Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP kê BIÊN và bán đấu GIÁ tài sản TRONG THI HÀNH án dân sự lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 112 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA HỌC: 2006 - 2010
ĐỀ TÀI

KÊ BIÊN VÀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.



Giảng viên hướng dẫn:
Thầy Trương Thanh Hùng

Sinh viên thực hiện:
Võ Thị Huyền Trang
MSSV: 5062367
LỚP: LK 0664A1.

Cần Thơ
Tháng 4/2010


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN.

...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................


...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
........................................................................................................... ./.


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BĐGTS – Bán đấu giá tài sản
BĐG – Bán đấu giá
BTP – Bộ Tư pháp
BLDS – Bộ luật dân sự
CHV – Chấp hành viên
ĐGV – Đấu giá viên
LTHADS – Luật thi hành án dân sự
NĐ 86/CP – Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 của chính phủ về việc ban hành qui
chế bán đấu giá tài sản
NĐ 164/2004/NĐ-CP – Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính

phủ về kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án
NĐ 05/2005/NĐ-CP – Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/ 01/2005 của Chính phủ
về bán đấu giá tài sản
NĐ 17/2010/NĐ-CP – Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ
về bán đấu giá tài sản
PLTHADS – Pháp lệnh thi hành án dân sự
QSD – Quyền sử dụng
SHTT – Sở hữu trí tuệ
Thông tư 03/2005/TT-BTP - Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn một số qui định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005
của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
THA – Thi hành án
THADS – Thi hành án dân sự.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


 Văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam :
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải
cách tư pháp đến năm 2020.
 Văn bản quy phạm pháp luật:
1. Hiến pháp 1980
2. Hiến pháp 1992
3. Bộ luật tố tụng dân sự 2004
4. Bộ luật dân sự 2005
5. Luật tổ chức tòa án nhân dân 1960
6. Luật tổ chức tòa án nhân dân 1981
7. Luật đất đai 2003

8. Luật khiếu nại tố cáo 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005
9. Luật sở hữu trí tuệ 2005
10. Luật thi hành án dân sự 2008
11. Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989
12. Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993
13. Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004
14. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội Đồng Bộ Trưởng qui định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ tư pháp
15. Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ về việc ban hành qui chế bán
đấu giá tài sản
16. Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá
quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án
17. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản
18. Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
19. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Tp.Hồ Chí Minh
20. Dự thảo Nghị định bán đấu giá sản năm 2009
21. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản


22. Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn một số
qui định của nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của Chính phủ về bán đấu giá
tài sản
23. Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 về tổ chức các tòa án và ngạch thẩm
phán
24. Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946 ấn định thẩm quyền các tòa án và sự phân
công giữa các nhân viên trong tòa án
25. Sắc lệnh số 185-SL ngày 26/5/1948 của Chủ tịch Chính phủ VNDCCH qui định
thẩm quyền các tòa án sơ cấp và đệ nhị ấn định tạm thời trong thời kỳ chiến tranh

26. Sắc lệnh số 85- SL ngày 22 tháng 5 năm 1950
27. Chỉ thị của Tòa án nhân dân tối cao số 01-NCPL ngày 20 tháng 1 năm 1987 về việc
xét xử và THA đối với các khoản bồi thường, bồi hoàn, thanh toán tài sản, cấp dưỡng
trong các bản án hình sự và dân sự
 Sách, báo, Tạp chí:
1. Giáo trình Luật tố tụng dân sự tập 2, Đại học luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân,
2006.
2. Đinh Thị Mai Phương, Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, Bộ Tư Pháp –
Viện khoa học pháp lý.
3. Lê Thu Hà, Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực
tiễn áp dụng.
4. Nguyễn Ngọc Điện: Một số vấn đề lý luận về các phương pháp phân tích luật viết,
Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2006.
5. Phan Trung Hiền: Để hoàn thành tốt luận văn ngành luật, Nxb. Cính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009.
6. Trương Thanh Hùng, Tập bài giảng Luật tố tụng dân sự, Đại học Cần Thơ, 2006.
7. Án tồn đọng và nổi lo của bộ trưởng, Báo pháp luật TP.Hồ Chí Minh số 13 ngày
13/01/2010.
8. Dùng văn bản giả thi hành án dân sự, Báo lao động số ra ngày 18/10/2009.
9. Trúng đấu giá mà bỏ, phải đền bù, Báo sài gòn giải phóng số ra ngày 18/8/2009.
10. Tạp chí dân chủ và pháp luật.
 Các trang thông tin điện tử:
1. />ngày 2/1/2010]
2. .[xem ngày 2/1/2010]


xem ngày
5/1/2010]
3. />ault/aspx.[xem ngày 5/1/2010]
4. />ngày 8/1/2010]

/>.[xem ngày 12/1/2010]
5. ngày 17/1/2010]
6. />P_root=me&cmd=item&ID=13332.[xem ngày 17/1/2010]
7. />STANCE_XbBg&p_p_action=1&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=col
umn2&p_p_col_pos=0&p_p_col_count=1&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_INSTANC
E_XbBg_struts_action=%2Fcmsviewportlet%2Fview&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portl
ets_INSTANCE_XbBg_arcId=4132[xem ngày 18/1/2010].
8. />STANCE_XbBg&p_p_action=1&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=col
umn2&p_p_col_pos=0&p_p_col_count=1&_cmsviewportlet_WAR_vsi_portlets_INSTA
NCE_XbBg_struts_action=%2Fcmsviewportlet%2Fview&_cmsviewportlet_WAR_vsi_p
ortlets_INSTANCE_XbBg_arcId=4125.[xem ngày 20/1/2010]
9. Trang thông tin công tác thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.[xem ngày 24/1/2010]
ngày
27/1/2010]
10. />aspx.[xem ngày 27/1/2010]
11. />
ngày

31/1/2010]
12. />NSTANCE_XbBg&p_p_action=1&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=c
olumn.[xem ngày 4/2/2010]
13. aspx.[xem ngày 5/2/2010]


/>x.[xem ngày 7/2/2010]
14. />
ngày

10/2/2010]
15. ngày 10/2/2010]

16. ngày 13/2/2010]
17. [xem
ngày 17/2/2010]
18. />%BA%A5u_gi%C3%A1_tr%E1%BB%B1c_tuy%E1%BA%BFn.[xem ngày 18/2/2010]
19. ngày 25/2/2010]
20. />[xem ngày 25/2/2010]
21. POC19/ban-dau-gia-tai-san-sap-co-co-chephap-ly-moi.htm.[xem ngày 28/2/2010]
22. />ID=0&ArticleID=ARTICLE09070024.[xem ngày 28/2/2010]
23. />[xem ngày 1/3/2010]
24. ngày 3/3/2010]
25. ngày 4/3/2010]
26. />emid=117.[xem ngày 4/3/2010]
27. />moi+truong+van+chua+on+dinh&meta=&aq=f&aqi=&aql=&oq=&gs_rfai=.[xem

ngày

4/3/2010]
28. />xem ngày 6/3/2010]
29. />ews&category=&id=67&topicid=920.[ xem ngày 7/3/2010]


30. ngày
9/3/2010]
Một số tài liệu được cung cấp bởi Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.

26.500 tỷ đồng là số tiền thi hành án dân sự các cấp phải thu trong năm 20091
để góp phần vào tiến trình thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp. Nhận thức được tầm
quan trọng đặc biệt của công tác thi hành án dân sự nên ngay từ Hiến pháp năm 1980
Nhà nước ta đã khẳng định: “các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu
lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (điều 137), cụ
thể tinh thần trên Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 đã ra đời. Kế thừa tinh thần
trên giai đoạn Hiến pháp năm 1992 đã ban hành pháp lệnh thi hành án dân sự 1993,
Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 và hiện nay là Luật thi hành án dân sự 2008. Trong
công cuộc xây dựng đất nước đòi hỏi pháp luật phải được hoàn thiện, có tính pháp
điển cao, trong đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng liên quan trực tiếp đến
trật tự kỷ cương pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Có thể nói thi hành án là một mắc xích quan trọng, là công đoạn cuối cùng
trong dây chuyền tố tụng dân sự, nó có ý nghĩa hết sức to lớn trong hoạt động tư pháp
nói chung và trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng, đảm bảo cho bản án, quyết
định của Tòa án được chấp hành, góp phần giữ vững tính pháp chế xã hội chủ nghĩa,
ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Thi
hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã hội, do đó đòi
hỏi các ngành, các cấp cần phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời để tìm ra giải pháp
đúng đắn cho cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan trọng của hoạt động
thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như sau: “xây dựng cơ chế
đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan
hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp
hành”. Thế nhưng trên thực tế không phải bất cứ một bản án, quyết định nào có hiệu
lực pháp luật cũng được thi hành. Nhiều người thường nghĩ đơn giản khi vụ việc tranh
chấp đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật
thì đương nhiên được thi hành, do vậy họ không biết hoặc không quan tâm đến pháp
luật thi hành án dân sự. Sự thật là để tất cả các bản án, quyết định đều được thi hành
CHV còn phải dùng đến các biện pháp cưỡng chế để buộc đương sự phải chấp hành

theo những bản án, quyết định đó. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành
án dân sự 2008 điều chỉnh thì biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản là phức tạp
và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân sự 1

Án tồn đọng và nổi lo của Bộ trưởng, Báo pháp luật TP. Hồ Chí Minh, số 13, ngày 13-01-2010.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

1


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ cho thấy
công tác thi hành án đã dần đi vào lề lối. Cụ thể là những bước cải cách đột phá như
việc định giá tài sản kê biên là thuộc về tổ chức thẩm định giá theo Luật thi hành án
dân sự 2008 thay vì là Hội đồng thẩm định giá như theo Pháp lệnh thi hành án dân sự
2004, rút ngắn thời gian khởi kiện từ 3 tháng theo Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004
xuống còn 30 ngày theo Luật thi hành án dân sự 2008 và những qui định mới vừa rõ
ràng vừa mang tính nhân đạo khi tiến hành kê biên các loại tài sản của đương sự để thi
hành án. Tuy nhiên không giống với các biện pháp cưỡng chế khác, biện pháp cưỡng
chế kê biên gắn liền với hoạt động xử lý tài sản mà tiêu biểu là hoạt động bán đấu giá.
Điều đáng nói ở đây là hai hoạt động này tuy liền kề nhau nhưng lại được điều chỉnh
ở hai văn bản pháp luật khác nhau nên thiếu sự đồng bộ và thống nhất khi vận dụng.
Riêng pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều bất
cập như trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản kê biên còn nhiêu khê, trong phiên đấu giá
còn xảy ra nhiều hành vi vi phạm mà chưa có cách giải quyết…Vấn đề đặt ra là cần
phải có một cơ chế pháp lý chặt chẽ, phù hợp giữa pháp luật thi hành án dân sự và

pháp luật bán đấu giá tài sản để đảm bảo cho hoạt động kê biên và bán đấu giá được
diễn ra nhanh chóng, hiệu quả và luôn là chìa khóa hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền
lợi của người dân.
Thấy rằng để đạt được chỉ tiêu 26.500 tỷ đồng trong thời gian tới chúng ta cần
phải nhìn lại hành lang pháp lý về thi hành án dân sự, đặc biệt là những qui định về
trình tự thủ tục khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự. Những qui định mới của Luật thi hành án dân sự 2008 và gần nhất
là Nghị định 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản có thực sự ổn định và chặt chẽ?
Vì những lý do trên người viết chọn đề tài “kê biên và bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trọng tâm của đề tài được người viết xác định là những quy định chung của
pháp luật về kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự cùng với các văn
bản có liên quan. Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng tìm ra những vấn đề bất cập trong khung pháp lý về hoạt động kê biên và bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Từ đó người viết đưa ra một vài đề xuất để khắc phục những hạn chế đó,
góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, tạo niềm tin vững chắc của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

2


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.


3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với vụ việc mà CHV phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản dựa vào Luật thi hành án dân sự
2008 và Nghị định 05/2005/NĐ-CP, đề tài không nghiên cứu các biện pháp cưỡng chế
khác và xử lý tài sản không thông qua thủ tục bán đấu giá. Trong phạm vi đó người
viết đi sâu nghiên cứu những quy định chung của pháp luật khi tiến hành kê biên và
bán đấu giá tài sản CHV và ĐGV bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt. Bên cạnh đó là
những qui định vừa mang tính chế tài vừa mang tính bảo vệ đối với các đương sự,
những người có liên quan và những người tham gia đấu giá tài sản thi hành án dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Nhằm hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất, người viết đã vận dụng một vài
phương pháp nghiên cứu để làm công cụ phục vụ cho việc nghiên cứu của mình như
sau:
- Phương pháp phân tích luật viết để tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành
về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu, vận dụng các quy định của pháp luật về kê
biên và bán đấu giá tài sản để đối chiếu với thực tiễn.
- Phương pháp liệt kê, thống kê, sử dụng các trang web để tìm kiếm tài liệu.
5. Kết cấu đề tài.
Nội dung nghiên cứu của đề tài này được thể hiện qua 3 chương và kết cấu của
mỗi chương được thể hiện như sau:
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN VÀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.
Chương này người viết tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về biện
pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thông qua việc
nghiên cứu về lịch sử phát triển, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, mối quan hệ giữa kê
biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
CHƯƠNG 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN.
THỰC TIỄN, NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN.
Ở chương 2, người viết đi vào phân tích những qui định của pháp luật về hình

thức kê biên nhằm tìm ra những mặt hạn chế cũng như những bước tiến bộ mà Luật
thi hành án dân sự 2008 đạt được. Bên cạnh đó với mục đích vận dụng những qui định
của pháp luật để đối chiếu với thực tế nhằm đánh giá việc thi hành pháp luật của cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền và các đương sự. Song song đó người viết đi vào tìm
hiểu về thực tiễn để tìm ra nguyên nhân của vấn đề cũng như có những giải pháp
nhằm khắc phục một số điểm bất cập mà pháp luật hiện hành mắc phải.
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

3


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

CHƯƠNG 3: BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ. THỰC TIỄN, NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN.
Chương 3 người viết tập trung nghiên cứu những qui định của pháp luật về
hình thức bán đấu giá tài sản trong thi hành hành án dân sự trên nền tảng những qui
định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá sản, đồng thời
so sánh với Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu giá tài sản có
hiệu lực ngày 01/7/2010 để thấy được những bất cập mà Nghị định 05/2005/NĐ-CP
đang mắc phải. Đồng thời, người viết cũng tìm hiểu về thực tiễn để tìm ra nguyên
nhân và có những hướng hoàn thiện phù hợp hơn cho lĩnh vực còn mới mẽ này.
* Ngoài ra, Bài luận văn còn có Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo. Do có phần hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên trong quá
trình nghiên cứu đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp tận tình của quý Thầy, Cô và các bạn để người viết bổ sung
thêm kiến thức và bài luận văn được hoàn chỉnh hơn. Qua đây, người viết xin gởi lời
cảm ơn chân thành đến Thầy Trương Thanh Hùng, người đã hướng dẫn tận tình để

người viết hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này. Xin chân thành Cảm ơn Thầy!

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

4


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN VÀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển các qui định của pháp luật về kê biên và
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
1.1.1 Giai đoạn trước năm 1993
Thủ tục thi hành án dân sự trước ngày 01/7/1993 thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân và được coi là một giai đoạn của thủ tục tố tụng. Có thể chia các giai đoạn
hình thành về thủ tục kê biên và BĐG như sau:
- Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1960
Cách mạng tháng 8 năm 1945 giành được thắng lợi rực rỡ đã đánh dấu một
bước ngoặc quan trọng trong lịch sử nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nước nhà
độc lập, công cuộc xây dựng đất nước càng được tăng cường. Bên cạnh việc đẩy
mạnh phát triển về kinh tế, công tác xây dựng pháp luật cũng được chú trọng không
kém. Từ ngày đầu thành lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới
trong đó có Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 về tổ chức các Tòa án và
ngạch thẩm phán, một văn bản qui định về tổ chức, thủ tục giải quyết vụ án của Tòa
án. Tiếp đó Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946 ấn định thẩm quyền các Tòa án
và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Hai Sắc lệnh này là những văn bản

tiền đề về tố tụng dân sự của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà đặc biệt là
những manh nha đầu tiên về vấn đề THA. Theo đó Sắc lệnh số 13 qui định: “ban tư
pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của các thẩm phán cấp trên” (điều 13). Ở
giai đoạn này nghĩa vụ thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên s ẽ do ban
tư pháp xã đảm nhiệm. Ngoài ra, Sắc lệnh số 185-SL ngày 26/5/1948 của Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa qui định thẩm quyền các Tòa án sơ cấp và
đệ nhị ấn định tạm thời trong thời kỳ chiến tranh cũng qui định: “Về dân sự, thẩm
phán sơ cấp có quyền ra mệnh lệnh quyết định các phương pháp bảo thủ khẩn cấp,
không có giới hạn nào” (điều thứ 8). Đến năm 1950, Chủ tịch Phủ nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ban hành Sắc lệnh số 85-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950. Theo
điều 14 của Sắc lệnh số 85 thì “việc kháng cáo không làm hoãn sự thi hành bản án của
Tòa án nhân dân cấp huyện”, với qui định trên cho thấy thời kỳ này việc thi hành bản
án của Tòa án sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Hay ở điều 19
Sắc lệnh 85 qui định: “Tòa án nhân dân cấp huyện có quyền công tác THA. Thẩm
phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nghĩa vụ đem chấp hành các bản án hình
về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án nhân dân cấp huyện
hay Tòa án cấp trên đã tuyên”. Từ những qui định của pháp luật ta có thể thấy lúc bấy
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

5


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

giờ vấn đề về THA còn chưa được quan tâm nhiều, biện pháp cưỡng chế kê biên và
BĐG chưa được nhắc đến như là một biện pháp nghiệp vụ cần thiết trong công tác

THADS. Biện pháp này chỉ được biểu hiện dưới hình thức là “phát mại”, theo điều 19

Sắc lệnh số 85 thì “Việc phát mại bất động sản mà phân phối tiền bán được cũng do
Tòa án nhân dân cấp huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác
ở nhiều huyện khác nhau thì biện lý sẽ chỉ định một thẩm phán huyện để việc phát
mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ”.
Nhìn chung, việc qui định về vấn đề THA trong giai đoạn từ năm 1945 đến
trước năm 1960 còn quá ít, chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của quá trình
THADS trong việc giải quyết vụ kiện. Do vấn đề này còn chưa được đề cao nên việc
qui định các biện pháp cưỡng chế mà đặc biệt là biện pháp kê biên và BĐG vẫn chưa
sử dụng đến, chỉ qui định về vấn đề phát mại bất động sản mà chưa qui định về các
loại tài sản khác. Những vấn đề về tố tụng dân sự thời kỳ này còn được các văn bản
pháp luật qui định tản mạn, nhưng đây là giai đoạn mang tính nguyên tắc đặt nền
móng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật về THA trong tố tụng dân sự.
- Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 1993
Giai đoạn này miền Bắc đã giành được độc lập, miền Nam vẫn còn bị đặt dưới
sự thống trị của Đế quốc Mỹ và chính quyền bù nhìn Sài Gòn. Từ năm 1960 trở đi,
chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng mới, nhưng cũng
chỉ tập trung để bảo vệ lợi ích của chính quyền tay sai phản động. Cũng ở giai đoạn
này lần đầu tiên Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 được ban hành, đánh dấu
một bước ngoặc quan trọng trong ngành tư pháp. Theo điều 24 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 1960 qui định: “Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp
hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định về dân sự…” Đến đây,
việc THA đã do nhân viên chấp hành án trong các Tòa án địa phương thực hiện chứ
không còn thuộc riêng thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nữa. Sau khi Tòa
án nhân dân tối cao được thành lập, các văn bản tố tụng là cơ sở cho hoạt động giải
quyết vụ án dân sự là các công văn, chỉ thị, điều lệ…và đặc biệt là các thông tư do
Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Riêng về công tác THA - giai đoạn cuối cùng trong
thủ tục giải quyết vụ kiện dân sự thuộc trách nhiệm của Tòa án nhân dân theo qui định
của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Thủ tục và lề lối làm việc trong
công tác THA được qui định trong đề án năm 1968 của Tòa án nhân dân tối cao về
một số vấn đề cần được chú ý để đẩy mạnh công tác THA và nhiều văn bản hướng

dẫn khác như Thông tư số 187/TC ngày 13/10/1972 của Tòa án nhân dân tối cao2.

2

Tiến sĩ Lê Thu Hà - bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng .

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

6


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

Đến năm 1980, sau khi Hiến pháp được ban hành, nhiều văn bản pháp luật qui
định về tố tụng dân sự cũng ra đời như Luật tổ chức Tòa án năm 1981. Điều 13 Luật
tổ chức Tòa án nhân dân 1981 qui định: “Những bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn
trọng. Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan Công an, các trại giam, các
CHV và các cơ quan hữu quan khác phải nghiêm chỉnh chấp hành những bản án,
những qui định của Tòa án nhân dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi
hành nhiệm vụ đó”. Nghị định của Hội đồng Bộ Trưởng số 143-HĐBT ngày
22/11/1981 qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức BTP theo đó BTP
có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “Trình Hội đồng Bộ Trưởng ban hành hoặc ban
hành theo thẩm quyền của mình về các qui chế chấp hành án”. Bên cạnh đó còn có
Thông tư 637 ngày 28/5/1985 của BTP. Chỉ thị của Tòa án nhân dân tối cao số 01NCPL ngày 20 tháng 01 năm 1987 về việc xét xử và THA đối với các khoản bồi
thường, bồi hoàn, thanh toán tài sản, cấp dưỡng trong các bản án hình sự và dân sự
qui định về THA như sau: “CHV căn cứ vào giá thóc, gạo ở thời điểm THA, qui đổi
số thóc (hoặc gạo) thành tiền để các đương sự thi hành”.

Đến năm 1989, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự (có hiệu
lực ngày 01/01/1990 ), tạo bước phát triển mới trong pháp luật Tố tụng dân sự Việt
Nam. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên được Nhà nước ta ban hành qui
định các vấn đề về THA, có hiệu lực cao. Việc ban hành văn bản pháp luật là Pháp
lệnh thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Trong PLTHADS 1989, những qui định về kê biên và
BĐG đã được qui định rõ hơn so với những văn bản trước đây. Pháp lệnh đã dành 6
điều từ điều 23 đến điều 28 để qui định về kê biên và BĐGTS. Việc qui định về trình
tự, thủ tục kê biên và BĐG khá rõ ràng. Biện pháp cưỡng chế kê biên được qui định
đầu tiên cho thấy tầm quan trọng của kê biên trong giai đoạn này đã được đề cao.
Pháp lệnh thi hành án dân sự đã xác định những điều kiện pháp lý để bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, nhưng thẩm quyền này vẫn còn thuộc Tòa án
nhân dân…Theo khoản 2 điều 15 của PLTHADS 1989 thì: “Chánh án Tòa án phải
chủ động ra quyết định THA đối với các bản án hoặc quyết định của Tòa án về trả lại
tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và
án phí”. Ngoài ra còn có Thông tư liên ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và BTP số 06/1989/TTLT ngày 07/12/1989 hướng dẫn thực hiện một
số qui định của Pháp lệnh thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản pháp
luật được ban hành để hướng dẫn về vấn đề này như công văn của Tòa án nhân dân tối
cao số 04-CT/TAND ngày 03/5/1990 về việc thi hành án.
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

7


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

Tóm lại, các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành trong thời kỳ này

về vấn đề THADS mà đặc biệt là về biện pháp cưỡng chế kê biên và BĐG đã rõ ràng.
Tuy vậy, các qui định này còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, do trong thời kỳ này nền
kinh tế của nước ta còn tập trung, bao cấp, kinh tế thị trường chưa được mở rộng, sự
giao lưu, hợp tác quốc tế còn hạn chế nên các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án
dân sự như kê biên và BĐG vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Các văn bản về vấn đề
này còn qui định rải rác, mặc dù đã ban hành được Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989
nhưng vẫn chưa phát huy được hết tác dụng trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân.
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1993 trở về sau.
Từ ngày 01/7/1993, nhiệm vụ thi hành án được chuyển từ Tòa án nhân dân
sang cho hệ thống cơ quan thi hành án dân sự thuộc BTP. Điều này thể hiện sự phát
triển của pháp luật thi hành án dân sự đã sang một giai đoạn mới.
- Giai đoạn Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993
Nhằm thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của Nghị quyết VI năm 1986
của BCH trung ương Đảng, làm cho những quy định của pháp luật phù hợp với tình
hình mới thì Quốc Hội khóa VIII, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến pháp
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992 trong phiên họp ngày 15/4/1992.
Để cụ thể hóa những quy định trong Hiến pháp năm 1992 thì Pháp lệnh thi hành án
dân sự năm 1993 được ban hành. Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn từ năm
1989 đến năm 1993 mà đã có hai Pháp lệnh thi hành án dân sự ra đời. Cho thấy trong
giai đoạn này, công tác thi hành án đã được chú trọng nhiều hơn. PLTHADS 1993 qui
định về cơ quan thi hành án và CHV, các qui định chung về thi hành án dân sự cũng
như những qui định cụ thể về thủ tục thi hành án dân sự và các biện pháp cưỡng chế
thi hành. Các điều từ 29 đến điều 36 chương IV của PLTHADS 1993 qui định khá chi
tiết về vấn đề kê biên và BĐGTS. Bên cạnh đó, hàng loạt các Nghị định và Thông tư
ban hành về vấn đề kê biên và BĐG như: Nghị định của Chính phủ số 69-CP ngày
18/10/1993 qui định thủ tục thi hành án dân sự, theo đó từ điều 15 đến điều 20 chương
III qui định về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Nghị định của chính phủ
số 30-CP ngày 02/6/1993 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý
công tác thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự và CHV. Thông tư liên ngành số 02TTLN ngày 17/9/1993 của BTP, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn về việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án. Nghị định 86/CP ngày 19/12/1996 ban

hành qui chế bán đấu giá tài sản. Thông tư liên tịch số 01/1997 hướng dẫn việc xét xử
và thi hành án về tài sản. Thông tư liên tịch số 119/1997 hướng dẫn kê biên tài sản của
doanh nghiệp để đảm bảo thi hành án.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

8


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

Như vậy, trong thời kỳ này nhiều văn bản pháp luật về thi hành án dân sự mà
cụ thể về vấn đề kê biên và BĐG được ban hành. Nhìn chung những quy định về kê
biên và BĐGTS trong thi hành án dân sự ở giai đoạn này tiến bộ hơn so với những quy
định của giai đoạn trước năm 1993. Cụ thể như đã ban hành ra PLTHADS 1993 và rất
nhiều những văn bản hướng dẫn thi hành như đã liệt kê.
- Giai đoạn Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế - xã hội Việt Nam trong những
năm đầu của thế kỷ XXI đã không ngừng phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
thần tốc đó cũng đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta những khó khăn, thách thức và những
yêu cầu mới về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Nhận thấy
PLTHADS 1993 đến nay được coi là không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội, không theo kịp tiến trình đổi mới của đất nước, đặt biệt là các chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Để đáp ứng những yêu cầu đó,
Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã ban hành Bộ luật tố tụng
dân sự 2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005. Việc Bộ luật tố tụng dân sự ra đời đã đánh
dấu bước phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự. Từ đây, qui trình tố tụng
dân sự tại các Tòa án đã có sự thay đổi theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch.
Trong đó, đương sự có vai trò quyết định và chủ động trong việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Cũng trong Bộ luật này, vấn đề thi hành án dân sự
đã được qui định (từ điều 375 đến điều 383), tuy đây chỉ là những vấn đề mang tính
nguyên tắc.
Để đưa các qui định của Hiến pháp vào thực tiễn cuộc sống, đã có nhiều văn
bản qui phạm pháp luật ban hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, biểu hiện rõ nhất là việc Ủy Ban Thường Vụ Quốc
Hội ban hành PLTHADS 2004 thay thế cho PLTHADS 1993. So với PLTHADS
1993, PLTHADS 2004 đã soạn thảo và ban hành trong giai đoạn nền kinh tế có sự
phát triển vượt bậc, các giao dịch về tài sản, hàng hóa, dịch vụ…đã trở nên rất phong
phú và đa dạng, sự bình đẳng giữa các chủ thể và các quyền cơ bản của công dân được
pháp luật công nhận đầy đủ cũng như đảm bảo thực thi trong cuộc sống. Trong
PLTHADS 2004, vấn đề kê biên và BĐG đã được quan tâm đúng mức. Điều này thể
hiện được tầm quan trọng của biện pháp cưỡng chế kê biên và BĐG trong công tác thi
hành án dân sự. Ngoài PLTHADS 2004 trên còn có các văn bản pháp luật khác qui
định về kê biên và BĐG như: Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê
biên và bán đấu giá QSD đất để đảm bảo thi hành án. Nghị định số 173/2004/NĐ-CP
ngày 30/9/2004 của Chính phủ qui định về thủ tục cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành
chính trong thi hành án dân sự. Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

9


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cán bộ công chức làm công tác
thi hành án dân sự. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài
sản. Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày 04/5/2005 hướng dẫn một số qui định của

Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
Thông tư số 07/2007/TT-BTP hướng dẫn về việc thông báo kê biên tài sản thi hành án
và cung cấp thông tin về kê biên tài sản tại các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản
của cục đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc BTP…
Có thể thấy biện pháp cưỡng chế kê biên và BĐG trong thời kỳ này đã được
vận dụng phổ biến. Rất nhiều văn bản pháp luật qui định về vấn đề đó tạo điều kiện
cho các cơ quan có thẩm quyền cũng như các đương sự thi hành đúng chức năng,
nhiệm vụ và bảo vệ được lợi ích cho chính mình. Các văn bản này là cơ sở pháp lý để
cơ quan thi hành án tiến hành các thủ tục thi hành án và các biện pháp cưỡng chế thi
hành án. Nhưng do đây chỉ là những văn bản dưới luật chủ yếu là các Nghị định,
Thông tư, cao nhất cũng chỉ là Pháp lệnh nên giá trị pháp lý chưa cao.
* Nhìn chung, biện pháp cưỡng chế bằng hình thức kê biên và BĐG trong thi
hành án dân sự giai đoạn trước năm 2008 có những ưu điểm nhất định, nhưng vẫn
không tránh khỏi những khuyết điểm làm cho những qui định này không còn phù hợp
với tình hình mới. Có thể nhận thấy ở cả ba Pháp lệnh: PLTHADS 1989, PLTHADS
1993, PLTHADS 2004 thì biện pháp kê biên và BĐG được qui định khá tập trung,
ngắn gọn và dễ hiểu. Trình tự, thủ tục để tiến hành kê biên và BĐG đơn giản. Nhưng
bên cạnh đó, các Pháp lệnh này vẫn còn bộc lộ những hạn chế như không qui định rõ
các hình thức kê biên đối với từng loại tài sản cụ thể dẫn đến việc khi thi hành trên
thực tế còn gặp nhiều khó khăn do sự nhận thức “chênh nhau” giữa các CHV về luật.
Có những loại tài sản khác nhau cần phải có những biện pháp kê biên khác nhau. Nếu
cứ qui định chung trong một điều luật như PLTHADS 1989 ở điều 23, PLTHADS
1993 ở điều 29 và PLTHADS 2004 ở điều 41, từ đó các loại tài sản khác nhau sẽ được
kê biên trong cùng một trình tự giống nhau, như vậy là không phù hợp, dẫn đến tình
trạng kê biên kéo dài hoặc không thể tiến hành kê biên được.
Đối với trường hợp BĐGTS kê biên thì ở PLTHADS 1989 và PLTHADS 1993
chỉ qui định việc xử lý tài sản bằng hình thức BĐG. Qui định như vậy là chưa hợp lý
bởi có những tài sản có giá trị nhỏ hoặc những loại mau hỏng mà việc BĐG lại phức
tạp, kéo dài. Nếu cứ kê biên thì phải BĐG sẽ gây thiệt hại cho người được thi hành án
và tốn kém chi phí cho người phải thi hành án. Đến PLTHADS 2004 đã có qui định

về việc “CHV tổ chức bán đối với động sản có tổng giá trị dưới 500.000 đồng hoặc tài
sản mau hỏng”. Đến đây đã có sự tiến bộ hơn so với hai Pháp lệnh trước. Nhưng ở
Pháp lệnh này lại không qui định cho phép đương sự tự thỏa thuận việc chọn tổ chức
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

10


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.
BĐG nên đã làm ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự. Trên đây là một

trong những nguyên nhân chính yếu dẫn đến việc ban hành Luật thi hành án dân sự
2008.
- Giai đoạn Luật thi hành án dân sự 2008
Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 sau gần 5 năm triển khai thực hiện đã thu
được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, nhận thấy những văn bản pháp luật này chỉ
mới dừng lại ở việc qui định những nguyên tắc, thủ tục cơ bản mà còn thiếu những
qui định cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành án. Mặt khác, so với đòi hỏi của thực
tiễn và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới thì PLTHADS 2004 đã bộc lộ
nhiều bất cập, hạn chế. Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn đến
án tồn đọng, làm giảm hiệu lực của bản án, hiệu quả quản lí của Nhà nước; quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án
chưa được bảo đảm thực hiện tốt.
Để khắc phục những hạn chế trên, tiếp tục thực hiện các qui định về trình tự,
thủ tục thi hành án, áp dụng đúng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với từng
trường hợp cụ thể. Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự
đồng thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp trong
lĩnh vực thi hành án nên ngày 14/11/2008 Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ

Nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật thi hành án dân sự, một văn bản có giá trị pháp lý
cao về vấn đề thi hành án. Trong Luật này, vấn đề kê biên và BĐG đã qui định cụ thể
và chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cơ quan thi hành án tiến hành các thủ tục
về kê biên và BĐGTS. Bên cạnh đó còn có Nghị định số 58/2009/NĐ-CP của Chính
phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về
thủ tục thi hành án dân sự (NĐ 58/2009/NĐ-CP).
Để thực hiện tốt chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế trong những quan hệ
kinh tế, thương mại, đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới, đòi hỏi phải có
một cơ chế pháp lý hoàn thiện để giải quyết triệt để các tranh chấp phát sinh trong tất
cả các lĩnh vực. Việc ban hành LTHADS 2008 đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của
xã hội. Ở thời kỳ này, vấn đề thi hành án mà đặc biệt là biện pháp cưỡng chế kê biên
và BĐG đã được đề cao. Giúp Tòa án giải quyết được các tranh chấp phát sinh và
hoàn thành việc đưa bản án, quyết định đó vào thực tế cuộc sống, tạo niềm tin cho
người dân vào tính nghiêm minh của pháp luật.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

11


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

1.2 Khái niệm kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
1.2.1 Khái niệm về kê biên tài sản
Kê biên và BĐG là một trong những biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân
sự. Vậy thi hành án dân sự là gì? Các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự
như thế nào? Phải tìm hiểu rõ những khái niệm này, từ đó giúp người viết hiểu được
cụ thể về khái niệm và đặc điểm của kê biên và BĐG.

Có thể nói thi hành án dân sự là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế. Hoạt động thi hành án đã
và đang trực tiếp góp phần giữ vững tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công
bằng và củng cố lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Từ đó, người
viết có thể nêu lên được khái niệm thi hành án dân sự như sau:
Xét ở góc độ pháp lý thì: “THA dân sự là hoạt động do cơ quan thi hành án dân
sự tiến hành theo những thủ tục, trình tự nhất định nhằm đưa các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tòa án ra để thi hành”.
Hoặc thi hành án là tổng hợp các hành vi pháp lý thi hành thành một giai đoạn
độc lập của quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Đây là giai đoạn kết thúc quá
trình bảo vệ quyền lợi của đương sự trong đó các bản án, quyết định của Tòa án đưa ra
thi hành3.
THA là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Một vụ việc dù đã được điều
tra chính xác, được xét xử công minh và đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được
đưa ra thi hành thì cũng không có giá trị đối với các đương sự, không bảo vệ được
quyền và lợi ích chính đáng của người dân cũng như không thể hiện được tính nghiêm
minh của pháp luật. Có thể nhận thấy giai đoạn THA là giai đoạn tuy không phải là
quan trọng nhất nhưng nếu thiếu đi giai đoạn này thì dù pháp luật có công minh và
hoàn thiện đến đâu đi nữa cũng không thể đem lại lợi ích cho người dân. Nếu ở các
giai đoạn trước là cơ sở pháp lý để tìm ra được sự thật của một vụ việc và dựa vào sự
thật đó để đưa ra bản án, quyết định thì giai đoạn thi hành án là giai đoạn để đưa bản
án, quyết định đã có hiệu lực đó thực sự đi vào cuộc sống. Hay nói cách khác, các giai
đoạn trước như: hòa giải, xét xử…là “lý thuyết” thì giai đoạn THA là giai đoạn “thực
hành”. Cho nên để tính pháp chế được giữ vững thì các giai đoạn này phải đồng nhất
với nhau theo một trình tự luật định.
Tuy vậy, không phải tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án
đều được chấp hành theo đúng qui định của pháp luật. Có những bản án, quyết định
dù đã có hiệu lực pháp luật, được đưa ra thi hành nhưng các đương sự vẫn cố tình
3


Trương Thanh Hùng - tập bài giảng luật tố tụng dân sự 2, năm 2006, Khoa Luật - Trường Đại Học Cần Thơ.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

12


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

không thực hiện khiến cho bản án, quyết định dù đã có hiệu lực pháp luật nhưng cũng
chỉ là một “tờ giấy” không hơn, không kém. Do đó để giải quyết được tận gốc vấn đề
này, cơ quan thi hành án đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc người phải thi
hành án nghiêm chỉnh thi hành các bản án theo đúng qui định của pháp luật.
Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự:
Theo khoản 2 điều 9 LTHADS 2008 thì: “Người phải thi hành án có điều kiện
thi hành mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án…”.
Vậy cưỡng chế thi hành án được hiểu là biện pháp cưỡng bức, bắt buộc của cơ
quan thi hành án do CHV4 quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi
hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định
của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi
hành mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do CHV ấn định hoặc trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Hay cưỡng chế thi hành án dân sự là những biện pháp được pháp luật qui định,
do cơ quan thi hành án áp dụng, nhằm buộc người phải thi hành án thi hành đúng bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án5. Quyết định về biện pháp cưỡng
chế thi hành án chỉ được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án nhưng lại trốn tránh không tự nguyện thi hành hoặc khi người phải
thi hành án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản. Việc qui định biện pháp cưỡng chế

trong trường hợp này là rất hợp lý và kịp thời, tránh được tình trạng người phải thi
hành án có tài sản để thi hành nhưng cố tình chậm trễ nhằm có thời gian để tẩu tán tài
sản hoặc không có ý định thi hành, gây bất lợi cho người được thi hành và những
người có liên quan. Ở đây, cần phải hiểu có điều kiện thi hành án mà không thi hành
là trường hợp “người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài
sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án”(khoản 6 điều
3 LTHADS 2008) nhưng không tự nguyện thi hành hoặc cố tình tẩu tán tài sản đó
bằng cách bán, trao đổi, tặng cho hay chuyển QSD cho người khác hoặc trường hợp cố
ý hủy hoại tài sản vì những nguyên nhân chủ quan của người phải thi hành án.
Dưới góc độ lý luận, nghĩa vụ buộc phải thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối
với người phải thi hành án là hết sức cần thiết trong hoàn cảnh người phải thi hành án
cố tình trốn tránh nghĩa vụ của mình. Trong hoạt động THADS, các bên đương sự có
quyền tự định đoạt, thỏa thuận nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được bản án,
4

Theo qui định tại khoản 1 điều 17: “chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản
án, quyết định theo qui định tại điều 2 của Luật thi hành án dân sự 2008”.
5
Trương Thanh Hùng - tập bài giảng luật tố tụng dân sự 2, năm 2006, Khoa Luật - Trường Đại Học Cần Thơ.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

13


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

quyết định của Tòa án ghi nhận. Quyền tự định đoạt cũng như phương thức thỏa thuận

đó của đương sự phải tuân thủ theo qui định của pháp luật, không được trái với đạo
đức xã hội, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của người khác. Chính vì thế pháp luật
qui định khi bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành thì người phải thi
hành án phải tự nguyện thi hành. Nếu không tự nguyện thi hành khi có đủ điều kiện
thi hành và đã hết thời hạn tự nguyện theo qui định của pháp luật thì đương nhiên phải
bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án; với mục đích là để giải quyết những yêu
cầu của đương sự và bảo đảm cho quá trình thi hành án được diễn ra, việc quyết định
áp dụng biện pháp cưỡng chế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình thi hành
án, góp phần đảm bảo tính thực tế, thiết thực cho việc thi hành những bản án, quyết
định đã có hiệu luật pháp luật.
Trong các biện pháp cưỡng chế theo qui định của pháp luật THADS thì người
viết chỉ nghiên cứu đến biện pháp cưỡng chế là kê biên và BĐGTS trong thi hành án
dân sự.
Khái niệm kê biên tài sản:
Từ thực tế cho thấy, nền kinh tế càng phát triển, thì đời sống của người dân
càng được nâng cao. Để bảo vệ lợi ích cho chính mình, họ không ngần ngại gây thiệt
hại đến lợi ích của người khác, thậm chí họ có thể dùng những thủ đoạn xấu chỉ cốt để
đem lợi cho mình. Từ những nhận thức sai lệch đó khiến cho càng ngày càng có nhiều
vụ kiện dân sự, hình sự xảy ra. Và khi đã đưa ra Tòa án thì tất yếu có “người thắng, kẻ
thua”. Khi ấy, người thua sẽ phải thực hiện nghĩa vụ theo các bản án, quyết định của
Tòa án. Nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ có biện pháp cưỡng chế dành cho họ.
Trong giai đoạn hiện nay, biện pháp cưỡng chế kê biên và BĐGTS tuy ít được áp dụng
hơn so với các biện pháp khác nhưng đã góp phần giải quyết được lượng án tồn đọng
trong quá trình thi hành án dân sự.
Vậy kê biên là gì? Có tác dụng như thế nào trong quá trình thi hành án?
Có rất nhiều cách hiểu về kê biên chẳng hạn như theo từ điển bách khoa toàn
thư thì “kê biên là cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp
luật. Kê biên tài sản trong thi hành án là một trong những biện pháp cưỡng chế và
CHV có quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi
hành”.

Ở góc độ luật học thì “kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án là một
biện pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan thi hành án áp dụng khi người phải thi
hành án có nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

14


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.

hành trong thời hạn do CHV ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải
thi hành án chuyển dịch tài sản cho người khác tẩu tán, hủy hoại tài sản”6.
Trong luận văn này, người viết chỉ xem xét kê biên ở góc độ luật học trên cơ sở
đó sẽ phân tích, đánh giá để tìm hiểu rõ hơn về biện pháp cưỡng chế bằng hình thức
kê biên xử lý tài sản trong thi hành án dân sự theo những quy định của pháp luật hiện
hành.
1.2.2 Đặc điểm của kê biên
Đối với mỗi một biện pháp cưỡng chế sẽ có một đặc điểm riêng để nhận biết
cũng như để cho các CHV dễ dàng áp dụng đối với từng vụ việc cụ thể. Sau đây
người viết sẽ trình bày một số đặc điểm cơ bản của quá trình kê biên tài sản trong biện
biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản:
- Kê biên là giai đoạn đầu của một trong sáu biện pháp cưỡng chế THADS. Với
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án là cá nhân, tổ
chức, cơ quan và lợi ích của Nhà nước thì CHV sẽ quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế phù hợp đối với từng điều kiện của người phải THA, trong đó có biện pháp
cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản. Theo LTHADS 2008 khi người phải thi hành án

không tự nguyện thi hành án trong khoảng thời gian do luật định thì sẽ bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế là kê biên và xử lý tài sản để thi hành án.
- Quyền kê biên tài sản của người phải thi hành án thuộc về CHV phụ trách hồ
sơ khi xác định được có căn cứ cho rằng tài sản đó là của người phải thi hành án. Như
vậy, chỉ có CHV mới có quyền trực tiếp áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối với
người phải thi hành án.
- Trình tự, thủ tục kê biên được tiến hành theo những qui định của pháp luật thi
hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Bằng việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản đã làm chấm dứt quyền tự định
đoạt tài sản của chủ sở hữu đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
có liên quan đến tài sản bị kê biên. Bởi khi có tranh chấp về tài sản kê biên thì người
phải thi hành án và những người khác vẫn có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân
sự. Khi có quyết định kê biên đối với một tài sản nào đó thì khi ấy chủ sở hữu tài sản
đã không còn quyền định đoạt tài sản cũng như đã mất QSD tài sản của một chủ sở
hữu đích thực. Khi kê biên, chủ sở hữu tài sản sẽ không còn cách nào để tẩu tán hay
hủy hoại tài sản. Với biện pháp này sẽ đảm bảo được quyền lợi của người được thi
hành án.

6

Trương Thanh Hùng - tập bài giảng luật tố tụng dân sự 2, năm 2006, Khoa Luật - Trường Đại Học Cần Thơ.

GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

15


Đề tài: Kê biên và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Lý luận và thực tiễn.


- Quyết định kê biên là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động
tiếp theo là BĐGTS theo qui định của pháp luật về BĐGTS.
1.2.3 Khái niệm bán đấu giá tài sản
Kê biên tài sản chỉ là giai đoạn ban đầu, xử lý tài sản mới là giai đoạn quan
trọng bởi nó chấm dứt được giai đoạn cuối cùng của quá trình thi hành án dân sự và đi
đến kết thúc một vụ việc thi hành án.
Theo khoản 1 điều 101 LTHADS 2008 thì tài sản kê biên được bán thông qua
các hình thức sau: BĐG hoặc bán không qua thủ tục đấu giá. Luận văn này, người viết
chỉ nghiên cứu đến vấn đề xử lý tài sản thông qua hình thức BĐG.
BĐG là giai đoạn liền sau giai đoạn kê biên. Chỉ khi tiến hành kê biên được tài
sản thì mới có thể thực hiện được bước tiếp theo là BĐG.
Theo từ điển bách khoa toàn thư thì: “Bán đấu giá là hình thức bán những hàng
hóa hoặc tài sản thường thuộc loại đắc tiền, hàng quí hiếm. Người bán đặt mức giá
chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, hàng hóa được bán cho người mua
trả giá cao nhất”.
Đối với khái niệm này thì BĐG được áp dụng chung cho tất cả các loại hàng
hóa, tài sản và tất cả các chủ thể. Ai có nhu cầu BĐG thì sẽ tiến hành theo các thủ tục
luật định.
Dựa vào ý chí của chủ sở hữu tài sản thì có hai hình thức BĐG là:
- BĐG tự nguyện được tiến hành theo ý muốn, yêu cầu của người có tài sản.
- BĐG bắt buộc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm buộc chủ sở hữu
thực hiện một nghĩa vụ nào đó.
Ở đây người viết chỉ đi sâu nghiên cứu hình thức BĐG do cơ quan THA tiến
hành sau khi đã kê biên tài sản để buộc người phải THA thi hành những nghĩa vụ theo
bản án, quyết định của Tòa án.
Như vậy, theo qui định tại khoản 1 điều 2 NĐ 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản thì: “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở
lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và thủ tục được qui định trong pháp luật bán đấu
giá tài sản”.

1.2.4 Đặc điểm của bán đấu giá tài sản
- Bán đấu giá tài sản là giai đoạn kết thúc của quá trình thi hành án dân sự khi
áp dụng biện pháp cưỡng chế là kê biên, xử lý tài sản. Một vụ việc dân sự từ lúc mới
phát sinh cho đến khi kết thúc bằng con đường Tòa án phải trải qua một khoảng thời
gian khá dài. Khi vụ việc kết thúc, Tòa án phải ra một bản án hay quyết định. Nếu
đương sự tự nguyện chấp hành thì không vấn đề gì, nhưng nếu đương sự cố tình trốn
tránh nghĩa vụ của mình thì sao? Khi đó cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp
GVHD: Thầy Trương Thanh Hùng

SVTH: Võ Thị Huyền Trang

16


×