cao về pháp luật và đạo đức thì sẽ tạo cho
công dân một ấn tượng tốt, một sự đồng tình xét từ góc độ tình cảm pháp lý, củng cố
lòng tin của họ vào pháp lụât và để họ thấy rằng: sự thật và công lý luôn luôn chiến
thắng ngay cả trong những tình huống khó khăn và phức tạp nhất. Ngược lại, bản án
không đáp ứng yêu cầu trên thì sẽ làm mất lòng tin, và những giá trị đạo đức sẽ bị hiểu
sai lệch. Buộc tội oan, sai sẽ gây ra thiệt hại không lường về đạo đức trong xã hội (mà
những giá trị của đạo đức cũng rất quan trọng và cần được bảo vệ như các giá trị vật
chất).
Chính những nguyên tắc đạo đức xuyên suốt pháp luật như vậy mà bản thân
pháp luật cũng trở thành hiện tượng đạo đức theo nghĩa rộng của nó và việc không
tuân thủ đối với bất kì quy phạm pháp luật nào đều được coi là hành vi vô đạo đức.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 12


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng phạm trù đạo đức là một khái niệm rộng bao
quát, trong đó đạo đức Thẩm phán là một bộ phận hợp thành trên cơ sở vận dụng các
chuẩn mực đạo đức ở điều kiện hoạt động đặc thù.
b) Đạo đức Thẩm phán có tính độc lập tương đối
Như đã nói, đạo đức Thẩm phán xuất phát từ nền tảng đạo đức xã hội nhưng
đạo đức Thẩm phán cũng có những đặc trưng riêng, độc lập với đạo đức xã hội. Đạo
đức Thẩm phán là một loại hình đạo đức nghề nghiệp được hình thành và phát triển

gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán: hoạt động xét xử.
Người Thẩm phán là một con người, một công dân. Vì vậy, Thẩm phán phải
mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp về mặt đạo đức như những công dân bình
thường khác trong xã hội. Bên cạnh đó, Thẩm phán còn có những quan điểm, tư
tưởng, nhận thức về hoạt động nghề nghiệp của mình. Bởi vì, Đạo đức Thẩm phán lấy
pháp luật làm nền tảng và chỉ hình thành trong hoạt động nghề nghiệp. Điều này
không cho phép Thẩm phán quyết định công việc theo tình cảm, mặc dù quyết định đó
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, thể hiện tình yêu thương con người với con
người. Đứng ở góc độ đạo đức xã hội khi nhận thấy một người có tội mà biết thành
thật khai báo, ăn năn, hối cải thì Thẩm phán có thể tha thứ lỗi lầm cho họ, trả họ về với
cuộc sống tự do. Nhưng ở góc độ đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán có muốn tha cho họ
thì cũng không có một chuẩn mực nào cho phép, vì phán quyết của Thẩm phán đều
phải dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật và khi Thẩm phán tuân thủ đúng
những quy định của pháp luật thì pháp luật mới được bảo vệ. Điều này thể hiện tính
độc lập của đạo đức Thẩm phán với phạm trù đạo đức và là phẩm chất đạo đức đặc
trưng gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.
Nhưng tính độc lập ở đây chỉ là tương đối bởi vì đạo đức Thẩm phán phải
mang đầy đủ các yếu tố của đạo đức xã hội, không được trái với đạo đức xã hội. Đạo
đức xã hội là những quan niệm nhằm hướng tới chân, thiện, mỹ. Đạo đức Thẩm phán
cũng không nằm ngoài quan niệm đó. Đạo đức Thẩm phán là tổng hợp những yếu tố
giúp Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp của mình xác định được chân, thiện, mỹ
để bảo vệ trật tự pháp luật, trật tự xã hội. Như vậy, thông qua hoạt động nghề nghiệp
của mình, bằng các tác nghiệp, Thẩm phán hướng tới cái thiện, cái đúng, cái đẹp, sự
công bằng để phán quyết. Phán quyết của Thẩm phán trước hết phải phù hợp với pháp
luật, mang tính khả thi cao, phù hợp với chân thiện mỹ chung của toàn xã hội mà trong
đó Thẩm phán là một thành viên. Đó là tính độc lập tương đối của đạo đức Thẩm
phán.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy


Trang 13


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

1.2.2. Các yếu tố cấu thành đạo đức Thẩm phán
a) Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao
Không có gì lạ khi nói rằng việc bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của Thẩm
phán phải được bắt đầu từ việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Tài và đức thật ra là
hai tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Có nghĩa là khi nói đến đạo đức nghề nghiệp thì
nhất thiết phải kể đến tài và đức. Trong quan niệm về đạo đức nghề nghiệp tài và đức
gắn liền với nhau, tạo thành mối liên kết không thể tách rời để hình thành đạo đức
nghề nghiệp. Người xưa quan niệm rằng người tài thường hay có tật, có nghĩa là người
có tài thường bướng bỉnh, khó bảo và có những cá tính gây khó chịu cho người khác.
Vì vậy, người xưa quan niệm về đạo đức là một cái gì đó nhu mì hiền lành, dễ chịu
ngoan ngoãn, nết na... Tất cả những điều đó đều là những phẩm chất không thể thiếu
của đạo đức, tuy vậy đối với đạo đức nghề nghiệp, nhất là đối với nghề nghiệp Thẩm
phán ngoài các tố chất kể trên không thể không kể đến “tài”, tức trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao.
Hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán là hoạt động xét xử. Vì vậy, người
Thẩm phán có chuyên môn nghiệp vụ giỏi thì khả năng hiểu biết pháp luật, phân tích
luật vững vàng, áp dụng chính xác vào trong những tình huống cụ thể làm cho pháp
luật được thi hành một cách đúng đắn, thiết thực trên thực tế, tạo niềm tin vững chắc
của nhân dân vào Thẩm phán, vào đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
b) Bản lĩnh nghề nghiệp
Bản lĩnh là sự kiên định, là sự quyết đoán. Bản lĩnh còn là khả năng hướng tới
cái đúng, cái công bằng và cái hoàn thiện. Bản lĩnh nghề nghiệp của người Thẩm phán
là một tố chất không thể thiếu trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình.

Do điều kiện hoạt động nghề nghiệp của người Thẩm phán gắn liền với tính độc lập,
tính tự quyết, khả năng phán đoán mọi vấn đề trên cơ sở phân tích pháp luật và niềm
tin nội tâm. Bản lĩnh nghề nghiệp của người Thẩm phán được hình thành, xây dựng,
củng cố và phát triển trên cơ sở của tính tự tin thái độ cương quyết, tinh thần độc lập
và thái độ khách quan, tôn trọng sự công bằng, không thiên lệch, vô tư trong sáng,
không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang
tính vụ lợi cá nhân. Như vậy, bản lĩnh cũng phải được hình thành và phát triển cơ sở
hiểu biết sâu sắc về công việc của mình đang làm. Bản lĩnh sẽ không có đất tồn tại và
phát triển nếu như người Thẩm phán không chú trọng bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một Thẩm phán không thể độc
lập khi xét xử hoăc tự tin khi ra quyết định nếu như Thẩm phán đó quá yếu về chuyên
môn nghiệp vụ. Trong trường hợp ấy việc ra bản án hoặc quyết định đồng nghĩa với sự
bảo thủ hơn là tính bản lĩnh.

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 14


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

c) Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp
Trách nhiệm hay nghĩa vụ là một khái niệm mang màu sắc pháp lý, tuy vậy lại
là một tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Nếu ở phương diện luật học người ta nói
nghĩa vụ đi đôi với quyền thì ở phương diện đạo đức, người ta đề cao tinh thần trách
nhiệm mà không gắn với quyền lợi. Như vậy, trách nhiệm của người Thẩm phán được
hiểu là thái độ tự tin vào công việc hằng ngày của mình và ý thức bảo đảm cho những
gì mình thực hiện là đúng đắn. Nói một người Thẩm phán có trách nhiệm có nghĩa là

người Thẩm phán đó ý thức được công việc của mình làm, dám chiụ trách nhiệm về
các hành vi của mình và điều quan trọng là tự giác thực hiện các công việc được giao
theo đúng lương tâm. Nếu một người Thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm thì không
thể nói đó là một người Thẩm phán có đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp
của người Thẩm phán thể hiện sự tận tụy trong công việc, sự chu đáo, cẩn trọng khi
thực hiện các hành vi tố tụng. Người Thẩm phán có trách nhiệm là người Thẩm phán ý
thức được rằng hành vi của mình không phải chỉ liên quan đến một người, một tổ chức
trong xã hội mà có thể còn liên quan đến nhiều người, nhiều gia đình, nhiều tổ chức
trong xã hội. Chỉ vì một chút thiếu tinh thần trách nhiệm trong điều tra, xác minh thu
thập chứng cứ, xét xử, ra bản án hoặc quyết định thì cũng có thể gây ra những hậu quả
không lường trước được. Vì vậy, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán trước
hết là một quá trình bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý
thức được công việc mình làm để có thái độ công bằng trong việc ra các phán quyết.
d) Những phẩm chất đạo đức cần có theo nghĩa xã hội thông thường đối với
một công dân trong xã hội
Như trên đã nêu, người Thẩm phán trước hết là một con người, một công dân.
Vì vậy, người Thẩm phán phải mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp về mặt đạo
đức như những người công dân bình thường khác trong xã hội. Không thể nói một
người Thẩm phán có đạo đức nghề nghiệp cao ngay cả khi người đó có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có bản lĩnh nghề nghiệp và có trách nhiệm đối với
công việc của mình nhưng lại thiếu phẩm chất tốt đẹp của một người công dân bình
thường. Người Thẩm phán cần có một lối sống lành mạnh, suy nghĩ trong sáng, thái độ
thân thiện với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, công việc và cuộc sống.
Những phẩm chất đó có thể là tính trung thực, lòng dũng cảm, tính công bằng, khách
quan và tính nhân bản…
1.3. Các phẩm chất nhân cách cơ bản của người Thẩm phán
1.3.1. Một số vấn đề về mô hình nhân cách Thẩm phán
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách nền tư pháp Việt Nam, thì

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 15


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

một trong những vấn đề đặt ra là phải xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ của các cơ
quan bảo vệ pháp luật mà trước hết là đội ngũ Thẩm phán - những người làm công tác
xét xử. Thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và Thẩm phán nói riêng
còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ. Mặc khác, về phẩm chất,
đạo đức của người Thẩm phán vẫn còn tình trạng “Con sâu làm rầu nồi canh” ảnh
hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trước tình
hình đó đòi hỏi công tác giáo dục, đào tạo cũng như quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm và
tự đào tạo, tự giáo dục phải tác động được vào quá trình hình thành và phát triển nhân
cách Thẩm phán.
Tuy nhiên, muốn giáo dục nhân cách phải xây dựng được mô hình nhân cách,
tức là phải xây dựng được cấu trúc các mặt cơ bản trong nhân cách Thẩm phán. Để
xây dựng mô hình nhân cách Thẩm phán, chúng ta phải căn cứ vào cấu trúc nhân cách
chung của con người trong phạm vi toàn cầu, cấu trúc nhân cách của con người trong
phạm vi một dân tộc, cấu trúc nhân cách xuất phát từ phạm vi môi trường sống, hoạt
động của cá nhân và của nhóm.
Mô hình con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã
được Đảng ta chỉ rõ: có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; có
ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống
văn minh, cần kiệm trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỹ cương phép nước, quy ước
của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; lao động chăm chỉ
với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao động cao vì lợi ích bản

thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ
chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.
Như vậy, Thẩm phán là cán bộ, công chức được nhà nước bổ nhiệm theo thủ tục đặc
biệt, theo một trình tự nhất định. Khi thực hiện chức năng nghề nghiệp, Thẩm phán
không nhân danh mình và tổ chức mình công tác mà nhân danh Nhà nước để tuyên
một bản án, quyết định nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức chính trị xã hội và của Nhà nước.
Do Thẩm phán có vị trí đặc biệt trong đội ngũ cán bộ, công chức ở Việt Nam
nên việc xây dựng một mô hình nhân cách Thẩm phán cần phải dựa trên cơ sở lý luận
từ góc độ tâm lý học nói chung và tâm lý học pháp lý nói riêng với thực tiễn xét xử
của Thẩm phán. Vậy, có thể nói rằng mô hình nhân cách Thẩm phán trong hoạt động
xét xử là cấu trúc nhân cách được diễn đạt bằng những mặt cơ bản trong nhân cách
như: chính trị - tư tưởng, đạo đức - lối sống, năng lực chuyên môn, tự kiểm tra làm chủ

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 16


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

bản thân và trạng thái tinh thần ổn định. Những mặt này mang tính đặc trưng, tính ổn
định tương đối và có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.
Nhóm các nét nhân cách được đánh giá ở mức độ rất quan trọng và xếp thứ bậc
cao, đó là: năng lực xét xử; thận trọng cân nhắc kỹ lưỡng; công bằng vô tư, khách
quan; tự ý thức trách nhiệm cá nhân trong công tác; năng lực giải quyết vấn đề; tôn

trọng và tuân thủ pháp luật. Đây là một nhóm nét nhân cách đạo đức Thẩm phán mang
tính chiến lược chủ trương đúng đắn, là tiền đề cho công tác xây dựng một quy chế
đạo đức Thẩm phán phù hợp.
1.3.2. Các phẩm chất nhân cách cơ bản của Thẩm phán
Trong hoạt động xét xử của Toà án, Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng, là
người có quyền và phải chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình. Các phán quyết
của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ, thậm chí cả tính mạng
của con người, có ảnh hưởng lớn đến tính công minh của pháp luật, uy tín và nền công
lý của quốc gia đồng thời góp phần giáo dục công dân có ý thức pháp luật, tôn trọng
các quy tắc của cuộc sống xã hội, động viên họ tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác. Để hoàn thành sứ mạng của mình, Thẩm phán
phải có một số phẩm chất nhân cách cơ bản.
a) Phẩm chất chính trị tư tưởng
Đây là phẩm chất nhân cách cần có đối với người làm công tác xét xử. Thẩm
phán là cán bộ của Đảng, được Đảng và nhân dân tin yêu giao cho trọng trách là
“người cầm cân nảy mực” là người đem lại sự công bằng cho xã hội. Do đó Thẩm
phán phải có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng cũng như phải có thế giới quan
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: giữ vững lập trường tư
tưởng chính trị của giai cấp công nhân, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ nghĩa xã hội.
Nghề Thẩm phán là nghề đặc thù nên đòi hỏi người Thẩm phán phải thể hiện sự
giác ngộ chính trị cao, hiểu biết sâu sắc các nhiệm vụ, chức trách được giao phó. Thẩm
phán phải tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, trung thành với Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, sẵn sàng vượt qua
mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Một người không thể thi hành pháp luật trong cuộc sống, không thể đem lại sự công
bằng cho xã hội khi chính người đó không tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì lẽ đó,
Thẩm phán phải là người có lập trường cách mạng vững chắc, kiên định với đường lối
chính sách mà Đảng đã đề ra nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, chống hiện tượng
“máy móc, pháp lý đơn thuần, vô chính trị” trong quá trình giải quyết các vụ án.


SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 17


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

b) Phẩm chất đạo đức
Trong cuộc sống, Thẩm phán cũng là công dân cho nên những phẩm chất chung
mà bất cứ ai trong xã hội cũng phải có thì người Thẩm phán đương nhiên phải có,
nghĩa là người Thẩm phán cần có lối sống lành mạnh, suy nghĩ trong sáng, thái độ
chân tình đối với tất cả các thành viên trong cộng đồng xã hội cũng như trong công
việc. Ngoài ra, do đặc điểm, yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp nên Thẩm phán phải
là người công bằng, vô tư, khách quan, trung thực, có lương tâm và tính nhân đạo.
Công bằng, vô tư và khách quan là những yếu tố hiện thân của Toà án. Bản án
thấu tình, đạt lý là bản án hàm chứa trong nó sự công bằng, vô tư và khách quan của
người làm công tác xét xử mà biểu hiện cụ thể trong từng suy nghĩ và hành động của
mỗi Thẩm phán nói riêng và các thành viên trong Hội đồng xét xử nói chung. Nghĩa là
khi xét xử, Thẩm phán phải làm theo lẽ phải, không thiên lệch về bên nào. Tất cả các
đương sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, điều kiện kinh
tế, dân tộc… đều được Thẩm phán xem xét như nhau. Các hành vi, quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của họ được Thẩm phán xét xử căn cứ theo quy định của pháp luật. Có như
vậy mới củng cố niềm tin, xoá bỏ những mặc cảm, những khuynh hướng cực đoan dễ
xảy ra trong tâm lý của quần chúng nhân dân đồng thời mang lại những hiệu quả giáo
dục tích cực. Điều 12 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy
định: “Thẩm phán phải từ chối nhiệm vụ hoặc bị thay đổi nếu có căn cứ cho thấy có
thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ đó” và theo quy định tại Điều 42 Bộ luật tố

tụng hình sự thì người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi,
nếu:
-

Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có

quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích
của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
- Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch trong vụ án đó;
-

Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Vì vậy, vô tư và khách quan là những phẩm chất không thể thiếu đối với Thẩm

phán. Sự vô tư, khách quan của Thẩm phán thể hiện ở chỗ không bị định kiến bởi
những ấn tượng ban đầu về vụ án hay nhân thân của bị cáo cũng như các đương sự
khác có lợi ích trong vụ án. Thẩm phán cần gạt bỏ những định kiến của mình, giải
quyết những vụ án trên cơ sở xem xét các chứng cứ.
Trong các hoạt động xã hội, một trong những yêu cầu cần thiết đối với mọi
người nói chung và đối với Thẩm phán nói riêng là phải có phẩm chất trung thực.
Trung thực, trước hết là tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải và chân lí trong các quan
hệ xã hội, trong cách ứng xử với mọi người, với tập thể và xã hội. Yêu cầu chung của
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 18


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật


GVHD: Mạc Giáng Châu

sự trung thực đòi hỏi Thẩm phán cư xử, hành động phù hợp với sự thật, lẽ phải và
chân lý. Giá trị của sự trung thực càng cao khi mà vì sự trung thực ấy mà Thẩm phán
có nguy cơ phải hứng chịu những nguy hiểm, những mối đe doạ nhằm vào bản thân
hoặc gia đình họ. Đức tính trung thực giúp cho Thẩm phán xây dựng lòng tin, tính
kiên quyết, tự chủ và sự thanh thản của lương tâm.
Lương tâm nghề nghiệp của mỗi Thẩm phán là yếu tố nội tâm tạo cho họ khả
năng tự đánh giá hành vi của mình về mặt đạo đức và do đó tự điều chỉnh hành vi của
mình. Lương tâm của mỗi Thẩm phán đòi hỏi họ lựa chọn quyết định một cách trong
sáng, mạnh dạn nhận và sửa chữa những sai sót của mình. Thẩm phán còn có lương
tâm đối với nghề nghiệp chắc chắn sẽ vô tư, khách quan khi ra bản án, quyết định. Nếu
“tâm” của họ không trong sáng thì sẽ luôn bị lợi ích vật chất cám dỗ và dẫn đến việc
làm trái với những qui định của pháp luật.
Lòng nhân ái của Thẩm phán xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc không xử hoặc xử nhẹ người phạm tội mà
cần phải xét xử một cách công bằng, tội đến đâu thì trách nhiệm hình sự phải chịu đến
đó. Ngoài ra, tính nhân đạo của Thẩm phán còn thể hiện thông qua việc họ biết đấu
tranh với điều ác, bảo vệ điều thiện.
c) Phẩm chất ý chí
Trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thì xét xử là hoạt động mang
tính quyết định. Mỗi phán quyết của Thẩm phán đều có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền,
nghĩa vụ, thậm chí cả tính mạng của con người, ảnh hưởng tới tính công bằng, nghiêm
minh của pháp luật. Do vậy, ngoài những phẩm chất đạo đức, chuyên môn, Thẩm phán
cần phải có ý chí như tính độc lập, tự chủ, tinh thần trách nhiệm…
Tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử được hiểu là năng lực đưa ra các phán
quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ và được xem xét tại
phiên toà mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ ai. Khi xét xử, Thẩm phán độc lập,
không có nghĩa là Thẩm phán được xét xử hoàn toàn dựa vào ý chí chủ quan, xử thế
nào cũng được mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật, tức là độc lập trên cơ sở tuân

thủ theo những quy định của pháp luật. Vấn đề này được quy định tại Điều 130 Hiến
pháp năm 1992, Điều 5 Luật tổ chức Toà án nhân dân, Điều 3 Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Toà án nhân dân và Điều 16 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nó đòi hỏi
“Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ
sự lẫn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật
nào”. Nhưng tính độc lập của Thẩm phán hoàn toàn không có nghĩa là bảo thủ, là tuyệt
đối hoá mọi quan điểm của mình, rồi cự tuyệt những ý kiến của đồng nghiệp, của lãnh
đạo… Trong quá trình xét xử, Thẩm phán có thể trao đổi, bàn bạc với đồng nghiệp,
lãnh đạo… vấn đề này không ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán, điều cốt yếu
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 19


Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

là thông qua sự trao đổi, bàn bạc, nhất là đối với các vụ án phức tạp, Thẩm phán có
khả năng tự phân tích, tổng hợp, đánh giá các ý kiến khác nhau. Trên cơ sở ý kiến của
những người khác Thẩm phán vận dụng, đối chiếu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ
sơ vụ án và thực tế diễn biến tại phiên tòa để có những quyết định mang tính độc lập
trong khuôn khổ của pháp luật. Tất nhiên, Thẩm phán muốn độc lập khi xét xử thì họ
phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm sống phong phú, có phẩm
chất chính trị và đạo đức tốt, dũng cảm bảo vệ chân lý…
Tính tự chủ là khả năng Thẩm phán làm chủ bản thân, duy trì được sự kiểm soát
đầy đủ đối với hành vi của mình, tránh được những tác động có tính chất xung động,
xúc động (các biểu hiện thái quá, nóng nảy, giận dữ, cục cằn…). Về vấn đề này, Lênin
đã nói: “Không có xúc cảm của con người thì không khi nào và không bao giờ có thể
tìm ra sự thật chân lý của con người”. Mục đích của hoạt động xét xử là tìm ra sự thật

của vụ án. Bởi vậy, hoạt động của Thẩm phán cũng không thể diễn ra ngoài xúc cảm
và họ cũng không thể trở nên lãnh đạm khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên,
xúc cảm ở đây là hướng vào quá trình tìm ra chân lý. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán phải
luôn tự kiềm chế những xúc cảm của bản thân để tránh những khuynh hướng thiên
lệch về bên này hay bên kia. Tính tự chủ giúp cho người Thẩm phán có khả năng kiềm
chế những xúc cảm trước những người tiến hành tố tụng khác và những người tham
gia tố tụng đồng thời điều chỉnh phản ứng của mình để không cản trở đến hoạt động
xét xử.
Tinh thần trách nhiệm là phẩm chất cần thiết trong mọi lĩnh vực hoạt động có
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, nghĩa vụ, sinh mạng của con người. Do đó tinh thần
trách nhiệm của Thẩm phán cần phải được đề cao trong hoạt động xét xử. Có thể so
sánh Thẩm phán cũng như người thầy thuốc là phải tận tâm với công việc của mình
một cách vô điều kiện, tuyệt đối trung thành với lý tưởng đã chọn. Đối với Thẩm phán,
điều quan trọng là phải biết khắc phục những mất mát trong nghề của mình, khắc phục
sự phiến diện trong suy luận, thói hình thức, thói quen buộc tội. Tinh thần trách nhiệm
của Thẩm phán được thể hiện qua sự tận tụy, qua sự tự giác thực hiện các công việc
được giao theo đúng pháp luật. Trách nhiệm của Thẩm phán còn thể hiện sự chu đáo,
thận trọng, tỉ mỉ khi áp dụng pháp luật trong từng vụ án cụ thể để có quyết định đúng.
Nếu Thẩm phán có tính dễ dãi, cẩu thả sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật một cách tuỳ
tiện, thiếu trách nhiệm, vi phạm các nguyên tắc pháp chế trong hoạt động xét xử.
d) Phẩm chất về năng lực hoạt động xét xử
Hoạt động xét xử là hoạt động phức tạp, khó khăn với sự tham gia của nhiều
người. Vì vậy, Thẩm phán (với tư cách chủ tọa phiên toà) phải có năng lực tổ chức
phiên toà. Năng lực tổ chức hoạt động xét xử của Thẩm phán thể hiện ở tư duy tổ chức

SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 20



Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật

GVHD: Mạc Giáng Châu

phiên toà, sự hiểu biết và đánh giá đúng khả năng của các thành viên trong Hội đồng
xét xử cũng như sự thành thạo trong việc điều khiển phiên toà.
Tư duy tổ chức xét xử biểu hiện ở chỗ bằng tư duy của mình, Thẩm phán có thể
bao quát toàn bộ diễn biến hoạt động của phiên toà, dự kiến những diễn biến khác
nhau có thể xảy ra tại phiên tòa để có phương án phù hợp. Thực tế, kế hoạch thẩm vấn
được đặt ra căn cứ vào tài liệu, sự phản ảnh trong hồ sơ song diễn biến tại phiên toà lại
có thể khác so với kế hoạch dự kiến. Vì vậy, Thẩm phán phải có khả năng vận dụng
chính xác nhanh chóng, linh hoạt các kiến thức, kinh nghiệm trong giải quyết các
nhiệm vụ thẩm vấn để kịp thời thay đổi hoặc bổ sung kế hoạch thẩm vấn cho phù hợp
với thực tế của phiên toà. Khi xét xử, Thẩm phán phải tập trung chú ý cao độ, tích cực
hoá các hoạt động tư duy của mình nhằm đảm bảo thu nhận và điều chỉnh thông tin.
Nhờ có sự nhanh nhạy, sáng tạo trong quá trình tư duy vụ án mà Thẩm phán có những
căn cứ xác đáng để ra quyết định trong quá trình điều khiển phiên toà.
e) Phẩm chất liên quan đến việc thiết lập quan hệ với người tố tụng khác và
người tham gia tố tụng
Hoạt động xét xử là hình thức giao tiếp tâm lý nhiều chiều diễn ra giữa các
thành viên trong Hội đồng xét xử với các bên tham gia phiên tòa, với bị cáo và với các
đương sự khác. Trong đó, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa luôn giữ vai trò chủ đạo, tổ
chức, phối hợp điều khiển giao tiếp. Do đó, Thẩm phán phải có khả năng thuyết phục
cao trong quan hệ giao tiếp xét xử, như khả năng tiếp xúc thiết lập quan hệ, khả năng
điều khiển quá trình giao tiếp, biết cân bằng nhu cầu, linh hoạt và mềm dẻo trong giao
tiếp.
Trước hết, Thẩm phán cần có sự nhạy cảm cao để nhận thức nhanh chóng
những biểu hiện bên ngoài, những diễn biến tâm lý bên trong của những người tiến
hành tố tụng khác và những người tham gia tố tụng. Chẳng hạn, tại phiên tòa, thông
qua việc quan sát, nhận thức những đặc điểm bên ngoài như hình dáng, lời nói... và

những đặc điểm tâm lý bên trong như trạng thái tâm lý, xúc cảm, tình cảm… của đối
tượng giao tiếp mà Thẩm phán có thể nắm bắt và xác định động cơ, mục đích, thái độ
của họ.
Khả năng điều khiển quá trình giao tiếp tại phiên tòa của Thẩm phán thể hiện ở
sự làm chủ trạng thái tình cảm của bản thân, làm chủ các phương tiện giao tiếp (công
cụ ngôn ngữ). Ðiều chủ yếu trong thuộc tính giao tiếp của Thẩm phán không phải là
mong muốn có được cảm giác dễ chịu trong giao tiếp (nụ cười hiền, cái nhìn thông
cảm, có thiện chí…) mà là kỹ năng biểu lộ khả năng của mình, biểu lộ sự nỗ lực ý chí
và tập trung cao độ nhằm xem xét các chứng cứ của vụ án. Chính điều đó tạo ra sự tôn
trọng của những người tiến hành tố tụng khác, những người tham gia tố tụng và những
người dự phiên tòa đối với Thẩm phán và đối với hoạt động xét xử đồng thời kích
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Thúy

Trang 21


×