Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.11 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC

VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC

VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH QUỐC TOẢN




Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngọc


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ CÁC
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI....................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại..........................................7
1.1.1. Hoạt động thương mại.............................................................................7
1.1.2. Tranh chấp thương mại............................................................................9
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại...................................15

1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.................16
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật..................................................17
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập
chứng cứ..........................................................................................................18
1.2.4. Nguyên tắc hòa giải...............................................................................20
1.2.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời..............................21
1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại................................22
1.3.1. Thương lượng giữa các bên...................................................................22
1.3.2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các
bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải...................................................23
1.3.3. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài................25
1.3.4. Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án........................................27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.........................................30
2.1. Áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thương mại........30
2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật.................................................................30


2.1.2. Áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thương mại......................35
2.1.3. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp thương mại..........36
2.1.4. Hậu quả tiêu cực của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
tranh chấp thương mại.....................................................................................40
2.2. Thực trạng của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp
thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng..................................................42
2.2.1. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết việc vi phạm trong việc thực
hiện hợp đồng đặt cọc.....................................................................................42
2.2.2. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp hợp đồng góp vốn
liên doanh........................................................................................................45
2.2.3. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong hoạt động dịch vụ

môi giới thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tư vấn lao động...........47
2.2.4. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vi phạm các quy định về quản
lý kinh tế, chức vụ...........................................................................................50
2.2.5. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản. 56
2.2.6. Áp dụng pháp luật hình sự đối với việc vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong
hợp đồng mua bán hàng hoá bị xác định chiếm đoạt......................................60
2.3. Những nguyên nhân của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
tranh chấp trong thương mại...........................................................................62
2.3.1. Những nguyên nhân từ hệ thống pháp luật...........................................62
2.3.2. Nguyên nhân từ các quy định liên quan đến tài phán trong tranh chấp
thương mại.......................................................................................................68
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI....77
3.1. Giải pháp tăng cường công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật...........77
3.1.1. Giải pháp tăng cường công tác xây dựng pháp luật về thương mại và
giải quyết tranh chấp trong thương mại..........................................................77


3.1.2. Đổi mới chính sách hình sự phục vụ đấu tranh với các nhóm tội phạm
xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ84
3.2. Giải pháp tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật. .87
3.3. Giải pháp tăng cường năng lực của cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.....90
3.3.1. Tăng cường năng lực của cán bộ tư pháp..............................................90
3.3.2. Hoàn thiện các chế định về bổ trợ tư pháp cũng như xây dựng đội ngũ
những người bổ trợ cho hoạt động tư pháp.....................................................92
3.4. Các giải pháp khác hạn chế áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
các tranh chấp thương mại..............................................................................94
KẾT LUẬN.....................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................100



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLDS

: Bộ luật Dân sự

2. BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

3. LTM

: Luật Thương mại

4. TAND

: Toà án nhân dân

6. VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

7. BLHS

: Bộ luật Hình sự

8. BLTTHS

: Bộ luật tố tụng Hình sự


9. LTM

: Luật Thương mại

10. LTTTM

: Luật Trọng tài thương mại

11. VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

12. UBTVQH

: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình kinh tế thế giới có những
chuyển biến phức tạp, nhưng nền kinh tế Việt Nam đạt được những bước phát
triển đáng ghi nhận, được đánh giá là điểm đến lý tưởng cho hoạt động đầu tư
của các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2007, Việt Nam đạt được dấu mốc quan
trọng khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Bước tiến này đánh dấu bước phát triển mới cho nền kinh tế
nhưng cũng đem lại nhiều thách thức, nhất là việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật và cả
các doanh nghiệp Việt Nam cần có cái nhìn nghiêm túc về tranh chấp và các
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Với ý nghĩa quan trọng là mở ra cho Việt Nam bước vào giai đoạn hội

nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, sâu sắc. Sự chính xác, nhất quán, đầy
đủ của hệ thống các quy định pháp luật cũng như các phương thức giải quyết
tranh chấp trong thương mại tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, tạo hành lang an
toàn cho các doanh nghiệp và đồng thời tạo cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài,
thu hút các nguồn vốn lớn, đẩy mạnh và xúc tiến tiếp cận khoa học kỹ thuật
tiên tiến, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xóa
đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội khác như quan hệ giữa môi
trường và phát triển bền vững, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Với chính sách mở của để phát triển kinh tế cũng như tiếp cận nhiều
luồng văn hóa khác nhau, Việt Nam tham gia hầu hết các văn kiện quốc tế,
bước khởi xướng là từ năm 1995 Việt Nam đã tham gia Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), với cam kết mở cửa thị trường thương mại hàng hóa,
dịch vụ và đầu tư. Năm 1996 Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp
tác kinh tế Á - Âu (ASEM). Năm 1998, Việt Nam là thành viên của Diễn đàn

1


hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Từ năm 2002 đến nay
Việt Nam tham gia các hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc,
ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Australia và New Zealand.
Năm 2007, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Từ việc hội nhập
vào thị trường khu vực, Việt Nam đã tiến tới hội nhập vào thị trường thương
mại thế giới.
Với toàn cảnh thị trường như trên, các hoạt động thương mại, tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, với tính chất phức
tạp, khó khăn ở nhiều cấp độ khác nhau trong khi kiến thức thương mại quốc
tế về phương diện luật thương mại quốc tế, tư pháp quốc tế, các công ước
quốc tế, tập quán quốc tế về mua bán hàng hóa, thanh toán tiền hàng, vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa và giải quyết tranh chấp của chúng ta

còn hạn chế. Cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế, việc tạo hành lang pháp
lý nhằm bảo vệ các quan hệ kinh tế, thương mại ngày càng được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Cùng với tiến trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49NQ/TW của Bộ Chính trị, nhiều đạo luật ra đời điều chỉnh các mối quan hệ
phát sinh. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại
được thực hiện linh hoạt hơn. Tình trạng oan sai trong các vụ án kinh tế được
giảm thiểu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thời gian
qua, vẫn còn nhiều sự bất cập giữa việc bảo đảm có một nền tảng pháp luật
chặt chẽ, theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội với các quan hệ thương
mại ngày càng phát triển với những quy luật đặc trưng của nó. Cùng với sự
tiêu cực trong quan điểm áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp cùng với ý
thức chấp hành pháp luật của một số chủ thể tham gia vào quan hệ thương
mại chưa cao dẫn đến những hệ lụy nhất định trong đời sống thương mại mà
điển hình là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết các tranh
chấp thương mại.

2


Do đó, việc nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc
giải quyết các tranh chấp thương mại hiện nay tại địa bàn thành phố Đà Nẵng
nhằm nhận diện được mặt tiêu cực của vấn đề, đi sâu nghiên cứu thực trạng,
nguyên nhân bản chất của việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự cũng như
sự can thiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng vào quá trình giải quyết các
tranh chấp thương mại, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao việc áp
dụng pháp luật, khắc phục tình trạng áp dụng không đúng các quy định pháp
luật hình sự vào việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Xuất phát từ công tác thực tiễn của mình và từ những lý do nêu trên, tôi
chọn đề tài: “Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu

Đã có một số luật gia, học giả viết về vấn đề áp dụng pháp luật hình sự
trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại dưới nhiều
góc độ nghiên cứu khác nhau. Trong số này, các học giả, luật gia dùng thuật
ngữ “hình sự hóa” từ những vụ việc cụ thể hoặc trong từng lĩnh vực cụ thể
như hình sự hóa các quan hệ về tín dụng, ngân hàng hoặc xem xét dưới góc
độ áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp kinh tế như :
- “Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các tranh chấp kinh tế ở
nước ta hiện nay” luận án tiến sỹ luật học năm 2008 của Trần Minh Chất;
- “ Các giải pháp phòng chống hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh
tế” của PGS.TS. Dương Đăng Huệ;
- “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi vi phạm trên
lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ;
- “Về hiện tượng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trong lĩnh vực
tín dụng ngân hàng” của TS. Nguyễn Văn Vân;

3


- “ Mấy ý kiến về vấn đề hình sự hóa các vi phạm liên quan tới hoạt
động ngân hàng và giải pháp khắc phục” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải.
Ngoài ra, trên các tạp chí về chuyên ngành luật có nhiều bài viết liên
quan đến vấn đề này. Các sản phẩm khoa học đó đã thể hiện những cách nhìn
nhận, đánh giá về hiện tượng tiêu cực trong việc áp dụng pháp luật hình sự để
giải quyết các tranh chấp kinh tế trong thời gian qua ở nước ta. Đây là những
tư liệu rất quý cho luận văn.
Tuy nhiên thiết nghĩ, cần nghiên cứu xem xét vấn đề này dưới góc độ
từ việc xây dựng pháp luật đến việc áp dụng pháp luật. Trong đó làm rõ việc
xây dựng pháp luật có những kẽ hở và hạn chế nào dẫn đến việc đánh giá
không đúng bản chất của từng vụ việc dẫn đến việc áp dụng không đúng quan
hệ pháp luật điều chỉnh. Đồng thời cũng cần xem xét dưới góc độ về chính

sách hình sự đối với các tội phạm về kinh tế hiện nay đã đúng, đầy đủ và đáp
ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và sự phát triển của nền kinh tế thị trường
hay chưa. Đối với vấn đề áp dụng pháp luật cũng cần xem xét đến nhiều
nguyên nhân khác nhau như : Nguyên nhân cơ bản thuộc về các chủ thể có
thẩm quyền thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng (điều tra viên, thẩm phán,
kiểm sát viên); nguyên nhân từ các chủ thể tham gia giao dịch thương mại.
Vì vậy cần nghiên cứu và đề xuất những biện pháp hoàn thiện chính
sách pháp luật, thể chế; nâng cao năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của
những người tiến hành tố tụng cũng như ý thức pháp luật của các chủ thể giao
dịch và những biện pháp khác nhằm giảm việc áp dụng pháp luật hình sự
trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, tránh oan sai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đưa ra các luận chứng, các quan điểm,
các giải pháp nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn,

4


hạn chế việc áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong thương
mại. Qua đó, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước;
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận tranh chấp thương mại, các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại.
- Phân tích thực trạng và những nguyên nhân của việc áp dụng pháp
luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong thương mại trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng để qua đó làm rõ những hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại hiện nay cũng như hậu quả tiêu cực của nó.

- Đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng pháp luật hình sự
để giải quyết các tranh chấp trong thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tranh chấp thương mại và pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại.
- Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu,
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ hiện hành
(Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn thi hành).
- Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp thương mại
trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời
gian từ năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: Hệ thống,
lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp
khác như so sánh, điều tra xã hội...

5


6. Những đóng góp mới của đề tài
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa
học của luận văn:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vấn đề áp dụng pháp luật
hình sự trong việc giải quyết tranh chấp trong thương mại trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Đánh giá đúng thực trạng, tình hình và những khó khăn, vướng mắc
trong việc phân định ranh giới giữa vi phạm pháp luật thương mại hay là tội
phạm chủ yếu từ việc chứng minh có hay không có yếu tố chiếm đoạt tài sản
trong các quan hệ này để hạn chế các sai lầm thường gặp, dẫn đến áp dụng

pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thương mại hoặc ngược lại
coi hành vi vi pháp pháp luật hình sự là quan hệ thương mại nhằm tránh oan
sai nhưng cũng tránh bỏ lọt tội phạm.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi và kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác áp dụng pháp luật để hạn chế việc áp
dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thương mại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về tranh chấp thương mại và các phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Chương 2: Thực trạng và nguyên nhân của việc áp dụng pháp luật hình
sự trong giải quyết tranh chấp thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế áp dụng pháp luật hình sự trong
giải quyết các tranh chấp thương mại.

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại
1.1.1. Hoạt động thương mại
Hoạt động thương mại là hoạt động của cá nhân, tổ chức kinh doanh
trong các lĩnh vực mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối; đại diện
đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê, mua; xây dựng; tư vấn; kỹ
thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác;
vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển,
đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp
luật nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Các giao dịch mà LTM điều chỉnh là các giao

dịch nhằm mục tiêu lợi nhuận và được thương nhân sử dụng thường xuyên
như nghề nghiệp của họ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 LTM năm 2005 thì: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác”[11].
Cũng theo LTM năm 2005 thì chủ thể của hoạt động thương mại là tổ
chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
Cá nhân là một người cụ thể, có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi. Cá nhân có thể thực hiện việc kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư
nhân hoặc hộ kinh doanh. Theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006
của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì hộ kinh doanh có thể là cá nhân
công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ.
Tổ chức là những loại hình kinh doanh được pháp luật thừa nhận, được
thành lập hợp pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các tổ chức đang

7


tiến hành các hoạt động kinh doanh tại nước ta là: Hợp tác xã, các loại hình
doanh nghiệp như công ty tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên hoặc nhiều thành viên, công ty cổ phần...Tổ chức
trong luật thương mại không đồng nghĩa với tổ hợp tác.
Cá nhân hoặc tổ chức khi hoạt động thương mại phải có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác kinh doanh theo hình thức “hộ kinh doanh” là chủ thể của luật
thương mại còn những hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối
và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động
làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh, trừ những
trường hợp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện. Mặc dù họ vẫn tiến hành

hoạt động thương mại nhưng không phải là đương sự trong vụ án kinh doanh
thương mại.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Được coi
là hoạt động thương mại khi thỏa mãn các điều kiện như hoạt động độc lập,
thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Hoạt động độc lập được hiểu là
không phụ thuộc vào người khác mà có quyền tự quyết định hoạt động kinh
doanh của mình và tự chịu trách nhiệm đối với những hoạt động kinh doanh
do mình giao kết và thực hiện. Đây được xem là điều kiện cần phải có trong
quá trình kinh doanh thương mại, là một phần không thể thiếu trong thương
mại và nó tác động không nhỏ đến quá trình hoạt động nhằm kiếm tìm lợi
nhuận. Hoạt động thường xuyên tức là nói lên tính chuyên nghiệp của thương
nhân, thường xuyên cũng có nghĩa là lâu dài và là nghề nghiệp sinh sống của
họ. Những người mà hoạt động thương mại không phải là nghề nghiệp của họ
thì không phải là thương nhân. Hoạt động thường xuyên và liên tục để tạo ra
lợi nhuận trong một thời gian dài được coi là điều kiện tiên quyết trong quá
trình hoạt động thương mại. Bởi lẽ, nó tạo tính chuyên nghiệp, lâu dài và bền

8


vững bên cạnh đó nó còn thể hiện tính nghề nghiệp chuyên sâu của một
thương nhân, khẳng định lại một lần nữa, không coi hoạt động thương mại là
là nghề nghiệp mà chỉ đơn thuần là tác nghiệp khi có điều kiện thì đó không
được được gọi là thương nhân.
Tại Điều 6 của LTM năm 2005 đã quy định:
“ Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”
Như vậy, hoạt động thường xuyên liên tục là điều kiện cần phải có
trong bất cứ hình thức kinh doanh thương mại nào. Tuy vậy, việc kinh doanh

hợp pháp hóa là điều kiện đủ để thể hiện tính hợp pháp của hoạt động kinh
doanh thương mại. Đăng ký kinh doanh thể hiện tính hợp pháp của hoạt động
kinh doanh của thương nhân. Tuy nhiên theo Điều 7 của LTM năm 2005,
trường hợp thương nhân chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của LTM và quy định
khác của pháp luật.
Sở dĩ việc quy định như vậy là vì có những trường hợp kinh doanh
mang tính chất nhỏ lẻ, vốn ít hoặc những hàng hóa mang tính chất lẻ tẻ, hoặc
không đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp... người kinh doanh không
đăng kí kinh doanh nhưng vẫn phải đóng thuế và thực hiện các nghĩa vụ và
trách nhiệm của người tham gia hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng khá phổ biến xảy ra trong
nền kinh tế, nó làm chậm quá trình lưu thông hàng hóa, quá trình thanh toán,
tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần có
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách hiệu quả và được
pháp luật công nhận. Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là LTM năm 2005 đã ghi

9


nhận sự tồn tại của bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại đó là:
Thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Thuật ngữ “tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại” hay “tranh chấp thương
mại” được định nghĩa không giống nhau trong các văn bản pháp luật điều
chỉnh các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau.
Trên thực tế, để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh
thương mại nói riêng, Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện
để xác định quan hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với
các quy định về thẩm quyền của BLTTDS để xác định yêu cầu khởi kiện của

đương sự có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không. Việc xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật
nội dung (điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết
yêu cầu của đương sự.
Thực tiễn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương
mại không hề dễ dàng bởi lẽ tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau mà cơ quan
lập pháp quy định một số quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng quy phạm
kinh doanh thương mại bên cạnh đó một số quan hệ xã hội khác thì chưa nên
không phải cứ có tranh chấp sẽ dễ dàng xác định được quan hệ pháp luật tranh
chấp về kinh doanh thương mại, trong khi đó có rất nhiều phương thức để giải
quyết tranh chấp thương mại.
Tranh chấp thương mại theo nghĩa khái quát nhất là sự bất đồng chính
kiến, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các
chủ thể tham giam hoạt động thương mại. Đây là loại tranh chấp phổ biến
nhất, thường xuyên nhất phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh với nhau trong hoạt động thương mại.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn
khác nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh

10


chấp thương mại được đưa ra trong LTM năm 1997 và tiếp tục được khẳng
định trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại 2003. Tại Điều 238 LTM năm
1997 nêu rõ: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung trong hoạt động thương mại”
[5]. Như vậy, lần đầu tiên khái niệm tranh chấp thương mại được đưa ra đã
cho ta hiểu một cách khái quát về khái niệm tranh chấp thương mại cũng như
cho ta thấy quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam về vấn đề này.
Cùng một quan hệ xã hội nhưng lại thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều

ngành luật khác nhau. Mặc dù, mỗi ngành luật đều có những quy định để
phân biệt quan hệ pháp luật nào thuộc ngành luật nào điều chỉnh như về chủ
thể tham gia quan hệ, mục đích chủ thể, đối tượng của giao dịch…nhưng việc
phân biệt cũng không hề dễ dàng. Khác với tranh chấp trong dân sự, tranh
chấp thương mại thường có giá trị rất lớn, mức độ ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh rất cao thậm chí có thể tác động tới hoạt động của cả hệ
thống kinh doanh của nền kinh tế. Do đó, việc giải quyết thoả đáng, nhanh
gọn, hiệu quả, kịp thời tranh chấp thương mại là yêu cầu hết sức cần thiết.
Tranh chấp thương mại có tính phản ứng dây chuyền. Nó xảy ra trong một
công đoạn nào đó của chu trình sản xuất kinh doanh và thường có mối quan
hệ hữu cơ với các công đoạn khác. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp thời
có thể làm phát sinh những tranh chấp tiếp theo trong nền kinh tế.
Tóm lại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong đời sống
kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó cũng hội tụ đầy đủ những đặc điểm của một tranh
chấp nói chung. Tuy nhiên, đây là loại tranh chấp đặc thù phát sinh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh nên nó có những điểm khác biệt với các loại tranh
chấp khác, đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết nhanh gọn, hiệu
quả, đáp ứng được nhu cầu của các các chủ thể kinh doanh.

11


Một số văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về kinh doanh
thương mại có quy định phạm vi các giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh
nhưng lại quy định một cách chung chung, mang tính mở nên khi có tranh
chấp xảy ra để xác định chúng có thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy
phạm pháp luật này hay không cũng gây ra những khó khăn, vướng mắc nhất
định. Ở Việt Nam hiện nay, mỗi năm cơ quan chức năng ban hành rất nhiều
các văn bản dưới luật để hướng dẫn, bổ sung, tuy nhiên nhiều văn bản thiếu
sự đồng nhất hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẩn nhau dẫn đến những khó

khăn và vướng mắc nhất định.
Một số trường hợp do văn bản quy phạm pháp luật nội dung về kinh
doanh thương mại không xác định rõ giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của
mình nên để xác định cần dựa vào BLTTDS. Bên cạnh việc quy định thẩm
quyền theo vụ việc, BLTTDS còn quy định thẩm quyền theo lãnh thổ để phân
chia việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với
nhau được tương xứng nhưng trong nội dung hướng dẫn thẩm quyền theo
lãnh thổ lại giải thích thêm thẩm quyền theo vụ việc [23].
Hiện các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp
thương mại tiếp cận khái niệm này dưới góc độ liệt kê các tranh chấp liên
quan đến hoạt động kinh doanh thương mại của cơ quan tài phán thuộc phạm
vi điều chỉnh của văn bản pháp luật đó. Cụ thể như BLTTDS, tại Điều 29 liệt
kê những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Toà án
gồm 04 nhóm : Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận được liệt kê từ điểm a đến điểm o khoản 1 Điều 29; Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau
và đều có mục đích lợi nhuận (có thể tất cả hoặc một trong các bên có đăng
ký kinh doanh hoặc các bên đều không có đăng ký kinh doanh) được quy định

12


tại khoản 2 Điều 29; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, chấm dứt hoạt động của công ty được quy định tại khoản 3 Điều 29;
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định
được quy định tại khoản 4 Điều 29[18].
LTTTM năm 2010 quy định thẩm quyền của Trọng tài thương mại là
giải quyết các “tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được

giải quyết bằng Trọng tài” khi có thoả thuận chọn trọng tài hợp pháp của các
bên tranh chấp, trong đó có tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại
[17, Điều 2].
LTM năm 2005 đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại” rất rộng, bao
trùm lên tất cả các hoạt động có mục đích sinh lợi, cụ thể khoản 1 Điều 3
LTM năm 2005 định nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” [11, Điều 3].
Như vậy, tranh chấp thương mại cũng được hiểu rất rộng, có thể định
nghĩa là các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh
doanh, thương mại giữa các chủ thể thực hiện các hoạt động đó [24].
Khác với việc xác định các quan hệ tranh chấp dân sự, hôn nhân gia
đình và lao động chủ yếu dựa vào luật nội dung, sau đó đối chiếu với quy
định về thẩm quyền theo vụ việc do BLTTDS quy định để xác định tranh chấp
nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, việc xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp về kinh doanh thương mại lại dựa vào quy định của luật tố tụng, cụ
thể là BLTTDS và Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP. Nội dung
của Điều 29 BLTTDS được cụ thể hóa Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP như
sau:

13


“Hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều
hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt
động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các
hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh
thương mại”[30, tiểu mục 3.3, mục 3 Phần I].
Đối với mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh
doanh, thương mại được hướng dẫn “là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó

thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó” [30, tiểu mục 3.2, mục 3,
Phần I]. Đối với việc chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không dựa vào quy
định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP còn hướng dẫn bằng
hình thức liệt kê các tranh chấp được xác định là tranh chấp giữa công ty với
thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau cũng như quy định
điểm mở là các tranh chấp khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, chấm
dứt hoạt động của công ty được quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Đối
với quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS, Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP hướng dẫn rõ là chỉ cần 02 bên có mục đích lợi nhuận mà không cần
phải có đăng ký kinh doanh. Nếu chỉ một bên có mục đích lợi nhuận thì đó là
tranh chấp dân sự.
Tranh chấp thương mại là một loại tranh chấp pháp lí có nhiều khía
cạnh đặc thù, trong đó có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, do là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh nên nó chịu
sự chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như : Yếu tố lợi nhuận, bí
mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể tham gia.

14


Tranh chấp thương mại là hoạt động phát sinh từ hoạt động thương mại,
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Như vậy, với những hoạt động
này các chủ thể của các tranh chấp thương mại thường nảy sinh những vấn đề
rất nhạy cảm đòi hỏi các yếu tố trong tranh chấp thương mại phải liên quan
trực tiếp đến chủ thể tham gia các hoạt động thương mại và phát sinh tranh
chấp trên thực tế.
Hai là, tranh chấp thương mại chủ yếu phát sinh giữa các chủ thể kinh

doanh. Ngoài ra, còn có các tranh chấp giữa ít nhất một bên có hoạt động
thương mại hoặc tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau. Các mối quan hệ tranh chấp này thường mang
tính pháp lý và được giải quyết thông qua Tòa án để đạt hiệu quả cao nhất.
Ba là, các tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng nhiều
phương thức khác nhau bao gồm: Hoà giải; Thương lượng; Toà án; Trọng tài
thương mại.
Thông thường để giải quyết tranh chấp nhanh gọn nhất và vẫn đảm bảo
được tính công bằng thì nguời ta thường áp dụng phương tức giải quyết thông
qua Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, có những vụ việc thương mại, phải áp
dụng khoa học luật hình sự vào để giải quyết thì vấn đề này lại được các cơ
quan tiến hành tố tụng quyết định và được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình
sự. Tuy nhiên, tùy vào trường hợp để áp dụng chứ không rập khuân theo bất
cứ một vụ án nào khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một vụ việc tranh
chấp thương mại vì sẽ dễ dẫn đến oan sai.
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại
Nguyên tắc cơ bản trong trong một đạo luật là tổng hợp những tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo mang tính khái quát, xuyên suốt trong cả đạo luật.
Nội dung của các quy định tiếp theo chỉ là sự cụ thể hóa các tư tưởng, quan
điểm này

15


Tại Điều 1 của BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình
tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án dân sự, việc dân sự tại Toà án.

Trên cơ sở đó, BLTTDS này đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản như sau:
1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Theo Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự
định đoạt của đương sự được quy định như sau:
“Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách
tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội” [18].
Quan hệ kinh tế là những quan hệ được xác lập một cách tự nguyện,
xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà không có bất cứ sự cưỡng
ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Nói cách khác, sự xác lập
các quan hệ kinh tế hoàn toàn do các bên tự quyết định, và được Nhà nước
bảo đảm nếu không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Chính vì thế, khi phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà
nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; ngược lại, họ cũng có
quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà
nước bảo vệ. Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các
đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng. Các

16


đương sự có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ
việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc
thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong

các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
Trên thực tế, TAND khi giải quyết tranh chấp vẫn thường vi phạm
nguyên tắc này thể hiện ở việc giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự hoặc
không giải quyết hết yêu cầu đương sự, thậm chí có trường hợp giải quyết sai
so với yêu cầu của đương sự dẫn đến việc đương sự khiếu nại kéo dài, bản án,
quyết định của Toà án cấp dưới bị Toà án cấp trên huỷ để giải quyết lại.
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được
ghi nhận trong Hiến Pháp 1992. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều
văn bản pháp luật, trong đó có BLTTDS:
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình
thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều
kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” [18, Điều 8].
Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng kinh
doanh thương mại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện được sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khi tham gia tố tụng không phân biệt
đó là doanh nghiệp Nhà nước, công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân…
đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên

17


trong thực tế không phải lúc nào đương sự cũng thực hiện được quyền này.
Nhiều trường hợp do trình độ hiều biết của đương sự dẫn đến họ không thực
hiện được hết quyền của mình, như: Vấn đề khởi kiện, cung cấp chứng cứ hay
bào chữa trước Toà án... dẫn đến việc phải chịu phán quyết bất lợi hoặc có

trường hợp xuất phát ngày từ việc vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng
của Toà án hoặc quy định của pháp luật chưa phù hợp dẫn đến bất bình đẳng
cho các chủ thể tham gia. Đây là vấn đề lớn, để khắc phục được cần phải có
một lộ trình tiến hành đồng bộ từ giai đoạn xây dựng pháp luật, cải cách cơ
cấu tổ chức của Toà án đến việc nâng cao trình độ của các Thẩm phán cũng
như trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật của các cá nhân, tổ chức hoạt
động kinh doanh.
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh
chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án hình sự, trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thì Tòa
án không tiến hành thu thập chứng cứ mà:
“Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án
và chứng minh cho yêu cầu của minh là có căn cứ và hợp pháp”, “Tòa án chỉ
tiền hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp nhất định”
[18, Điều 6]. Điều 79 BLTTDS cũng quy định: “Đương sự có yêu cầu Toà án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”.
Việc pháp luật quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự
mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu
thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định là

18


×