Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

LUẬN văn LUẬT tư PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM sát tối CAO của QUỐC hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.02 KB, 67 trang )

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
Bộ môn: Luật TƯ PHÁP


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 32 (2006 – 2010)

Đề tài:

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.s VÕ DUY NAM

VÕ QUANG PHỤC

Bộ môn: Luật Hành Chính

MSSV: 5062349
Lớp: Luật Tư Pháp 2 K32

Cần Thơ, 11/2010

SVTH: VÕ QUANG PHỤC



-1-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
LỜI CẢM ƠN!
Kính gửi đến quý Thầy Cô Khoa Luật – Trường Đại Học Cần Thơ
Quý Thầy Cô Khoa Luật kính mến! Mới ngày nào em cùng các bạn bước vào giảng
đường Đại Học Cần Thơ với biết bao hoài bảo ấp ủ và những mơ ước trong tương lai.
Thế mà giờ đây, em đang chuẩn bị hoàn thành thử thách cuối cùng – Luận văn tốt nghiệp
để hoàn thành khóa học. Chính lúc này đây em mới thấu hiểu được những kiến thức vô
giá mà quý thầy cô đã tận tâm truyền đạt cho chúng em trong gần bốn năm qua trên
giảng đường và ngoài cuộc sống. Nó chẳng những là vốn kiến thức giúp chúng em hoàn
thành tốt khóa học và đề tài luận văn này, mà còn là hành trang quý báo để chúng em
vững bước đi tiếp vào đời trong tương lai. Có lẽ em sẽ chẳng thể nào diễn đạt hết được
những công lao to lớn của quý Thầy, Cô qua lời cảm ơn này. Nhưng để tỏ lòng biết ơn
chân thành của mình, người viết gửi những dòng chữ này đến quý Thầy Cô Khoa Luật những người trong suốt thời gian qua đã dạy dỗ, chỉ bảo để chúng em có được những
kiến thức cơ bản về khoa học pháp lý như ngày hôm nay. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến giảng viên hướng dẫn thầy Võ Duy Nam, người đã nhiệt tình chỉ bảo và
tận tâm hướng dẫn để em có thể hoàn thành tốt đề tài luận văn này.Cuối lời em kính chúc
quý Thầy Cô thật dồi dào sức khỏe và luôn hoàn thành tốt công tác của mình.
Cần Thơ, tháng 11 năm 2010
Người Viết

Võ Quang Phục

SVTH: VÕ QUANG PHỤC


-2-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………….

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-3-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………… ..................................
……………………………………………………………………………………… ...........

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-4-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO
CỦA QUỐC HỘI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI
1.1.1. KHÁI NIỆM NGUỒN GỐC QUỐC HỘI
1.1.2. khái niệm Quốc hội
1.1.3. Ngồn gốc Quốc hội
1.1.4. Sự hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam
1.2. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
1.2.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội Việt Nam
1.2.2. Cơ cấu, Tổ chức của Quốc hội Việt Nam
1.2.3. Các chức năng của Quốc hội Việt Nam
1.3. QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI – SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT
TRIỂN QUA CÁC THỜI KỲ
1.3.1. Về chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao
1.3.2. Về đối tượng chịu sự giám sát

1.4. QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
1.4.1. Khái niệm giám sát
1.4.2. Chủ thể của quyền giám sát tối cao
1.4.3. Đối tượng của quyền giám sát tối cao
1.4.4. Nội dung giám sát tối cao của Quốc hội
1.5. PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN QYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA
QUỐC HỘI
1.5.1. Thông qua hoạt động của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội
1.5.2. Thông qua hoạt động của Hội Đồng Dân Tộc và các Uỷ Ban của Quốc
hội
1.5.3. Thông qua hoạt động của Đại Biểu Quốc Hội
1.6. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIÁM SÁT TỐI CAO
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA
QUỐC HỘI

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-5-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
2.1. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
2.1.2. Giám sát thông qua Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội
2.1.3. Giám sát thông qua Hội Đồng Dân Tộc
2.1.4. giám sát thông qua Đại Biểu Quốc Hội
2.2. CÁC HÌNH THỨC GIÁM SÁT
2.2.1. Hoạt động giám sát thông qua việc xem xét báo cáo
2.2.2. Hoạt động giám sát thông qua việc kiểm tra theo dõi việc ban hành các

văn bản quy pham pháp luật
2.2.3. Hoạt động giám sát thông qua việc trả lời chất vấn
2.3. QUY TRÌNH GIÁM SÁT
2.3.1. Về hoạt động xét báo cáo
2.3.2. Về bỏ phiếu tín nhiệm
2.3.3. Về vấn đề hậu giám sát
2.4. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI
CAO CỦA QUỐC HỘI
2.4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản Quy Phạm Pháp Luật
2.4.2. Thông qua hoạt động chất vấn của Đại Biểu Quốc Hội
2.4.3. Trách nhiệm cá nhân, cơ quan, tổ chức được nâng cao
2.4.4. Hoạt động giám sát công khai minh bạch
2.5. NHỮNG HẠN CHẾ THIẾU SÓT TRONG QUÁ TRÌNH GIÁM SÁT
TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
2.5.1. Chất lượng giám sát
2.5.2. Về hình thức xét báo cáo
2.5.3. Về hoạt động chất vấn
2.5.4. Về hình thức giám sát văn bản của Chính Phủ, Thủ Tướng Chính Phủ,
TANDTC, VKSNDTC.
2.5.5. Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm
CHƯƠNG III: NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
3.1. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU HẠN CHẾ HIỆU QUẢ HOẠT ĐÔNG
GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-6-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM



Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
3.1.2. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện
3.1.3. Cơ cấu tổ chức và phương thức làm việc của Quốc hội chưa tương ứng
với những yêu cầu khách quan của công tác giám sát
3.1.4. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của Đại Biểu Quốc Hội hiện nay chưa
đáp ứng yêu cầu công việc
3.2. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
3.2.2. Đổi mới cơ cấu, tổ chức bộ máy và cách thức làm việc của Quốc hội
3.2.3. Xây dựng chương trình giám sát cụ thể, chi tiết và kịp thời
3.2.4. Nâng cao chất lượng Đại Biểu Quốc Hội
3.2.5. Đổi mới phương pháp giám sát
3.2.6. Đưa bỏ phiếu tín nhiệm thành hoạt động thường xuyên
3.2.7. Thiết lập các ban giám sát thường xuyên tiếp nhận các ý kiến của nhân
dân trong thời gian Quốc hội không hợp
3.2.8. Hiện đại hóa các phương tiện, cơ sở vật chất cho hoạt động giám sát

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-7-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng, làm cho Quốc
hội thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
vì nhân dân, trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước Quốc hội được xác định là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến, lập pháp, quyết
định những chính sách cơ bản của Đất nước và thực hiện quyền giám sát đối với toàn bộ
hoạt động cuả nhà nước. Trong đó quyền giám sát tối cao của Quốc hội và việc thực hiện
hiệu quả quyền đó là vấn đề hết sức ý nghĩa, góp phần hoạt động hiệu quả của các cơ
quan nhà nước cũng như toàn bộ hoạt động của toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước từ
trung ương đến địa phương.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chũ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, cùng với
công cuộc cải cách hành chính, tư pháp thì việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội là yêu cầu vô cùng cấp thiết. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng
với sự đổi mới của hệ thống chính trị, tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được
đổi mới và kiện toàn. Quốc hội ngày càng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì hoạt động
của Quốc hội còn những hạn chế thiếu sót trong hoạt động giám sát tối cao hiện nay dẫn
đến hiệu quả chưa cao như: giám sát còn mang tính hình thức, chất lượng đại biểu Quốc
hội chưa đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng cao, công tác hậu giám sát chưa được điều
chỉnh trong luật cũng như được xem xét một cách kỹ càng trên thực tế, những hạn chế
thiếu sót này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện, cơ cấu, tổ chức của Quốc hội và cách làm việc của Quốc hội chưa tương ứng với
yêu cầu khách quan của công tác giám sát, chất lượng và hiệu quả hoạt động của đại biểu
Quốc hội chưa đáp ứng được yêu cầu công việc…
SVTH: VÕ QUANG PHỤC


-8-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Như vậy, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trở thành một nhu
cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài “NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC
HỘI” đã được nhiều bài viết, tham luận đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau như: Đề tài
“Cơ sở lý luận của việc đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội Việt Nam hiện nay”
(luận văn tiến sỹ luật học của Lê thanh Vân học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bài
tham luận của tiến sỹ Lê Minh Đoan giảng viên Đại học luật Hà Nội “Một số suy nghĩ
nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội” và các bài viết trên tập chí nghiên cứu lập pháp...
Nhưng hiện nay chưa có một công trình khoa học độc lập nào nghiên cứu ở tầm quy mô
lớn sâu sắc toàn diện về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Do vậy, nghiên cứu về
mặt lý luận cũng như thực tiễn của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong điều
kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là một yêu cầu hết sức quan trọng,
trên cơ sở đó tác giả đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và các biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trên cơ sở luật Hiến
pháp, luật hoạt động giám sát của Quốc hội, luật tổ chức Quốc hội, luật tổ chức Chính
phủ, quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội... Bên cạnh đó còn được phân tích đánh giá
từ tình hình thực tiễn của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong thời gian qua.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tác giả tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương
pháp như: phân tích, so sánh, tổng hợp...
5. Mục đích của Luận văn
Trong Luận văn tác giả hướng tới làm rõ về mặt lý luận và thực trạng hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội, qua đó tác giả tìm hiểu nguyên nhân và có một số giải pháp thiết

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

-9-

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
thực phát huy những mặt đạt được, khắc phục những hạn chế tồn tại góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục Luận văn
Luận văn được kết cấu như sau:
Ngoài phần mở đầu, Luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA
QUỐC HỘI.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA
QUỐC HỘI
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
SVTH: VÕ QUANG PHỤC


- 10 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI.
1.1.Khái niệm, nguồn gốc Quốc hội.
1.1.2. Khái niệm Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập Hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và
đối ngoại, về kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân, quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình, vv. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động nhà nước, việc tuân thủ Hiến pháp và nghị quyết của
Quốc hội, xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định
theo đa số. Quốc hội hợp mỗi năm hai kỳ. Quốc hội ban hành pháp luật và nghị quyết để
thực hiện những nhiệm vụ quyền hạn của mình. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội do
Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội quy định1.
1.1.3. Nguồn gốc Quốc hội.
Quê hương của Nghị viện là nước Anh , nơi mà thế kỉ XVIII quyền lực của nhà vua đã bị
thu hẹp hơn do các cuộc đại hội của những lãnh chúa phong kiến, giới tăng lữ cao cấp,
đại diện của các thành phố và địa hạt2. Những cơ quan đại diện đẵng cấp như thế cũng
xuất hiện sau đó ở Ba Lan, Hunggary, Pháp. Và đây là tiền thân của Nghị viện ngày nay.
Thuật ngữ “ cơ quan lập hiến” (Legislature) để chỉ Nghị viện có nguồn gốc ở Anh, đây là
hậu quả của quá trình xung đột giũa nhà vua và tập thể các tầng lớp khác trong xã hội về

vấn đề tranh giành quyền lực lập pháp. Sau một thế kỷ, thuật ngữ đó cũng xuất hiện ở Mỹ
để chỉ hội nghị đại diện do những người di dân kiểm soát. Ở đại đa số các nước hiện nay,
chức năng lập pháp được giao cho các cơ quan đại diện. Nhưng lập pháp không phải là

1
2

Từ điển luật học trang 386.
Các đơn vị hành chính lúc bấy giờ.

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 11 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
chức năng duy nhất của cơ quan đó, bởi vậy, thuật ngữ tổng hợp khác cũng được sử dụng
– Nghị viện (Parliament). Ngoài ra còn có những thuật ngữ khác chỉ cơ quan lập pháp
như: Đại hội liên bang (Nga, Thụy sỹ), Congress (Mỹ, các nước Châu mỹ la tinh), Cortes
(Tây ban nha), Hội đồng tối cao (Uraina)…
Như vậy, trên thế giới, quan niệm về cơ quan lập pháp ở các nước là rất khác nhau.
Nhưng suy cho cùng những cơ quan này có những nét chung, đều có vị trí hết sức quan
trọng trong hệ thống quyền lực nhà nước.
1.1.4. Sự hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam
Với bề dày lịch sử mấy nghìn năm, với tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động,
anh dũng trong chiến đấu để dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã hun đúc nên
truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nền
văn hiến Việt Nam.

Trong cao trào đấu tranh giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng cộng sản Việt
Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ngày 16-8-1945 "Ðại hội đại biểu Quốc dân",
đã được triệu tập tại Tân Trào3 (Tuyên Quang). Ðại hội đã thay mặt toàn dân nhất trí tán
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Ðảng cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính
sách lớn của mặt trận Việt Minh (cụ thể hoá đường lối đối nội và đối ngoại của Ðảng
ngay sau khi giành được chính quyền), cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ
lâm thời) lãnh đạo toàn dân giành chính quyền và xây dựng chế độ mới. Quốc dân đại hội
Tân Trào chẳng những góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng tháng
8/1945 mà nghị quyết của Quốc dân đại hội Tân Trào còn tạo ra những cơ sở cho sự hình
thành và ra đời của một thể chế nhà nước mới, đặt nền móng cho cuộc tổng tuyển cử bầu
Quốc hội và xây dựng Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (1946)4, hình thành nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Ðông Nam Á .

3

Còn gọi là đại hội quốc dân Tân Trào

4

Hồ Chí Minh nói: “Vấn đề thứ ba, trước chúng ta bị chế độ chuyên chế cai trị, nên nước ta không có
Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng tự do, dân chủ, chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ.
Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Như thế để bên trong thì nhân dân tin tưởng vào chế độ ta, trước thế giới, Quốc hội do nhân dân trực
tiếp bầu ra có giá trị pháp lý mà không ai phủ nhận được”.(Hồ Chí Minh toàn tập- NXB Sự thật, Hà
Nội, 1987, tập 6 trang 6,7)

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 12 -


GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản tuyên
ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngày 8/9/1945, chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Sắc
lệnh số 14/SL về cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội5 và những sắc lệnh khác để xúc tiến
việc chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử và dự thảo Hiến pháp.
Ngày 6/1/1946 cuộc tổng tuyển cử lần đầu tiên trong cả nước. Tất cả công dân
Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, chính
kiến... đã tham gia cuộc tổng tuyển cử, tự do lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc
hội.
Ngày 9-11-1946 Quốc hội đã biểu quyết thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa6.
Từ khi ra đời đến nay, với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc
hội Việt Nam đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của dân tộc.
Do hoàn cảnh đặc thù của Đất nước, trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là 30 năm đầu
(1946- 1975) cùng với việc xây dựng chế độ dân chủ của nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Quốc hội đã cùng với Chính phủ đề ra các chủ trương, chính sách, tổ chức và
động viên toàn dân "kháng chiến, kiến Quốc" giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Chế độ dân chủ mới đã được củng cố và ngày
càng hoàn thiện. Trên nền tảng tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1946 "Tất cả quyền
lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu
ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân", Quốc hội đã thông qua các Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 kế thừa và hoàn thiện nhà nước do dân, vì
dân phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của Đất nước.
Nhiều đạo luật quan trọng đã được Quốc hội ban hành nhằm thể chế hoá quyền
làm chủ của nhân dân và thực hiện quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội


5

Sắc lệnh qui định tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử,
người từ đủ 21 tuổi có quyền ứng cử không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, giống nòi trừ những người
mất trí và mất quyền công dân.
6
Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 9/11/1946,
đây là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 13 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
đã đề ra các chủ trương, chính sách lớn có liên quan đến Quốc kế, dân sinh, quyết định về
ngân sách quốc gia, về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục, về chính sách dân
tộc, về an ninh quốc phòng, về chính sách đối ngoại. Quốc hội cũng đã thực hiện quyền
giám sát tối cao trong quá trình thực thi Hiến pháp và luật, kiểm tra sự chỉ đạo điều hành
của bộ máy nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội.7
1.2. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM.
Theo điều 83 Hiến pháp 1992, vị trí pháp lý của Quốc hội được xác định:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của Đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức

và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.”
Vị trí pháp lý của Quốc hội không chỉ được xác định bởi những quy định trong
Hiến pháp, văn bản có hiệu lực tối cao của nhà nước mà còn được thể hiện trong những
quy định khác nằm trong các luật về tổ chức bộ máy nhà nước: Luật tổ chức Quốc hội,
Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân… trong các văn bản dưới luật: Quy chế của đại biểu Quốc hội, Nội quy kỳ hợp Quốc
hội… các văn bản này ít nhiều làm rõ vị trí pháp lý của Quốc hội.
Như vậy, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
cao nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước, thay mặt nhân dân quyết định những vấn
đề quan trọng của Đất nước. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra theo quy định của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, là cơ quan duy nhất mà thành phần cơ cấu đại diện cho
mọi giai cấp, mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, đại diện cho ý chí nguyện vọng của toàn

7

[Truy
cập lúc 10h, ngày 20/10/2010].

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 14 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
dân. Có thể nói, trong bộ máy nhà nước ta Quốc hội là cơ quan duy nhất nhận quyền lực
trực tiếp từ nhân dân.

1.2.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội Việt Nam.
Điều 84 Hiến pháp 1992 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết
của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước;
4- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia; quyết định dự toán ngân sách
Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5- Quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước;
6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
7- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an
ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
8- Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ;
thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;

SVTH: VÕ QUANG PHỤC


- 15 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
10- Quyết định đại xá;
11- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại
giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh
hiệu vinh dự Nhà nước;
12- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp,
các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh Quốc gia;
13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều
ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước;
14- Quyết định việc trưng cầu ý dân.
1.2.2. Cơ cấu, tổ chức Quốc hội Việt Nam.
Tổ chức của Quốc hội là cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc hội thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tổ chức của Quốc hội do Hiến pháp và Luật tổ chức
Quốc hội qui định.
Các cơ quan của Quốc hội bao gồm: Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc và các Uỷ ban của Quốc hội8.

8

Theo Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (thông qua ngày 25 - 12 - 2001) tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2007 (thông qua ngày 02 - 4 - 2007) tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá XI))

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 16 -


GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
 Sơ đồ: Cơ cấu, tổ chức Quốc hội Việt Nam9.

1.2.3. Các chức năng của Quốc hội Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nuớc
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội có 3 chức năng chính: Chức năng lập pháp; chức năng quyết định các
vấn đề quan trọng của Đất nước; chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước, Trong đó chức năng giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc hội.
 Chức năng giám sát
Theo quy định tại điều 84 Hiến pháp 1992, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao việc tuân thủ theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động

9

Nguồn văn phòng Quốc hội.

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 17 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM



Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chức năng giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua các hoạt động giám
sát của các cơ quan của Quốc hội như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các
Uỷ ban của Quốc hội và Ðại biểu Quốc hội.10
1.3. QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI – SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT
TRIỂN QUA CÁC THỜI KỲ.
Việc thể chế và thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là một trong những nhân
tố góp phần cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong đời
sống. Nên trong những năm qua, kế thừa nguyên tắc tổ chức phân công quyền lực trong
Hiến pháp 1946, quyền giám sát của Quốc hội qua các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và
nhất là trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003 đã có những bước phát triển
mới, khẳng định rõ hơn địa vị pháp lý của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, đáp ứng đòi
hỏi ngày càng cao của xã hội. Thể hiện:
1.3.1. Về chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao qua 4 bảng Hiến Pháp
Theo Hiến pháp 1946, Nghị viện có Ban thường vụ mà chưa thành lập các Uỷ ban.
Ban thường vụ Nghị viện gồm có một Nghị trưởng, hai Phó nghị trưởng, 12 Uỷ viên
chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết. Vì vậy, việc giám sát là của Nghị viện và Ban thường
vụ Nghị viện nếu Nghị viện không họp. Do yêu cầu của việc đẩy mạnh hoạt động của
Quốc hội sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.
Hiến pháp 1959 ngoài việc cơ quan thường trực là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã
cho phép Quốc hội thành lập hai Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội là Uỷ ban dự án pháp
luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách. Vì vậy, các chủ thể thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội theo Hiến pháp 1959 bao gồm: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các Uỷ
ban của Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên hoạt động giám sát theo Hiến
pháp 1959 còn mang tính thụ động vì hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân công của Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.


10

truy cập lúc 10h, ngày
24/10/2010.

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 18 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Theo Hiến pháp 1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Uỷ ban thường vụ
Quốc hội đã được thay thế bằng cơ quan mới đó là Hội đồng nhà nước. Bên cạnh các cơ
quan chuyên môn thì vai trò của Hội đồng dân tộc được đề cao để giúp Quốc hội thực
hiện các công việc thuộc lĩnh vực này. Các chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao theo
Hiến pháp 1980 đó là: Quốc hội, Hội đồng nhà nước, Hội đồng dân tộc các Uỷ ban của
Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Hoạt động giám sát này vẫn mang tính thụ động vì
vẫn còn phụ thuộc vào Quốc hội và Hội đồng nhà nước.
Hiến pháp 1992 đã có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức trong nội bộ Quốc hội. Hội
đồng nhà nước đã được thay thế bằng Uỷ ban thường vụ Quốc hội để làm nhiệm vụ
thường trực của Quốc hội, các chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là: Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các Đại biểu
Quốc hội. Quyền giám sát của Quốc hội không còn phụ thuộc vào sự phân công của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà đã có tính chất chủ động hơn với tính chất là
một chức năng độc lập tương đối của các cơ quan này. Đến Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội 2003 thì hoạt động giám sát của Quốc hội đã có sự phân công quyền và trách
nhiệm rõ ràng cho Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban và các Đại biểu Quốc hội,
trong đó quy định rõ quyền giám sát tối cao của Quốc hội được trao cho toàn thể các Đại

biểu Quốc hội tại các kỳ họp
1.3.2. Về đối tượng chịu sự giám sát
Hiến pháp 1946 chủ yếu mới đặt vấn đề Nghị viện, Ban thường vụ của Nghị viện
có quyền giám sát trực tiếp tại các kỳ họp của Nghị viện với nội các Thủ tướng, Bộ
trưởng. Chủ tịch nước, cơ quan tư pháp (Toà án tối cao và toà án khác) không phải là đối
tượng chịu sự giám sát trực tiếp của Nghị viện. Từ Hiến pháp 1959 đến 1992 đã từng
bước mở rộng đối tượng giám sát trực tiếp tại các kỳ hợp bao gồm Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, các đối tượng đó phải
chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Ngoài ra, một số cơ quan, nhân sự cấp cao, cơ quan đại
diện ngoại giao của Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở địa phương, các cơ quan tư pháp
địa phương tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang cũng là đối tượng giám sát của
Quốc hội.
SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 19 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Từ nền móng pháp lý đầu tiên của Hiến pháp 1946 những quy định về chức năng giám
sát của Quốc hội đã được kế thừa phát triển và không ngừng được hoàn thiện thông qua
các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992
1.4. QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
1.4.1. Khái niệm giám sát:
Trong từ điển tiếng Việt giám sát được hiểu là “ Sự theo dõi xem xét làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện
đúng những điều đã quy định không”11.

Hay trong từ điển tiếng Nga thì giám sát được hiểu là “một nhóm hay một tổ chức để
theo dõi người, việc nào đấy”
Giám sát, theo tiếng Anh là supervision hoặc overseer để chỉ một hoạt động xem
xét có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống
khác (trong những trường hợp cụ thể có thể là không trực thuộc), tức là giữa cơ quan
giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống trực thuộc nhau theo
chiều dọc.
Trong bộ máy nhà nước ta, giám sát thường thể hiện chức năng của các cơ quan
quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc của Toà án nhân dân,
các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp
luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở
nước Cộng hoà xã hội chũ nghĩa Việt Nam, “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”, “…thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”12 (điều 83, 84 của Hiến pháp 1992).
Giám sát dù có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là dùng
để chỉ việc theo dõi, xem xét kiểm tra và nhận định về một hoạt động nào đó đã được
thực hiện đúng hay sai. Hoạt động này luôn gắn với một đối tượng nhất định, chủ thể
nhất định, có mối quan hệ giữa chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát, dựa trên
những căn cứ và mục đích xác định.

11
12

Tiến sĩ: Phạm văn Khải, văn phòng Chính Phủ.
Xem điều 83 Hiến pháp 1992(Sửa đổi bổ sung 2001)
Điều 84 Hiến pháp 1992(Sửa đổi bổ sung 2001).

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 20 -


GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Dưới góc độ pháp lý, theo điều 2, khoản 1 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
2003, giám sát được hiểu là: “giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thưòng vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi xem xét đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Hiện nay chưa có một quy định, một thuật ngữ nào nói rõ giám sát tối cao là gì
nhưng có thể hiểu là hoạt động giám sát ở cấp độ cao nhất và cuối cùng. Với Quốc hội
đây là cơ quan đại diện cho nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan
giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước nên không chịu thêm bất cứ một sự giám
sát nào của cá nhân cơ quan khác. Kết quả của hoạt động giám sát tối cao luôn có giá trị
bắt buộc đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
1.4.2. Chủ thể của quyền giám sát tối cao
Xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hoạt động của cơ quan đại diện cao
nhất là Quốc hội. Vì vậy, Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của bộ máy nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Theo quy định của Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội thì Quốc hội
là chủ thể duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội nói ở đây không phải là
toàn thể các cơ quan của Quốc hội mà là toàn thể các Đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp
mới là chủ thể của quyền giám sát tối cao. Theo điều 1 Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội 2003 “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc
hội”. Cơ quan khác của Quốc hội như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các
Uỷ ban không phải là chủ thể của quyền giám sát tối cao, các cơ quan này hoạt động trên
cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn cuả mình phụ trách mang tính chất thường xuyên sẽ thực hiện
giám sát tới các đối tượng trong phạm vi đó, các kết quả giám sát của các cơ quan này

làm cơ sở để các đại biểu căn cứ để thực hiện giám sát tối cao.
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là tất cả các Đại biểu Quốc hội
tại các kỳ họp Quốc hội.
1.4.3. Đối tượng của quyền giám sát tối cao

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 21 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
Theo Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội,
Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân… thì đối tượng chịu sự giám sát
tối cao của Quốc hội là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê
chuẩn. Nói cách khác, đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội là tầng cao nhất
của bộ máy nhà nước được quy định cụ thể tại điều 3 khoản 1 điểm a “Quốc hội giám sát
hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ”. Các Đại biểu Quốc hội thông qua hoạt động của mình và các
cơ quan giúp việc của Quốc hội sẽ xem xét, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ
của các chủ thể nêu trên xem có đúng pháp luật, chính sách đường lối của Đảng và Nhà
nước, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự
giám sát tối cao có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật của Quốc hội, sau đó sẽ có những quyết
định phù hợp trong phạm vi quyền hạn mà pháp luật trao cho.
Quốc hội không chỉ thực hiện quyền giám sát đối với những đối tượng trên mà còn
thực hiện quyền giám sát đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Sở dĩ đối

tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội được xác định như trên là vì:
Thứ nhất : Khác với Hiến pháp 1980, tổ chức hoạt động của nhà nước ta theo
nguyên tắc cơ bản: quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp
trong thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nguyên tắc mới này, hiện
nay ngoài Quốc hội ra, không một cơ quan nhà nước nào được phân công, phân nhiệm
thực hiện chức năng giám sát hay thanh tra, kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội đối với các cơ quan, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền ở tầng cao nhất
của bộ máy nhà nước.
Còn đối với các cơ quan cá nhân khác trong bộ máy nhà nước, theo Hiến pháp và
các luật hiện hành đã có sự phân công phân nhiệm việc thanh tra, giám sát. Đối với chính
quyền địa phương đó là sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp…
Như vậy, sẽ hạn chế sự trùng lặp, dựa dẫm, ỷ lại trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, tránh tình trạng một công việc phân cho nhiều cơ quan, không ai thực hiện,
không ai chịu trách nhiệm. Giúp cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan, cá nhân ở
SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 22 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
tầng cao nhất tuân thủ đúng đắn Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, là nhân tố thúc
đẩy là tấm gương mẫu mực cho các cấp khác trong bộ máy nhà nước tuân thủ Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội.
Thứ hai : Quốc hội nước ta không hoạt động chuyên trách, để phù hợp với đặc
thù này Quốc hội chỉ giám sát ở tầng cao nhất cuả bộ máy nhà nước thì mới có đủ điều
kiện thực hiện quyền giám sát của mình một cách hiệu quả và hiệu lực.
Như vậy, cũng tạo ra sự thống nhất trong quan niệm về việc thực hiện quyền lập Hiến,
lập pháp và quyền quyết định những vấn đề trọng đại của Đất nước và quyền giám sát tối

cao. Thông qua việc giám sát tối cao Quốc hội kiểm tra lại chất lượng của các đạo luật và
các quyết định do mình ban hành và có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi bổ sung hoàn thiện
và nâng cao chất lượng của chúng, để giám sát tối cao ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, không có nghĩa Quốc hội không giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, mà thông qua hoạt động giám sát tối cao đối với tầng cao nhất của bộ máy nhà
nước Quốc hội đang thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động cuả nhà
nước.
1.4.4. Nội dung giám sát tối cao của Quốc hội
Theo điều 7 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003, nội dung giám sát tối cao
của Quốc hội bao gồm:
Thứ nhất : Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội sẽ xem xét đánh giá xem các văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể trên
ban hành có đúng với các quy định của Hiến pháp và pháp luật không.
Nếu phát hiện có những sai sót thì căn cứ trên kết quả đó có những quyết định phù hợp có
thể là sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ ban hành văn bản mới: Sai thẩm quyền, sai thể thức,
vi phạm quyền công dân, giải thích sai luật… đây cũng là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của
quyền giám sát tối cao. Bởi vì, tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội trước hết thể hiện quyền lập quy của các cơ quan cá nhân này.
Hoạt động lập quy không đúng, không phù hợp, không kịp thời với hoạt động lập pháp
chẳng những tạo ra hệ thống pháp luật chồng chéo mâu thuẫn, kém hiệu lực, hiệu quả mà
còn thể hiện sự lạm quyền thiếu thống nhất.
SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 23 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội

 Thứ hai : Giám sát các hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Qua các hoạt động của mình Quốc hội sẽ xem xét đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ của các chủ thể trên, tại các kỳ họp thì thông qua các báo cáo công tác, các
cuộc chất vấn tại hội trường. Đây chính là giám sát việc tổ chức và thực hiện Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội đối với các đối tượng chịu sự giám sát tối cao. Nói cách
khác, đó chính là việc Quốc hội xem xét quá trình áp dụng pháp luật trong việc tổ chức
và thực hiện hoạt động thực tiễn của các cơ quan và cá nhân thuộc quyền giám sát tối cao
của Quốc hội trong các nghị quyết, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể nói trên.
Bởi vì, Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội có đi vào cuộc sống, trở thành
hiện thực hay không. Không chỉ thông qua hoạt động lập quy đúng đắn, phù hợp và kịp
thời với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội mà còn là ở tổ chức thực tiễn các
hoạt động cụ thể, thể hiện ở các quyết định cụ thể có hợp Hiến, hợp pháp và hợp lý hay
không.
Thứ ba : Quốc hội tiến hành xem xét đánh giá năng lực, trình độ, trách nhiệm
của các cá nhân do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Đây là một nội dung giám sát mang tính
truyền thống của Quốc hội nước ta đã được quy định trong Hiến pháp và được quy định
cụ thể trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đó là: Chủ tịch nước, Phó chủ tịch
nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ (điều 84 Hiến pháp 1992 và điều 13 luật hoạt động giám sát của Quốc
hội).
Việc xem xét, đánh giá năng lực và trách nhiệm của những người mình bầu hoặc
phê chuẩn để nâng cao năng lực và trách nhiệm của họ, đồng thời làm tốt nhiệm vụ và
quyền hạn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh này.
Như vậy, nội dung giám sát tối cao của Quốc hội tại các kỳ họp là giám sát văn bản quy
phạm pháp luật, hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát tối cao và xem xét đánh giá
năng lực hoạt động của các cá nhân do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.


SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 24 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc Hội
1.5. PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA
QUỐC HỘI
Quốc hội muốn thực hiện tốt nhất quyền giám sát tối cao của mình không thể chỉ
bằng những hoạt động của các Đại biểu tại các kỳ họp. Vì vậy, Quốc hội phảỉ có một số
lượng Đại biểu và nhân viên giúp việc theo tiêu chuẩn nhất định tương ứng với chức
năng, nhiệm vụ được giao, bên cạnh đó Quốc hội phải có tổ chức chặt chẽ, có sự phân
công, phân cấp rành mạch về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Hoạt động giám sát tối cao được thực hiện trên cơ sở các
hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân sau đây:
1.5.1. Thông qua hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, được quy định tại điều 11, điều 12 và điều 13 của Luật tổ chức Quốc hội và
điều 3 khoản 1 điểm b của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội.
Với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự
mình thực hiện giám sát và điều hoà các hoạt động giám sát của các cơ quan cấu thành
Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị
quyết, pháp lệnh của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc
hội tự mình quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm, tự mình giao cho Hội
đồng dân tộc và Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thực hiện chương trình giám sát, xem xét
thảo luận các báo cáo và các kiến nghị trong hoạt động giám sát, yêu cầu cá nhân, tổ chức

và cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện những kiến nghị mà Uỷ ban thường vụ Quốc
hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Tự mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Viện trưởng viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc các Đại biểu Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền bãi bỏ những quyết định trái với Hiến pháp và
pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Khi Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm thiệt hại
đến lợi ích của nhân dân, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giải tán Hội đồng nhân
dân đó.

SVTH: VÕ QUANG PHỤC

- 25 -

GVHD: Th.S VÕ DUY NAM


×